Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Đề cương môn Giao tiếp và Đám phán kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.56 KB, 13 trang )

đề cương môn: giao tiếp và đphkd
Câu 1:trình bày đặc trưng của giao tiếp xã hội:
-“Giao tiếp là hành vi và quá trình trong đó con người tiến hành trao đổi thông
tin với nhau, nhận thức, đánh giá về nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau”.
đặc trưng:
- Tính bản chất xã hội: Bản chất xã hội thể hiện ở chỗ bất cứ một giao tiếp nào
cũng là một quan hệ xã hội, thông qua sự trao đổi, tiếp xúc giữa con người với
con người. Quá trình tiếp xúc này hình thành nên các chuẩn mực, các giá trị, các
nhu cầu, lợi ích,… của xã hội; của một nhóm người trong xã hội hay của cá nhân
tham gia. Mặt khác mục đích, động cơ, phương tiện giao tiếp của mỗi cá nhân
cũng đều do xã hội quy định, chế ước.
- Tính chủ thể trong giao tiếp: Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi các cá
nhân cụ thể. Họ là chủ thể của sự trao đổi hay tác động. Họ là các cặp chủ thể-
đối tượng luôn luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn
nhau, chính vì thế người ta nói giao tiếp là một dạng đặc biệt của hoạt động, nó
chỉ là hoạt động mang cấu trúc kép.
- Tính nhận thức người khác: Trong giao tiếp, các bên tham gia giao tiếp không
chỉ trao đổi thông tin với nhau mà còn tìm hiểu, nhận thức lẫn nhau. Trên cơ sở
nhận thức người khác để đánh giá bản thân mình, họ có xu hướng tìm kiếm ở
người khác để xem ý kiến của mình có đúng không, có được thừa nhận không.
Trên cơ sở đó họ có sự điều chỉnh hành vi của mình theo hướng tăng cường
hoặc giảm bớt sự thích ứng nhau. Tóm lại, chỉ khi giao tiếp với người khác con
người mới có thể khám phá đầy đủ chính xác bản thân mình.
- Tính tác động qua lại lẫn nhau: Trong suốt quá trình giao tiếp các chủ thể
giao tiếp luôn tri giác lẫn nhau. Tri giác là quá trình nhận thức đối tượng giao
tiếp bằng con đường cảm tính nhờ các giác quan: thính giác, thị giác, xúc giác.
Cơ chế của ảnh hưởng xã hội như bắt chước, ám thị, thoả hiệp, đồng nhất hoá
đặc biệt là sự lây lan, lan truyền cảm xúc tâm trạng tiếp diễn suốt quá trình giao
tiếp. Thông qua các cơ chế đó các chủ thể giao tiếp tác động qua lại lẫn nhau,
chi phối ảnh hưởng lẫn nhau.


- Tính nhận thức xã hội: Thông qua giao tiếp xã hội, người ta trao đổi các kiến
thức, sự hiểu biết cho nhau, truyền đạt kinh nghiệm riêng của cá nhân cũng như
kinh nghiệm của loài người. Thông qua giao tiếp con người nhận thức về nhau
đồng thời nhận thức về xã hội, nâng cao hiểu biết, phát triển nhân cách của mình.
Câu 2:trình bày hiểu biết về chức năng giao tiếp?
-“Giao tiếp là hành vi và quá trình trong đó con người tiến hành trao đổi thông
tin với nhau, nhận thức, đánh giá về nhau, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn
nhau”.
Chức năng giao tiếp thông thường
Các Mác khẳng định sự thống nhất của tiếng nói, ý thức và giao tiếp: Ý thức
cũng như tiếng nói xuất hiện từ sự cần thiết của giao tiếp. Giao tiếp có một ý
nghĩa hết sức lớn lao đối với đời sống con người. Nhu cầu liên quan tới một số
lượng lớn những nhu cầu cơ bản của con người bởi vì giao tiếp là điều kiện cần
thiết cho sự phát triển bình thường của con người với tư cách là một thành viên
xã hội. Được giao tiếp với người khác là nhu cầu cần thiết của con người.
• Nhóm chức năng theo phương diện xã hội: Nhóm các chức năng thuần
tuý xã hội bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã
hội hay của một nhóm các tập thể, các tổ chức tạo thành xã hội.
- Chức năng thông tin liên lạc: Chức năng này bao quát tất cả các quá trình
truyền và nhận thông tin. Với tư cách là một quá trình truyền tín hiệu, được phát
huy tối đa tác dụng của nó và kết quả là con người có khả năng truyền đi bất cứ
thông tin, tín hiệu gì mình muốn. Chức năng này thể hiện cả ở chủ thể giao tiếp
và đối tượng giao tiếp, nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó như nhu cầu truyền tin,
nhu cầu tình cảm, nhu cầu tiếp xúc,…
- Chức năng điều chỉnh (điều khiển) hành vi: Thông qua giao tiếp, cá nhân
không chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi của mình mà còn có thể điều khiển
hành vi của người khác bằng cách dùng các phương pháp tác động lẫn nhau
trong giao tiếp như ám thị, thuyết phục, áp lực nhóm,… để điều khiển người
khác. Nhằm đạt được mục đích mong muốn, các chủ thể thường linh hoạt tuỳ
theo tình huống thời cơ mà lựa chọn thay đổi phương thức hoặc phương hướng,

phương tiện giao tiếp sao cho phù hợp.
Chức năng này thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau của các chủ thể giao
tiếp, ngoài ra nó còn thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt của các phẩm chất tâm lý
cá nhân trong giao tiếp. Hơn nữa, chức năng này còn thể hiện vai trò tích cực
của các chủ thể giao tiếp trong quá trình giao tiếp.
Chức năng này cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản trị và kinh doanh.
Bằng các hình thức giao tiếp khác nhau như ra lệnh, thuyết phục, tạo dư luận
mà nhà quản trị hướng hoạt động của nhân viên vào thực hiện mục đích chung
của doanh nghiệp. Cũng thông qua các hình thức tác động lẫn nhau trong giao
tiếp mà nhà kinh doanh có thể thoả thuận được với các đối tác về hợp đồng
thương mại có lợi.
- Chức năng phối hợp hành động: Thông qua giao tiếp để phối hợp hoạt động.
Trong một tổ chức có nhiều bộ phận, chức năng, nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên
để cho một tổ chức hoạt động một cách thống nhất, đồng bộ thì các bộ phận
thành viên trong tổ chức cần giao tiếp với nhau để hành động cho hiệu quả.
- Chức năng động viên, kích thích: Thông qua giao tiếp để làm phấn khích tinh
thần, tâm lý của đối tượng tham gia giao tiếp. Chức năng này liên quan đến lĩnh
vực cảm xúc của con người. Trong quá trình giao tiếp, không chỉ xảy ra các quá
trình truyền tin hay tác động điều chỉnh lẫn nhau mà còn xuất hiện các trạng thái
cảm xúc của những người tham gia. Qua quan sát thực tế cuộc sống, ta thấy giao
tiếp thường nảy sinh trong chính thời điểm người ta muốn thay đổi cảm xúc của
mình. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có tác dụng rất lớn đối với chức
năng này. Vì vậy, các nhà quản trị bên cạnh việc sử dụng những biện pháp hành
chính, mệnh lệnh để tác động đến nhân viên của mình, còn sử dụng các biện
pháp động viên khuyến khích về vật chất và tinh thần để tạo ra những cảm xúc
tốt đẹp, tạo bầu không khí làm việc tốt, để tạo được hiệu quả công việc cao.
• Nhóm chức năng theo phương diện tâm lý: Nhóm các chức năng tâm
lý xã hội là các chức năng giao tiếp phục vụ nhu cầu từng thành viên xã hội với
nhau. Giao tiếp tránh cho con người rơi vào tâm trạng bị cô lập.
- Chức năng tạo mối quan hệ: Thông qua giao tiếp để có mối liên hệ các cá

nhân trong cộng đồng. Đối với con người, trạng thái cô đơn, cô lập đối với
những người xung quanh là trạng thái đáng sợ nhất. Giao tiếp giúp con người
tạo ra những mối quan hệ với mọi người. Chấp nhận chia xẻ thông tin với mọi
người xung quanh, xích lại gần nhau hơn. Tạo lập ra các mối quan hệ để cùng
phối hợp hành động, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Chức năng cân bằng cảm xúc: Thông qua giao tiếp để bộc lộ cảm xúc ra bên
ngoài. Mỗi con người có những cảm xúc cần được biểu lộ sung sướng hay đau
khổ; hy vọng hay thất vọng đều muốn được người khác chia sẻ. Chỉ có trong
giao tiếp chúng ta mới tìm được sự đồng cảm, đồng điệu, cảm thông và giải toả
được cảm xúc của mình.
- Chức năng phát triển nhân cách: Thông qua giao tiếp mà tiếp cận với những
quan điểm mới, cách hành xử mới, con người lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội.
Tâm hồn trở nên phong phú, nhận thức sâu sắc, tình cảm và thế giới quan hình
thành, củng cố và phát triển. Thông qua giao tiếp những tiêu chuẩn đạo đức,
cũng như tinh thần, trách nhiệm, nghĩa vụ, tính nguyên tắc, tính vị tha, tính trung
thực,… không chỉ được thể hiện mà còn được hình thành ở chúng ta. Cũng như
thông qua giao tiếp con người học hỏi được cách đánh giá hành vi và thái độ,
nhận biết được chính mình để rồi hoàn thiện các phẩm chất nhân cách của bản
thân phấn đấu hướng tới chân – thiện – mỹ.
Câu 3:truyền thông là gi?những yếu tố tác động đến truyền thông?để quá
trình truyền thông diễn ra thuận lợi thì người gửi và ng nhận cần lưu ý
những vđề gi?
Quá trình truyền thông trong giao tiếp là việc truyền ý nghĩ của người này
cho một người khác được bắt đầu từ việc mã hoá ý nghĩ đó. Mã hoá là quá trình
chuyển những thông tin (ý nghĩ, cảm xúc,…) thành một loại phương tiện giao
tiếp (lời nói, chữ viết hay các dấu hiệu, ký hiệu,…) có thể chuyển đi được; kết
quả của quá trình này là thông điệp được tạo thành (các thông tin đã được mã
hoá), tiếp đó các thông điệp được phát đi nhờ các kênh truyền thông (tiếng nói,
ánh mắt, cử chỉ, điện thoại, văn bản, thư từ, fax, Internet,…) đến với người
nhận; người nhận bằng tất cả các giác quan và phương tiện có được tiến hành

nhận thông điệp và giải mã. Giải mã là quá trình diễn dịch bản thông điệp nhận
được sao cho hiểu được ý nghĩa đích thực của nó. Sau khi giải mã, người nhận
sẽ phản hồi. Phản hồi là sự đáp lại, sự phản ứng lại của người nhận về bản
thông điệp mà họ nhận được. Trong quá trình phản hồi người nhận thông tin ban
đầu chuyển sang vai trò của người gửi thông tin và quá trình trên được tiếp diễn.
Quá trình truyền thông trong giao tiếp có hiệu quả hay không trước hết phụ
thuộc vào người gửi, người nhận và các yếu tố:
Người gửi: Khi đưa ra bản thông điệp, chẳng hạn bằng phương tiện là lời
nói, người nói cần chú ý:
- Cái gì, tức là nói cái gì, nói vấn đề gì? (nhiều khi chúng ta lỡ lời, nói ra
điều không nên nói, trước khi nói phải cân nhắc điều gì nên nói và ngược lại).
- Tại sao, tại sao phải nói ra điều đó, nói điều đó nhằm mục đích gì?
- Với ai, cần chú ý tìm hiểu người nghe là ai? (tên, tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, địa vị xã hội, trình độ học vấn, tâm trạng, tình cảm, sở thích, lập trường,
tín ngưỡng, niềm tin, thói quen,...). Ta phải tìm hiểu đối tượng giao tiếp để từ đó
có cách giao tiếp, ứng xử phù hợp.
- Khi nào, tức là đưa ra bản thông điệp vào thời điểm nào cho phù hợp.
- Ở đâu, nên cân nhắc đưa ra bản thông điệp cho người nhận ở đâu, trong
hoàn cảnh nào để đạt hiệu quả cao nhất. Việc chọn sai địa điểm có thể làm giảm
hiệu qủa truyền thông, thậm chí hoàn toàn không đạt mục đích mong muốn.
- Bằng cách nào, một thông điệp có thể truyền đến người nhận bằng nhiều
cách khác nhau, nhưng hiệu quả thường không giống nhau. Vì vậy, chúng ta cần
biết lựa chọn cách truyền thông tin tối ưu nhất.
Để quá trình trao đổi thông tin thành công thì bên cạnh việc người gửi,
người nhận thông tin thực hiện tốt các yêu cầu nêu trên, cũng cần chú ý tới chất
lượng của các kênh truyền thông và các biện pháp khắc phục, hạn chế các yếu tố
gây nhiễu trong quá trình giao tiếp.
Người nhận: Để tiếp nhận và giải mã thông điệp từ người gửi một cách
đầy đủ, chính xác, người nhận phải chú ý:
- Cái gì, tức là người nói đang nói cái gì, vấn đề gì?

- Tại sao, tại sao người nói đề cập đến vấn đề đó?
- Ai, người nói là ai? (tuổi, giới tính, địa vị xã hội, tín ngưỡng, học vấn, tâm
trạng, tình cảm, sở thích, lập trường, thói quen của người nói?)
- Khi nào, người nói nói điều đó khi nào, ngay sau khi nhận được thông tin
hay đã có sự cân nhắc, suy tính?
- Ở đâu, người nói đưa ra điều đó ở nơi nào, trong tình huống nào?
- Bằng cách nào, người gửi truyền bản thông điệp đi bằng cách nào, phương
tiện gì, dưới hình thức nào?
Trong quá trình nhận tin cũng phải biết được người tiếp nhận thông tin
của mình (những cá nhân hay nhóm người mà bạn muốn truyền đạt thông tin
của mình tới), đồng thời cần phải tìm hiểu kỹ thái độ, tình cảm của đối tác. Cũng
như người gửi thường phải đặt mình vào vị trí người nhận để hiểu người nhận và
từ đó định hướng, điều chỉnh quá trình truyền tin. Người nhận phải biết đặt mình
vào vị trí của người gửi để hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người gửi, tại
sao người gửi lại đưa ra vấn đề đó! Việc không hiểu về người mà mình sẽ truyền
đạt thông tin sẽ dẫn tới việc giải mã thông điệp bị sai lệch.
Câu 4:nêu và phân tích các nhân tố có ảnh hưởng tác động tới quá trình
giao tiếp?
Giao tiếp không chỉ trao đổi thông tin, nhận thức, đánh giá về nhau, mà
còn là sự tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình đó chúng ta tác
động đến những người khác và ngược lại, người khác lại tác động, ảnh hưởng
tới chúng ta. Bằng cách đó tâm lý cá nhân biến thành tâm lý xã hội và ngược lại.
Sự ảnh hưởng, tác động đó có thể tốt hoặc xấu, có thể tích cực hoặc tiêu cực.
Đây là quá trình phức tạp, kết quả của nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó
có cả đặc điểm của người tiếp nhận tác động. Mỗi chúng ta lĩnh hội sự tác động
từ xã hội không phải một cách thụ động mà có sự phân tích, chọn lọc nhất

×