ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG TƯỢNG TRONG TIẾP
NHẬN VĂN HỌC
___*****___
MỞ ĐẦU
Đất nước đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế. Xu hướng toàn cầu hóa
thể hiện trong nhiều phương diện đời sống xã hội trong đó có giáo dục. Nhiều quốc
gia trên thế giới đã đặt ra vấn đề giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phương pháp
giáo dục vì vậy cũng phải đổi mới cho phù hợp với xu thế chung của thời đại, trong
đó đặc biệt phải luôn phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo
của người học.
Trong quá trình giảng dạy nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, vai
trò của người giáo viên là vô cùng quan trọng: Là người điều khiển, hướng dẫn để
học sinh khám phá vẻ đẹp của văn bản văn học. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra cho
giáo viên là cần rèn luyện cho học sinh tự nhạy bén, linh hoạt và tư duy nhanh,
phát huy những khả năng mới vốn tiềm ẩn mà lâu nay các em chưa có điều kiện
khám phá, tạo cho các em sự mạnh dạn, tự tin khi đứng trước tập thể. Mặt khác,
đối với giáo viên dạy môn Ngữ văn, do đặc thù bộ môn, còn giúp học sinh cảm
nhận một cách phong phú, đa chiều vẻ đẹp của thế giới hình tượng nghệ thuật
thông qua khả năng liên tưởng, tưởng tượng kỳ thú của học sinh.
Hơn nữa, ở mỗi tác phẩm nghệ thuật, chúng ta khó có thể nhìn thấy được
hình dạng, nó không phải là vật thể mà là một chuỗi lời nói có khả năng khơi gợi ở
người đọc, người nghe những hình ảnh trong tâm tưởng. Văn thơ chỉ nghe được
bằng tai và chỉ thấy được bằng tâm trí. Tác phẩm nghệ thuật không tự nó đến được
với học sinh mà phải tìm ra cách tác động vào tư duy văn học, trong đó liên tưởng
và tưởng tượng là những nhân tố cơ bản nhất để học sinh có khả năng nhạy bén
nhận ra những sáng tạo hình tượng của tác phẩm trong quá trình tiếp nhận.
Như vậy, đi tìm hiểu Vai trò liên tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn học
là cơ sở, là nền tảng để chúng ta đi sâu vào thế giới văn học đồng thời góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của giờ học Văn.
Trong đề tài này, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài của nhóm
chúng tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về môn Văn trong nhà trường và việc tiếp nhận văn học
1.1. Khái quát về môn Văn trong nhà trường
1.2. Tiếp nhận văn học
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Thực trạng hiện nay của việc tiếp nhận văn học trong nhà
trường
Chương 2: Vai trò quyết định của liên tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn học
2.1. Liên tưởng, tưởng tượng – hoạt động tâm lí
2.1.1. Liên tưởng
2.1.2. Tưởng tượng
2.1.3. Mối quan hệ giữa liên tưởng, tưởng tượng
2.2. Liên tưởng, tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật
2.3. Vai trò quyết định của liên tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn
học
2.3.1. Liên tưởng, tưởng tượng giữ vai trò duy trì và điều chỉnh tính
tích cực thẩm mĩ của người tiếp nhận
2.3.2. Liên tưởng, tưởng tượng thể hiện được năng lực chủ quan của
người đọc trong việc tiếp nhận văn học
2.3.3. Liên tưởng, tưởng tượng là một hoạt động vô cùng cần thiết trong
quá trình chiếm lĩnh chân giá trị của tác phẩm văn chương
Chương 3: Một số giải pháp sư phạm nhằm khơi gợi, thúc đẩy hoạt động liên
tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn học
3.1. Xác lập tâm thế tiếp nhận văn chương cho học sinh bằng lời dẫn
3.2. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh trong tiếp
nhận văn học
3.3. Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong quá trình dạy tác phẩm
văn học
3.4. Đa dạng các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MÔN NGỮ VĂN TRONG NHÀ TRƯỜNG
VÀ VIỆC TIẾP NHẬN VĂN HỌC
1.1.
Khái quát về môn Ngữ văn trong nhà trường
Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống : “ Ngữ văn là cách gọi tên môn học hiện
hành của Việt Nam ( từ THCS đến THPT) và Trung Quốc ( cả 3 cấp ). Thật ra trên
thế giới và cả Việt Nam, từ trước đến nay, tên môn học này khá phức tạp, có nhiều
cách gọi khác nhau. Chúng tôi lấy tên Ngữ văn vì cho rằng nó có thể bao quát
chung cho cả ngữ và văn; hơn nữa đây cũng chỉ là quy ước mang tính tương đối.
Điều quan trọng là cấu trúc bên trong, nội hàm của thuật ngữ chứ không phải là tên
gọi. Trong thực tế từ trước đến nay, dù các văn bản chương trình có nhiều cách gọi
như Văn học, Ngữ văn hay Văn học và Tiếng Việt… thì nó vẫn thường được gọi là
môn văn. Và tên gọi cho dù thế nào thì cấu trúc nội dung của môn học này vẫn là 3
phần : tiếng Việt, văn học và làm văn. Trong đó Tiếng Việt là phần cung cấp những
kiến thức công cụ nền tảng để hình thành và phát triển năng lực học văn (tiếp nhận
văn bản) và năng lực làm văn (tạo lập văn bản).”
Môn văn học trong nhà trường là một loại hình sáng tác, tái hiện những vấn
đề của đời sống xã hội và con người. Phương thức sáng tạo của văn học được
thông qua sự hư cấu, cách thể hiện nội dung các đề tài được biểu hiện qua ngôn
ngữ. Khái niệm văn học đôi khi có nghĩa tương tự như khái niệm văn xuôi và
thường bị dùng lẫn lộn. Tuy nhiên về mặt tổng quát, khái niệm văn học thường có
nghĩa rộng hơn khái niệm văn chương, văn chương thường chỉ nhấn mạnh vào tính
thẩm mỹ, sự sáng tạo của văn học về phương diện ngôn ngữ, nghệ thuật ngôn từ.
Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu
hiện đời sống.
Đặc trưng của môn học Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn.
Các đặc trưng này thể hiện qua những mục tiêu cơ bản của nó và cách tiếp cận
những mục tiêu đó. Môn Ngữ Văn giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm
chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường
phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực
hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn
học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn
học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và
tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các
em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá
trình giúp học sinh phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có
sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Môn Ngữ văn ở trường
phổ thông không được dạy học như một bộ môn khoa học nhằm trang bị cho học
sinh hệ thống các khái niệm khoa học. Tất cả các năng lực và phẩm chất trên đây
đều được phát triển thông qua các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực
giao tiếp cơ bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch
sử văn học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện
tiến hành các hoạt động dạy học đó.
1.2.
Tiếp nhận văn học
1.2.1. Khái niệm
Qúa trình sáng tác- giao tiếp cảu văn chương có thể khái quát như sơ đồ sau:
Nhà văn – Tác phẩm – Bạn đọc
Như vậy quá trình này có 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 là giai đoạn hình thành ý đồ sáng tác, giai đoạn 2 là giai đoạn sáng tác,
giai đoạn 3 là giai đoan tiếp nhận của bạn đọc. Đây là giai đoạn văn bản tác phẩm
thoát li khỏi nhà văn để tồn tại một cách độc lập trong xã hội, trong từng người
đọc.
Tiếp nhận văn chương là sử dụng thế giới tinh thần ( tư tưởng – tình cảm…)
trong văn chương. Thế giới tinh thần tình cảm – tư tưởng đó toát ra từ những hình
tượng cụ thể do chất liệu ngôn ngữ xây dựng nên. Việc mua bán tác phẩm văn
chương đương nhiên không phải là tiếp nhận văn chương. Nhưng đọc văn chương
để tìm hiểu những cứ liệu lịch sử, địa lí, tâm lí, ngôn ngữ,… cũng không phải là
tiếp nhận văn chương đích thực. Mặc dù cùng đọc những quyển sách được viết ra
bằng những con chữ, nhưng đọc văn không phải như đọc tác phẩm chính trị hay
triết học.
Hoạt động tiếp nhận có vai trò quyết định đến sự tồn tại văn học. Tiếp nhận
văn học là hoạt động đọc hoặc nghe để thưởng thức tác phẩm, chiếm lĩnh các giá
trị văn học với mục đích giải trí, tìm hiểu nghiên cứu học tập hoặc bồi dưỡng năng
lực sáng tác. Thông qua ngôn từ người đọc dùng trí tưởng tượng của mình, hiểu
biết đối tượng được thể hiện, thưởng thức cái hay, cái đẹp và hiểu được tiếng nói
của tác giả. Tiếp nhận văn học là hoạt động giao tiếp đặc biệt của tác phẩm với
người đọc cùng thời hoặc sau thời, do đó có khoảng cách giữa tác phẩm với người
đọc.
1.2.2. Thực trạng hiện nay của việc tiếp nhận văn học trong nhà trường
Không giống với các bộ môn khác được giảng dạy trong nhà trường, môn
văn học có một đặc trưng rất riêng, nó đòi hỏi người học phải có một khả năng tư
duy trừu tượng cao. Người học văn không phải là chỉ biết đến những sự kiện, hiện
tượng được đề cập tới mà phải có những rung cảm thật sự trước một tác phẩm văn
học, một sự kiện văn học. Và chỉ khi có được tình cảm đó mới thấy hết được cái
hay, mới yêu thích môn văn hơn. Để làm được điều này đòi hỏi người học phải có
khả năng liên tưởng, tưởng tượng.
Hiện tượng liên tưởng, tưởng tượng ở học sinh khá phong phú: Nhiều học
sinh thể hiện được khả năng nhạy bén khi tri giác ngôn ngữ, tái hiện hình tượng
làm tiền đề cho những liên tưởng, tưởng tượng.
Trong thực tế hiện nay, tuy hiện tượng liên tưởng, tưởng tượng phong phú
nhưng khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh trong giờ văn còn rất hạn
chế. Hầu hết các em chỉ mới biết tái tạo lại tác phẩm tức là chỉ nói được những gì
trong tác phẩm đã có, còn khả năng cảm thụ văn học rất yếu. Các em không có khả
năng suy nghĩ độc lập nên gặp khó khăn khi phải trả lời các câu hỏi suy luận hay
cảm thụ văn học. Trước những vấn đề văn học cần phải bộc lộ quan điểm, các em
thường dựa vào đánh giá của người khác trong sách vở hoặc ở bài giảng của thầy
cô giáo. Đối với các bài viết nếu không là sự bắt chước khuôn sáo thì nội dung rất
sơ sài, ngôn ngữ diễn đạt nghèo nàn, cách cảm và hiểu tác phẩm hết sức nông cạn.
Có những liên tưởng, tưởng tượng nông cạn và sai lệch đáng lo ngại: cụ thể
là học sinh thường kể lại tác phẩm, mô phỏng lời văn hoặc diễn xuôi các câu thơ,
làm cho tác phẩm văn học trở nên đơn nghĩa.
Liên tưởng và tưởng tượng chưa được thực sự quan tâm đúng mức: Nguyên
nhân có thể do giáo viên có ít điều kiện quan tâm đến diễn biến hoạt động tiếp
nhận của học sinh, hoặc do sự phân phối thười gian cho mỗi bài học chưa hợp lí;
vẫn còn một bộ phận giáo viên thường chỉ chú ý phân tích ngôn từ cụ thể, các thủ
pháp nghệ thuật chưa chú ý đến những phương diện khác có thể kích thích hứng
thú nhận thức sáng tạo của học sinh.
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ QUYẾT ĐỊNH CỦA LIÊN TƯỞNG, TƯỞNG
TƯỞNG TRONG TIẾP NHẬN VĂN HỌC
2.1. Liên tưởng, tưởng tượng – hoạt động tâm lí
2.1.1. Liên tưởng
Nhờ sự vận hành của trí nhớ, con người có khả năng phản ánh, lưu giữ được
những hình ảnh, sự kiện từng trải trong quá khứ. Trong vỏ não, mỗi lần có sự nhớ
lại thì lại xảy ra một quá trình liên tưởng. Liên tưởng chỉ mối liên hệ giữa các yếu
tố tâm lí, nhờ đó sự xuất hiện của một yếu tố này trong những điều kiện nhất định
gây nên một yếu tố khác liên quan với nó.
2.1.2. Tưởng tượng
Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở
những biểu tượng đã có. Khả năng lựa chọn và kết hợp các hình ảnh là cơ sở của
tưởng tượng, khả năng kết hợp các khái niệm theo một cách mới là cơ sở của tư
duy. Khi hoàn cảnh mang tính chất bất định lớn thì quá trình giải quyết nhiệm vụ
diễn ra theo cơ chế tưởng tượng.
2.1.3 Mối quan hệ giữa liên tưởng và tưởng tượng
Liên tưởng có được nhờ cảm xúc và trí nhớ, còn tưởng tượng là kết quả của
quá trình cảm giác, quá trình tri giác – trong đó có giai đoạn huy động trí nhớ và
liên tưởng. Liên tưởng vừa là một hoạt động tâm lí độc lập, đồng thời cũng có thể
xem nó là một giai đoạn, một thao tác trong quá trình tưởng tượng. Nhờ có liên
tưởng, những hình ảnh mà tưởng tượng tạo ra được hoàn thiện và phong phú, sinh
động; và ngược lại, nếu khả năng liên tưởng kém – những hình ảnh mà tưởng
tượng tạo ra sẽ hạn chế và phiến diện.
2.2. Liên tưởng, tưởng tượng trong sáng tạo nghệ thuật
Sáng tạo nghệ thuật nói chung và sáng tạo văn học nói riêng đều là những
phương thức phản ánh đời sống bằng hình tượng thông qua lăng kính chủ quan của
người nghệ sĩ. Được gợi từ đời sống, các tác giả thường phải trải qua quá trình cảm
thụ, trau dồi vốn sống và lựa chọn dữ liệu, phương thức xây dựng tác phẩm – trong
đó liên tưởng, tưởng tượng được xem như những quá trình tâm lí sáng tạo đặc thù.
Bản thân sự liên tưởng hay huy động trí nhớ đã hàm nghĩa tính lựa chọn
nghệ thuật, và sự giàu có liên tưởng chứng tỏ khả năng phong phú của thế giới nội
tâm nhà văn.
Tâm lí học sáng tạo nghệ thuật cho rằng: ý niệm con người gợi lên không
đơn độc mà thường gợi lên cả một hệ thống tiềm tàng. Trong sáng tạo văn học có
liên tưởng kí ức, liên tưởng gần giống, liên tưởng giống nhau, liên tưởng nhân quả,
liên tưởng tương phản…
Sức liên tưởng là đặc trưng của tâm lí nhà văn khi sáng tạo những hình
tượng mới mẻ hoặc điển hình hóa nhân vật và hoàn cảnh – thể hiện chức năng và
thuộc tính tất yếu của văn học.
* Mối quan hệ giữa trí nhớ - liên tưởng và tưởng tượng trong sáng tác:
là mối quan hệ gắn bó hữu cơ mà tình cảm và biểu tượng là hạt nhân liên kết. Nhờ
có mối quan hệ nội tại và bản chất như vậy, tưởng tượng giúp nhà văn đến gần bản
chất cuộc sống, phản ánh được quy luật vận động tất yếu của xu thế thời đại. Trong
sáng tạo văn học có tưởng tượng tái hiện (dựa trên cơ sở quy nạp các ấn tượng của
trí nhớ) và tưởng tượng sáng tạo (dựa trên những vân động tự do không lệ thuộc
những ấn tượng có trước). Cả hai trường hợp đều dựa trên dữ liệu của trí nhớ.
2.3. Vai trò quyết định của liên tưởng, tưởng tượng trong tiếp nhận văn học
2.3.1. Liên tưởng, tưởng tượng giữ vai trò duy trì và điều chỉnh tính tích cực
thẩm mỹ của người tiếp nhận
Văn học phản ánh đời sống bằng ngôn ngữ hình tượng. Với những thuộc
tính: Chính xác, hàm xúc, đa nghĩa, tạo hình và biểu cảm – ngôn ngữ được xem là
“ yếu tố thứ nhất” của văn học, trong đó tính hàm xúc có khả năng ẩn chứa những
khuynh hướng suy tưởng và đa nghĩa – tạo tiền đề cho các liên tưởng nghệ thuật
trong người đọc. Một từ then chốt( nhãn tự ) có thể là điểm sáng thẩm mỹ, là trung
tâm của một “trường liên tưởng”. Tính chất của một “trường liên tưởng” từ vựng –
ngữ nghĩa bao gồm: Tính dân tộc, tính thời đại, và tính cá nhân. Sự liên tưởng vận
hành theo cơ chế: Khi đứng trước hoặc nghĩ tới một thực tế nào đó( được gọi tên
bằng một từ ngữ ) thì nhờ kinh nghiệm sống – nó sẽ gởi lại những sự vật, sự kiện
liên quan đến nó. Cùng với trường liên tưởng ngữ nghĩa, các yếu tố khác như: ký
ức, kinh nghiệm tư duy nghệ thuật, linh cảm...Cũng có vai trò tích cực giúp người
đọc cảm, hiểu được sức hấp dẫn của hình tượng văn học, đồng thời là một cơ sở để
người đọc tự biểu hiện và thanh lọc cảm xúc thẩm mỹ.
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, ông viết:
“ Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”
Với ngôn ngữ trong tác phẩm là vậy, lúc này với cái kinh nghiệm tư duy nghệ thuật
hay là ý niệm về cái đẹp, người đọc bắt đầu liên tưởng đến một đôi mắt lomg lanh,
trong như làn nước mùa thu( làn thu thủy); đôi lông mày thanh tú như nét xuân
sơn. Tác giả sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng với chuẩn mực của thiên nhiên
để làm đối tượng so sánh. Vẻ đẹp của Kiều lộng lẫy đến mức khiến thiên nhiên, tạo
hóa phải đố kỵ, phải ghen ghét: Hoa ghen, liễu hờn. Điều đó chứng tỏ nhan sắc của
Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ, ngoài quy luật của tự nhiên. Dựa vào đó người
đọc mới có thể tưởng tượng, hình dung ra Thúy Kiều đẹp như thế nào. Nếu không
có sự liên tưởng, tưởng tượng mà chỉ đơn thuần đọc suông những con chữ trên văn
bản thì ta không thể nào hình dung được vẻ đẹp tuyệt trần của Thúy Kiều.
2.3.2. Liên tưởng, tưởng tượng thể hiện được năng lực chủ quan của
người đọc trong việc tiếp nhận văn học
Liên tưởng, tưởng tượng có một vai trò hết sức quan trọng đối với môn Văn.
Liên tưởng, tưởng tượng không những giúp người đọc xác định đúng những ấn
tượng trực cảm, chủ quan khi tiếp xúc với văn bản mà thông qua quá trình phân
tích sẽ giúp người đọc chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính để từ
đó người đọc đi vào chiều sâu, bề rộng của nhận thức, tạo cơ sở khách quan trong
thao tác đánh giá toàn bộ giá trị tác phẩm. Phecdăngđơ Xuya, một học giả phương
Tây nhận xét: “ Trong cuộc sống tồn tại bao nhiêu thứ quan hệ thì trong đầu óc con
người có bấy nhiêu chuỗi liên tưởng”. Nói cách khác: Liên tưởng là hiện tượng
mang tính phổ biến, góp phần biểu thị các mối quan hệ đa dạng và phức tạp của
đời sống. Nhờ có liên tưởng, cuộc sống con người trở nên phong phú và mang tính
xã hội. Liên tưởng có chức năng như là cầu nối tư tưởng giữa con người với con
người, giữa con người với thế giới xung quanh, giữa các chiều không gian với thời
gian, giữa thế giới vĩ mô và thế giới vi mô...Liên tưởng là hiện tưởng mang tính
phổ biến không chỉ phản ánh các quá trình tâm lý mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến
nhiều lĩnh vực khác trong cuộc sống con người. Những người có khả năng liên
tưởng, tưởng tượng tốt bao giờ cũng là người có đời sống tâm hồn phong phú.
Trong quá trình sáng tác, người nghệ sĩ nếu không có sự liên tưởng, tưởng
tượng bên cạnh tài năng, vốn sống, sự hiểu biết...thì không xây dựng được thế giới
nghệ thuật sống động trong tác phẩm. Còn người đọc thiếu sự liên tưởng, tưởng
tượng thì văn phong sẽ nghèo nàn, khô khan, không còn hấp dẫn.
Chẳng hạn như trong bài thơ “ Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.
Đọc những câu thơ này, trong mắt người đọc hiện lên những hình ảnh của một lối
sống an nhàn, thanh cao của nhà thơ. Ngoài ra nhịp điệu của câu thơ cũng góp
phần làm cho người đọc cảm nhận được trạng thái ung dung của nhân vật trữ tình
trong cuộc sống hằng ngày. Hình ảnh con người hiện lên thật nhàn hạ, thảnh thơi,
không bận chút cơ mưu tư dục. Lối sống ấy khiến người đọc liên tưởng tới phong
thái thong dong của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn trong “Bài ca Côn Sơn”:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai”
Như vậy, không chỉ hình dung cuộc sống an nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm dựa
trên những câu từ nhà thơ viết nên, người đọc còn có thể liên tưởng đến những
hình ảnh tương tự về một cuộc sống cũng ung dung thong thả như thế ở Nguyễn
Trãi. Qua đó cho thấy liên tưởng tưởng tượng thể hiện được năng lực chủ quan của
của người đọc trong việc tiếp nhận văn học.
2.3.3 Liên tưởng, tưởng tượng là hoạt động vô cùng cần thiết trong quá trình
chiếm lĩnh chân giá trị của tác phẩm văn học
Chúng ta nói văn học tác động đến người đọc một cách toàn diện, nghĩa là
cả mặt lí trí và tình cảm. Đó là điều đương nhiên. Bởi lẽ mỗi tác phẩm văn học
được viết ra, ngoài những nội dung thông tin nhằm mở rộng hiểu biết và nâng cao
nhận thức, còn chất chứa tấm lòng của người sáng tác. Phải thật sự có cái tình ấy,
thì tác phẩm mới có thể đi sâu gợi tình và chính nó cũng là sợi dây liên cảm đánh
thức dậy trong lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt. Ai có thể đọc mà không
cảm phục một Hamlet, yêu mên một Giăng Van Giăng (Những người khốn khổ),
hay không cảm động trước mối tình Romeo và Juliet bi thương. Văn học đủ sức
làm rung lên cả những con tim tưởng như đã chai cứng, những tâm hồn ngỡ như
cằn cỗi, già nua. Trước cuộc sống thực tại, ta có thể bình thản nhưng trước những
cuộc đời bi thương trong tác phẩm thì mấy ai có thể cầm lòng. Nói như vậy không
có nghĩa là tác phẩm văn học đã hư cấu một cách quá đà những gì thuộc về cuộc
sống mà ngược lại những tác phẩm ấy đã dùng thứ ngôn ngữ hoàn chỉnh, lạ lùng để
cô đọng những ý nghĩ, những cảm xúc, những giọt máu và những giọt lệ đắng cay,
nóng bỏng của thể gian này (M.Gorki). Giữa người đọc và người sáng tác, sợi dây
nối liền chính là tác phẩm. Mối quan hệ này tưởng như đơn giản nhưng thực ra rất
quan trọng. Người đọc chỉ có thể hiểu được tâm trạng của tác giả và cảm thông với
những số phận của nhân vật khi tác phẩm đó mang đầy đủ giá trị nội dung, nghệ
thuật và quan trọng hơn là giá trị nhân đạo.
Trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có câu:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Khách thể là một khung cảnh hiểm trở của núi rừng “khúc khuỷu”, “heo hút” nói
lên khung cảnh hiểm trở của núi rừng và ta liên tưởng đến sự vất vả và gian lao của
cuộc hành quân. Như vậy, khách thể không thể vẽ hết những tâm tình của người
chiến sĩ mà chỉ có tâm hồn của con người mới diễn đạt được suy nghĩ và cảm xúc
và chính cái tâm hồn ấy là giá trị thực của con người.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP SƯ PHẠM NHẰM
THÚC ĐẨY, KHƠI GỢI HOẠT ĐỘNG LIÊN TƯỞNG,
TƯỞNG TƯỢNG TRONG TIẾP NHẬN VĂN HỌC
3.1. Xác lập tâm thế tiếp nhận văn chương cho học sinh bằng lời dẫn
Có nhiều cách tạo ra tâm thế (sự tập trung của ý thức) của học sinh để góp
phần nâng cao khả năng tiếp nhận văn học. Với đặc thù của bộ môn, việc thể hiện
lời dẫn của giáo viên trong giờ dạy học tác phẩm văn chương có ý nghĩa không
nhỏ.
Lời dẫn của giáo viên khi vào bài có ý nghĩa tạo ra một tâm thế đặc trưng
cho học sinh định hướng nhận thức. Đó chính là việc thiết lập một dòng liên tưởng
cảm xúc hoặc mở ra một dự cảm khái quát cho những hình dung, tưởng tượng
nghệ thuật của học sinh. Lời vào bài của giáo viên phải mở ra được tình huống hay
không khí mới lạ, kích thích hưng phấn và gây được sự chú ý đặc biệt cho học sinh.
Về nội dung, lời vào bài cần ngắn gọn, xúc tích, nêu được vấn đề một cách
ấn tượng, xác định rõ ràng đối tượng cho bài học.
Về hình thức, tuỳ từng yêu cầu, đặc điểm bài học tác phẩm văn chương có
thể linh hoạt thực hiện bằng lời dẫn trực tiếp hoặc lời dẫn gián tiếp. Trong đó, lời
dẫn trực tiếp là lời dẫn có tính chất định tính, định danh vấn đề.
Ví dụ: “Giá trị tiêu biểu của nội dung Truyện Kiều là cảm hứng nhân văn của
Nguyễn Du trong việc thể hiện tiếng nói ca ngợi những giá trị phẩm chất đẹp đẽ,
đồng tình với những khát vọng giải phóng và đồng cảm với số phận bi kịch của
con người; tiếng nói lên án những thế lực tàn bạo. Để tìm hiểu cụ thể một trong
những nội dung tiêu biểu đó-sự đồng cảm với nỗi đau khổ của con người, chúng ta
cùng tìm hiểu đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.”
Còn lời dẫn gián tiếp là loại lời dẫn có tính chất phản đề hoặc nêu vấn đề để
tăng cường sự chú ý của học sinh vào đối tượng.
Ví dụ: “Có ý kiến cho rằng, một trong những phương tiện mà đại thi hào dân
tộc Nguyễn Du thể hiện trong Truyện Kiều là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Để tìm
hiểu điều này, chúng ta cùng phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.”
Nói đến tâm thế học văn cũng là nói đến những tình huống sư phạm đặc thù
mà giáo viên thiết kế để khơi dậy trong học sinh hứng thú tiềm tàng và động cơ
học tập tích cực; khơi dậy khát khao giao cảm với thế giới nghệ thuật; khơi dậy
nhu cầu giao tiếp và đối thoại với nhà văn một cách tự nhiên, nhu cầu tự bộc lộ của
bản thân và năng lực sáng tạo trong quá trình tiếp nhận. Tình huống đó không chỉ
dùng để mở đầu bài học mà nó cần được duy trì một cách thích hợp xuyên suốt
toàn bộ quá trình tiếp cận, phân tích, cắt nghĩa, đánh giá tác phẩm văn chương.
3.2. Khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh trong tiếp nhận
văn học
Liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh được phát huy trong từng
bước chiếm lĩnh tác phẩm .
Do tính đặc thù của môn học, đọc là một hoạt động không thể thiếu. Bởi đọc
gắn liền với tiếp nhận. Đọc văn không chỉ là việc phát âm thông thường mà là quá
trình “thức tỉnh cảm xúc”, quá trình tri giác ngôn ngữ nghệ thuật đồng thời với việc
vận dụng kinh nghiệm, kỹ năng sống của bản thân người đọc để từ đó giải mã ngôn
ngữ nghệ thuật. Để khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng tích cực của học sinh, có thể
yêu cầu học sinh đọc theo các mức độ:
- Đọc lướt để tạo ấn tượng chung về tác phẩm
- Đọc tập trung vào “điểm sáng thẩm mỹ” để tạo nên sức biểu hiện nổi bật của
bức tranh nghệ thuật.
- Đọc nhấn mạnh âm hưởng chủ đạo và giọng điệu của nhà văn nhằm tạo nên sự
thống nhất về tư tưởng thẩm mỹ và phong cách nghệ thuật của tác giả.
- Đọc diễn cảm (hoặc nhập vai, đọc theo vai) để tô đậm giá trị nội dung tư
tưởng và hình thức nghệ thuật của tác phẩm.
Các mức độ đọc trên có thể được thể hiện trong hai giai đoạn là đọc chuẩn bị
(ở nhà) và đọc trên lớp. Yêu cầu trước hết của việc đọc chuẩn bị là đọc tác phẩm
kết hợp với đọc chú thích để hiểu được nghĩa công cụ (nghĩa văn bản), chính là tạo
tiền đề để xác định lớp nghĩa văn cảnh (nghĩa chức năng, nghĩa văn học) của ngôn
ngữ.
Trên cơ sở của việc đọc chuẩn bị, giáo viên có thể tiến hành hướng dẫn học
sinh đọc ở lớp với sự tái hiện lại kiến thức mà học sinh đã tiếp nhận được trong khi
đọc chuẩn bị. Xác định giọng điệu của nhà văn dựa trên dấu hiệu hình thức và
nguyên tắc tổ chức hình tượng của tác phẩm, có thể căn cứ vào thể loại, phong
cách tác giả… để tìm ra đặc điểm tiết tấu âm thanh, nhịp điệu của ngôn ngữ.
Trong giờ học, đọc không chỉ xuất hiện với ý nghĩa khởi đầu mà thao tác đọc
còn tham gia suốt quá trình phân tích, so sánh, khái quát và luyện tập. Vì thế,
những liên tưởng, tưởng tượng trong giai đoạn đọc chuẩn bị vừa có ý nghĩa khởi
đầu vừa xác định tâm thế cho những rung động thẩm mỹ ban đầu; liên tưởng và
tưởng tượng trong giai đoạn đọc để phân tích có vai trò kiểm chứng, minh họa; liên
tưởng và tưởng tượng trong đọc để so sánh, khái quát có ý nghĩa tái hiện toàn vẹn
bức tranh nghệ thuật của tác phẩm.
Cùng với quá trình đọc của học sinh, giáo viên có thể có những hình thức
gợi mở khác. Chẳng hạn, hình thức gợi mở bằng lời dẫn Ví dụ: Với văn bản Lặng
Lẽ SaPa của Nguyễn Thành Long, phải đọc theo yêu cầu thể hiện nổi bật tính cách
từng nhân vật trong truyện: Bác lái xe tuy già nhưng tính khí sôi nỗi; ông họa sĩ
trầm lặng sâu lắng; cô gái hồn nhiên nhưng kín đáo; đặc biệt anh thanh niên yêu
nghề, bộc trực vô tư. Sau khi tổ chức đọc, xác định nhân vật chính, giáo viên có thể
chuyển tiếp bằng lời dẫn: Như vậy trong truyện ngắn này tuy không có sự đối lập
về tuyến nhân vật, song lại có thể thấy rõ ranh giới và mối quan hệ giữa nhân vật
chính và các nhân vật khác. Đó cũng là một gợi ý, một căn cứ để khai thác giá trị
truyện. Nếu tìm hiểu truyện này theo gợi ý trên, theo em sẽ phân tích theo mấy ý
chính, đó là những ý nào?.
Phân tích tác phẩm là thao tác tiếp nhận mang tính chất lý tính, từng bước
minh giải cụ thể các yếu tố cảm tính và những yếu tố đã khái quát trong thao tác
tiếp cận. Việc lựa chọn vấn đề và cách thức phân tích phù hợp sẽ có ý nghĩa định
hướng cho các thao tác tiếp nhận tiếp theo. Chọn “trúng” vấn đề và cách thức phân
tích phù hợp là cơ sở khách quan cho việc xác định phương hướng của liên tưởng,
tưởng tượng nghệ thuật ở học sinh.
Thao tác cắt nghĩa trong giảng văn là làm sáng tỏ những vấn đề đã tiếp cận
và phân tích. Cắt nghĩa thường gắn liền với lời giảng bình. Lời giảng bình của giáo
viên vừa đảm bảo yêu cầu định hướng tiếp nhận, vừa định hình kiến thức thông
qua khả năng kết nối những khuynh hướng liên tưởng tích cực và có thể gạt bỏ các
liên tưởng tản mạn, liên tưởng không bản chất; đồng thời tập trung và mở rộng
tưởng tượng sáng tạo, giúp học sinh khai thác đúng và sâu sắc những phương tiện
bản chất của tác phẩm văn chương.
Ví dụ: Trong quá trình phân tích mối quan hệ giữa lão Hạc với con chó (Lão
Hạc-Nam Cao), giáo viên có thể định hướng bằng lời giảng bình: “Từ khi con trai
ký giấy xin đi làm đồn điền cao su, lão Hạc vẫn hy vọng ngày con trở về sẽ cưới vợ
cho con; và theo lão, khi ấy lão mới giết thịt con chó. Nhưng trước tình cảnh khốn
khó, lão đã phải bán “cậu Vàng”. Việc đó cũng đồng nghĩa với việc lão Hạc đã tiêu
diệt hy vọng cuối cùng và lặng lẽ chuẩn bị cho cái chết bế tắc của mình. Tuy nhiên
về nguyên nhân sâu xa, lão bán “cậu Vàng” còn một lý do khác, theo em đó là lý
do gì?”.
Đánh giá là thao tác khái quát tác phẩm văn chương. Có thể đánh giá bằng
nhận định hoặc nêu vấn đề tranh luận, so sánh mở rộng vấn đề, hướng tới nhu cầu
tự nhận thức của học sinh, nhằm hình thành kỹ năng “phân biệt”, kỹ năng “định
hình” và khắc sâu kiến thức.
3.3. Xây dựng câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng trong dạy học tác phẩm văn
chương
Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng nhằm mục đích gợi mở, vận dụng trí nhớ,
lựa chọn và huy động tối đa kinh nghiệm cá nhân, hướng học sinh vào hiện thực
tâm lý của tác phẩm bằng những câu trả lời kiến thức, xác lập mối quan hệ giữa tác
phẩm với nội dung bài học.
Yêu cầu của loại câu hỏi này là đặt học sinh trước nhu cầu tái hiện hình
tượng tác phẩm làm căn cứ cho những kiến giải và cắt nghĩa nghệ thuật. Những
liên tưởng, tưởng tượng thể hiện qua việc trả lời các câu, trả lời các câu hỏi này sẽ
là những sợi dây nối kết những chân trời kiến thức, sẽ là hình tượng tác phẩm được
tiếp nhận một cách trọn vẹn.
Hệ thống câu hỏi trong bài dạy học tác phẩm văn chương gồm nhiều dạng,
trong đó câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng có thể là: liên tưởng hiện thực xác định
của tác phẩm trong quan hệ với hiện thực của đời sống xã hội; liên tưởng mối quan
hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh, giữa không gian và thời gian nghệ thuật, giữa các
nhân vật với nhau và với hoàn cảnh điển hình; liên tưởng hình ảnh, hình tượng,
biểu tượng của tác phẩm này với tác phẩm khác; tưởng tượng về khả năng phát
triển của hình tượng nghệ thuật; tưởng tượng tâm trạng của tác giả khi lựa chọn
một chi tiết hay một số hình ảnh tiêu biểu của tác phẩm; …
Ví dụ: hệ thống câu hỏi khi dạy học tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao như
sau:
+ Đọc câu chuyện, chúng ta thấy tác giả xây dựng hình ảnh nhân vật lão Hạc
trong mối quan hệ nào?
+ Trong mối quan hệ đó, đâu là mối quan hệ có vai trò mở đầu câu chuyện?
+ Tại sao lão Hạc lại phân vân, đắn đo trước việc bán một con chó?
+ Đọc tác phẩm, em thấy lão Hạc quý con chó như thế nào?
+ Theo em, tại sao lão Hạc lại quý con chó như vậy?
+ Yêu quý “cậu Vàng” như vậy, tại sao lão vẫn phải bán nó? Tâm trạng của
lão khi bán nó như thế nào?
+ Hãy tưởng tượng lại cảnh tượng trên và theo em vì sao lão Hạc lại xúc
động như vậy? (Câu hỏi liên tưởng mối quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh)
+ Về nguyên nhân sâu xa, lão bán “cậu Vàng” vì lý do gì?
+ Hình dung theo lời kể, em có nhận xét gì về người con trai lão Hạc?
+ Theo em, tình cảm của lão Hạc đối với người con trai của mình như thế
nào?
+ Đọc tác phẩm, em thấy cái chết của lão Hạc được miêu tả ra sao?
+ Theo em, tại sao lão Hạc lại chọn cái chết như vậy?
+ Tuy vậy, về cách sống của lão Hạc trong tác phẩm vẫn còn có các ý nghĩ
khác? Theo em, vì sao họ lại nghĩ như vậy? (Câu hỏi tưởng tượng về khả năng phát
triển của hình tượng nghệ thuật trung tâm)
+ Qua cách nghĩ của ông giáo về lão Hạc, em có nhận xét gì về ông giáo?
(Câu hỏi liên tưởng mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau)
+ Em có nhận xét gì về nghệ thuật xây dựng truyện Lão Hạc của Nam Cao?
(Câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng về điểm nhìn nghệ thuật của tác giả với hiệu quả
nghệ thuật của tác phẩm)
+ Theo em, chủ đề của tác phẩm là gì? (Câu hỏi liên tưởng hiện thực xác
định của tác phẩm trong quan hệ với hiện thực của đời sống xã hội)
Nhằm phát huy ưu điểm của các câu hỏi liên tưởng, tưởng tượng, cần kết
hợp thực hiện một chuỗi các công việc từ đọc đến dẫn dắt các vấn đề, gợi mở, yêu
cầu học sinh phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát…, đặt biệt là không tách rời hệ
thống câu hỏi trong dạy học tác phẩm.
3.4. Đa dạng các hình thức luyện tập sáng tạo của học sinh
Luyện tập là thao tác sư phạm nhằm kiểm tra, đánh giá, cũng là biện pháp để
giáo viên thu nhận tín hiệu phản hồi từ kết quả lĩnh hội của học sinh; đồng thời qua
đó khắc sâu kiến thức của học sinh theo định hướng của giáo dục.
Có nhiều hình thức và biện pháp thực hiện thao tác luyện tập như: đọc diễn
cảm, đọc phân vai; tái hiện một tình huống then chốt trong tác phẩm hoặc toàn bộ
tác phẩm; hình dung dự đoán kết thúc tác phẩm; đặt lại tên tác phẩm; xây dựng lời
thoại hay lời tâm sự với nhân vật; tập so sánh, khái quát…
Ví dụ 1: Hãy thử tưởng tượng tâm trạng của tráng sĩ làng Gióng sau khi
đánh tan giặc Ân rồi cùng ngựa bay lên trời.
Ví dụ 2: Em hãy viết một bức thư chia sẻ tâm sự với nhà văn về cách xây
dựng truyện Cô bé bán diêm.
Ví dụ 3: Hãy kể một tấm gương thiếu niên hy sinh dũng cảm mà em đã được
nghe, được đọc? (Sau khi đọc bài Lượm của Tố Hữu)
Ví dụ 4: Em hãy hình dung tâm trạng của cụ Bơmen khi vẽ chiếc lá trường
xuân trong đêm mưa gió.(Chiếc lá cuối cùng của Ô.Henri).
Ví dụ 5: “Giả sử một ngày nào đó con trai lão Hạc trở về và đứng trước nấm
mồ của lão, em thử hình dung và dự đoán-người con trai đó sẽ nghĩ gì và nói gì với
bố?”
Ví dụ 6: Giả sử được gặp nhân vật Trương Sinh trong tác phẩm Chuyện
người con gái Nam Xương (Trích Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ) khi chàng
vừa lập đàn gọi vợ, em sẽ nói những điều gì?
Ví dụ 7: Từ ba câu thơ cuối của bài thơ Đồng chí (Chính Hữu), em hãy miêu
tả lại cảnh tượng đó.
Ví dụ 8: Hãy tưởng tượng, em đã gặp tiểu đội xe không kính (Trong “Bài
thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật) trên tuyến đường Trường Sơn
và kể lại cuộc gặp gỡ ấy.
Ví dụ 9: Theo em, tại sao tác giả lại đặt tên tác phẩm là Lặng Lẽ SaPa ? Nếu
có thể đặt lại tên cho truyện, em sẽ đặt như thế nào?
Ví dụ 10: Nếu như được gặp bác Ba – bạn của anh Sáu (“Chiếc lược ngà” –
Nguyễn Quang Sáng), em sẽ hỏi thêm điều gì?
KẾT LUẬN
Liên tưởng, tưởng tượng nghệ thuật là hoặt động tâm lí đặc thù của sáng tác,
phê bình và tiếp nhận văn học. Nhà văn thông qua liên tưởng và tưởng tượng để tái
hiện và khái quát đời sống, sáng tạo hình tượng, sử dụng liên và tưởng tượng như
những phương tiện nghệ thuật nhằm thực hiện nhu cầu bộc lộ tư tưởng, thái độ,
tình cảm trong tác phẩm. Người đọc thông qua kinh nghiệm và năng lực cá nhân đẻ
tri giác ngôn ngữ nghệ thuật, bằng liên tưởng và tưởng tượng thẩm mĩ để tái tạo
nhận thức đời sống mà nhà văn thể hiện. Đối với người đọc, liên tưởng và tưởng
tượng nghệ thuật được xem như những phương thức sáng tạo đặc thù nhằm chiếm
lĩnh, tiếp cận giá trị, bản chất của hình tượng văn học.
Khả năng liên tưởng, tưởng tượng phong phú của người sáng tác có ý nghĩa
quyết định sự đa dạng và hấp dẫn, sức lây động và khả năng lấp lánh của hình
tượng nghệ thuật trong tác phẩm, và khả năng liên tưởng , tưởng tượng sáng tạo ở
người đọc sẽ nhân lên cho hình tượng của tác phẩm những sức sống mãnh liệt
thông qua sự gặp gỡ, đồng điệu và giao cảm tâm hồn. Như vậy, đối với cả hai lĩnh
vực sáng tác và tiếp nhận, liên tưởng và tưởng tượng nghệ thuật đều hướng tưới
mục đích sáng tạo và nhận thức giá trị thẩm mĩ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.“Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam và hướng phát
triển sau 2015” – Đỗ Ngọc Thống trên />2. />3. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học văn, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội,2008.
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT
1
2
3
4
5
6
TÊN
PHAN THỊ HAI
TRẦN THỊ THANH VI
PHẠM THỊ NGỌC VY
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG YÊN
BÙI NGUYÊN VỆ CẨM
CÔNG VIÊC
PHẦN
TRĂM
100%
100%
100%
100%
90%
90%