Lời mở đầu.
Nói tới Trung Quốc là nhớ tới Vạn Lí Tường Thành, một công trình kiến
trúc đồ sộ, nổi tiếng thế giới là niềm kiêu hãnh của đất nước rộng nhất Châu Á.
Nhưng thật thiếu sót nếu như nền văn học lại không được gợi mở khi khám phá
về đất nước này. Đã từ lâu nền văn học Trung Quốc chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống của mỗi người dân nơi đây, nếu như văn học Ấn Độ thấm đậm thế
giới tâm linh, khám phá chiều sâu trong tâm hồn của mỗi con người thì văn học
Trung Quốc lại đưa hiện thực vào, phản ánh hiện thực một cách khách quan. Từ
các thời đại phong kiến văn học đã được các vua quan chú trọng họ xem văn học
là một trong những yếu tố quan trọng bởi vậy trong triều thường hay chia ra
thành hai kiểu quan là quan văn, quan võ và theo dòng lịch sử văn học từng bước
gắn chặt với đời sống xã hội không ngừng phát triển và đem đến nhiều thành tựu
to lớn cho đất nước Trung Hoa.
Sự phát triển ấy sẽ là đơn phương độc mã nếu như không có sự chắp bút
của những con người của thời đại như: Lý Bạch, Thi Nại Am, Tào Tuyết Cần, Đỗ
Phủ…..Họ là những người đã làm nên khuôn diện cho văn học học nước nhà, thổi
một luồng gió mới cho nền văn học, những sáng tác của họ không chỉ gói gọn
trong câu văn mà những tư tưởng đạo lí tốt đẹp được chuyên chở thâm nhập vào
đời sống cộng đồng. Không chỉ phát triển trong nội địa mà văn học Trung Quốc
có một sức mạnh to lớn ảnh hưởng rất nhiều tới các nước trong khu vực như Việt
Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản…..chi phối hoàn toàn tới tư tưởng của các nước trong
một giai đoạn của sự phát triển văn học.
Cho đến bây giờ nền văn học Trung Quốc vẫn không mất đi chỗ đứng của
mình mà càng ngày nâng cao và cũng cố vị thế của mình, những con người của
thời đại tiếp tục kế thừa tinh hoa của lớp thế hệ đi trước, phát triển và làm rạng rỡ
thêm cho nền văn học Trung Hoa.
CHƯƠNG 1
VÀI NÉT PHÁC HỌA VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI TRUNG HOA TÁC PHẨM THỦY HỬ VÀ TÁC GIẢ THI NẠI AM
1.1 Đất nước và con người Trung Hoa
1.1.1 Đất nước
Trung Quốc là một quốc gia có chủ quyền tại Đông Á . Quốc gia rộng lớn
này trải mình bao la có nửa phần lãnh thổ phía bắc thuộc Đông bán cầu, phía
đông nam của đại lục Á – Âu, phía đông và ở giữa Châu Á. Là quốc gia đông dân
nhất trên thế giới, thủ đô là Bắc Kinh, là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ 2
trên thế giới. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được cả thế giới biết đến là một
trong những cái nôi của nền văn hóa nhân loại bên cạnh những danh lam đẹp và
nổi tiếng trên thế giới như Vạn Lí Trường Thành, núi Hoàng Sơn, hồ Tây Hồ….
Hơn nữa, quốc gia này có nền kinh tế phát triển khá mạnh và đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể. Đặc biệt là sau khi tiến hành cuộc cải cách mở cửa, thị trường
không ngừng được mở rộng, môi trường đầu tư không ngừng được cải thiện, cải
cách thể chế tiền tệ tiến triển vững chắc, những điều này đã đảm bảo vững chắc
cho nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục phát triển.
1.1.2 Con người
Đất nước Trung Quốc có khoảng hơn một trăm dân tộc, trong đó đông nhất
là người Hán, là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt.
Thêm vào đó trong lịch sử cũng có nhiều sắc dân vốn là người ngoại quốc
đã làm thay đổi văn hóa và ngôn ngữ của sắc dân Hán như trường hợp người Mãn
Châu bắt đàn ông người Hán phải để tóc đuôi sam. Đôi khi người ta dùng thuật
ngữ dân tộc Trung Hoa để chỉ người Trung Quốc nói chung.
Người Hán nói các thứ tiếng mà các nhà ngôn ngữ học hiện đại coi là
những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, tuy nhiên tại Trung Quốc nhiều người coi
đấy là các phương ngôn của tiếng Trung Quốc. Tuy có nhiều ngôn ngữ nói khác
nhau nhưng kể từ đầu thế kỷ 20, người Trung Quốc bắt đầu dùng chung một
chuẩn viết là "Bạch thoại" được dựa chủ yếu trên văn phạm và từ vựng của Phổ
thông thoại là ngôn ngữ nói được dùng làm chuẩn. Ngoài ra từ hàng ngàn năm
nay giới trí thức Trung Quốc dùng một chuẩn viết chung là Văn ngôn.
Ngày nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên
trong chương trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung Quốc
bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Không như Phổ thông
thoại, các ngôn ngữ nói khác chỉ được nói mà không có cách viết.
Người Trung Hoa ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc từ các tư tưởng của đạo Phật.
Đây là tôn giáo chính thức của quốc gia này và nó cũng gắn liền với nền sản xuất
phụ thuộc vào nguồn nước. Bạn có thể nhận ra những điều trên khi được tham
dự.
1.2 Trung Quốc -mảnh đất văn chương
1.2.1 Sơ lược về văn học Trung Quốc
Văn học Trung Quốc đã có một lịch sử phát triển lâu dài do kỹ thuật in ấn
có từ thời nhà Tống. Trước đó, các cổ thư và sách về tôn giáo và y học chủ yếu
được viết bằng bút lông (trước đó nữa thì viết trên giáp cốt hay trên giấy tre) rồi
phát hành. Hàng chục nghìn văn thư cổ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, từ các
văn bản bằng chữ giáp cốt tới các chỉ dụ nhà Thanh, được phát hiện mỗi ngày.
Các triết gia, tác gia và thi sĩ Trung Quốc phần lớn rất được coi trọng và có
vai trò quan trọng trong việc duy trì và phổ biến văn hóa của Trung Quốc. Một số
học giả khác, cũng được ghi nhận vì dám xả thân cho quyền lợi quần chúng cho
dù có trái với ý của chính quyền. (Xem Danh sách các tác gia Trung Quốc, và
Danh sách các nhà thơ Trung Quốc).
Thời cổ đại văn hóa TQ ảnh hưởng mạnh từ Nho giáo và các triết học bảo
thủ hầu hết qua các triều đại cơ hộ để thăng quan tiến chức là phải giành lấy các
thành tích trong các cuộc khoa đẩu, thi cử đc bắt nguồn từ thời Hán. Văn chương
trong các kỳ khoa cử chú trọng đến nhận thức chung về tình thế văn hóa TQ và ý
thức lịch sử đất nước sâu sắc phần lớn là mang tính hướng nội.
1.2.2 Tầm ảnh hưởng của văn học Trung Quốc tới các nước trên thế giới
Có thể Trung Quốc có một tầm ảnh hưởng to lớn đối với các nước trong
khu vực , ngoài những tư tưởng của Nho giáo, văn hóa trong nếp sống thì văn
học Trung Quốc còn tác động mạnh mẽ đến văn học các nước Hán hóa
như: Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Cho đến khi văn hóa phương Tây du nhập
vào Việt Nam, đặc biệt là thời Pháp thuộc thì văn học Việt Nam mới dần chuyển
qua chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây cho đến nay.
1.3 Thủy Hử truyện và tác giả Thi Nại Am
1.3.1 Tác giả Thi Nại Am
Tác giả Thi Nại Am, ông sống vào khoảng thời gian cuối đời Nguyên, đầu
đời Minh trong lịch sử TQ. Thi Nại Am đỗ tiến sĩ năm 1330 dưới đời nhà
Nguyên, rồi ông làm quan 2 năm ở tiền đường. Sau vì bất mãn với triều đình nhà
Nguyên nên ông từ quan về ở ẩn. “Thủy Hử” là tác phẩm nổi tiếng nhất của Thi
Nại Am sáng tác trên câu chuyện truyền miệng trong dân gian đời Tống Nguyên.
Có giả thuyết cho rằng “Thủy Hử” là được Thi Nại Am và La Quán Trung sáng
tác nhưng cơ sở của giả thuyết trên là không cao vì cuộc đời của Thi Nại Am và
La Quán Trung có nhiều điểm giống nhau như đều sống trong khoảng thời gian
cuối Nguyên đầu Minh, và đều từ quan về ở ẩn chuyên tâm sáng tác văn chương.
Thi Nại Am có mối liên hệ nhất định với phong trào khởi nghĩa của nông
dân cuối đời Nguyên, thậm chí ông còn tham gia vào đội ngũ những người khởi
nghĩa. Ông đã tập trung những câu chuyện “Thủy Hử” rời rạc được thể hiện trong
các truyền thuyết, thoại bản, tạp kịch, dùng tài năng nghệ thuật xuất chúng với
lao động đầy tính sáng tạo để miêu tả chi tiết hơn, sâu sắc hơn, điển hình hơn,
khiến cho nội dung của chúng cực kì phong phú và được nâng cao hơn nhiều.
1.3.2 Thủy Hử- một trong bốn tứ đại kì thư:
Tứ đại kỳ thư (四四四四) chỉ 4 bộ tiểu thuyết được xem như là hay nhất của
văn học cổ điển Trung Quốc. “Tứ đại kì thư” hay “Tứ đại danh tác” tác đều là
những cách nói của truyền thống phê bình Trung Hoa, tồn tại song song bên cạnh
những cách điểm bình các nhóm tác phẩm nổi tiếng trong di sản văn hóa Trung
Hoa như “Tứ thư Ngũ kinh”, “Tứ đại danh sử” hay “Lục tài tử thư”. Đó là:
•
•
•
•
Thủy hử của Thi Nại Am
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung
Tây du ký của Ngô Thừa Ân
Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần
Tứ đại kỳ thư – 4 tác phẩm văn học với bốn phong cách thể hiện riêng đem
lại cho độc giả một cái nhìn tổng quát về xã hội Trung Quốc đương thời trải qua
các biến cố lịch sử, với giá trị lịch sử và những ý nghĩa cao cả để lại. Tứ đại kỳ
thư sẽ còn lưu danh mãi với thời gian để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả.
“Thủy Hử” có nghĩa là bến nước, là một trong bốn tác phẩm lớn của văn
học cổ điển Trung Hoa. Thủy Hử truyện tuy vẫn phải dựa vào sử liệu, nhưng
nhân vật và tình tiết của nó gần như hoàn toàn sáng tác, nên tác giả đã dùng ngôn
ngữ bạch thoại thuần túy để viết ra. Tác giả của Thủy Hử truyện với một trình độ
văn hóa rất cao, sử dụng lưu loát và thuần thục loại văn bạch thoại, để khắc họa
tính cách của nhân vật, miêu tả mọi tình huống, tỏ ra hết sức sôi động, sôi nổi.
“Thủy Hử” truyện chủ yếu được hình thành trên cơ sở “thuyết thoại” trong
dân gian và những mẩu chuyện trong hí kịch. Tác giả đã đem nhiều câu chuyện
có tính độc lập để kết hợp sau khi đã sửa chữa, cho nên nó có một cái khung hoàn
chỉnh cho một bộ tiểu thuyết dài. Tác giả vần giữ được tính nguyên vẹn mang ý
nghĩa độc lập của từng câu chuyện. Có thể nói là một sự kết cấu theo sự lắp ghép
“từng khối”. Đứng về mặt tiểu thuyết dài mà nói, thì sự kết cấu đó tất nhiên là
chưa đạt đến trình độ hoàn chỉnh, nhưng nếu đứng riêng về mặt tạo hình nhân vật
thì nó lại có nhiều điều tiện lợi riêng. Việc miêu tả tính cách đặc trưng của nhân
vật được tập trung, được thể hiện một cách đầy đủ, gieo cho người đọc một ấn
tượng hết sức sâu sắc.
“Thủy Hử” truyện là một bộ tiểu thuyết phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp
của nông dân. khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân trong xã hội phong
kiến. Tất cả cái đó đều mang ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử xã hội phong kiến
Trung Quốc.
1.3.3 Thể loại: TIỂU THUYẾT CHƯƠNG HỒI TRUNG QUỐC
Đất nước Trung Quốc có nền văn học phong phú lâu đời, liên tục 5 nghìn
năm ngày từ trước công nguyên (thời cổ đại ) nền văn học này đã có những
thành tựu rực rỡ như thần thoại , văn xuôi triết học , sở từ , sở ký ...
Sang thời trung đại, với sự góp mặt của Phú thời Hán, Thơ đời Đường Từ
thời Tống và Tiểu thuyết chương hồi Minh - Thanh là các thành tựu văn hóa rực
rỡ.
Chương: là một thể tài văn học, những khái niệm chương có từ rất lâu từ
thời Kinh Thê. Đến từ thời nhà Hán đơn nguyên tình tiết tự nhiên của cốt truyện
tiểu thuyết trường thiên. Hồi: là một sự chuyển đổi, vận chuyển, chuyển biến, thể
hiện một động tác lần lượt và theo thứ tự, tiểu thuyết TQ nói đến khái niệm hồi ở
đoạn cuối, do truyện kể quá dài phải chia ra từng hồi để kể . Thuyết thoại nhân là
người tạo ra những hồi trong truyện mình kể.
Tiểu thuyết chương hồi là một dạng thức tiểu thuyết trường thiên trong
văn học Trung Quốc, phát triển từ thoại bản “giảng sử” thời Tống. Bắt nguồn từ
thể loại “giảng sử” trong thuyết thoại dân gian, tiểu thuyết chương hồi tiếp tục kế
thừa những đặc điểm nổi bật của thể loại này. Khác với tiểu thuyết cổ điển
thường thể hiện hết các nội dung thông qua những bài đoản thiên, “giảng sử” tái
hiện những câu chuyện lịch sử với dung lượng dài nên phải nói nhiều lần và
thông qua mỗi hồi khác nhau.
Cũng vì thế mà đặc điểm cơ bản đầu tiên của tiểu thuyết chương hồi là sự
phân chia tác phẩm thành các hồi tiếp nối nhau. Với dung lượng lớn nên mỗi hồi
đều được phân tách và đặt một tiêu đề tóm lược nội dung để dễ nhớ và dễ nắm
bắt câu chuyện. Các hồi phải đảm bảo sự liên kết liền mạch và chặt chẽ với nhau
bởi nội dung và hình thức dẫn chuyện.
Tiểu thuyết chương hồi có bối cảnh rộng về không gian, dài về thời gian,
bao gồm nhiều sự kiện, nhiều nhân vật. Tuy nhiên trong sự đa dạng, phức tạp ấy
vẫn có những sự kiện trung tâm, những nhân vật chính thể hiện rõ nét quan điểm
tư tưởng của tác giả.
Dựa vào đề tài và chủ đề tư tưởng, có thể chia tiểu thuyết Trung Quốc
thành 5 loại chính, bao gồm: Tiểu thuyết giảng sử (Tam quốc diễn nghĩa), Tiểu
thuyết nghĩa hiệp (Thủy Hử), Tiểu thuyết thần ma (Tây du kí), Tiểu thuyết nhân
tình thế thái (Hồng Lâu Mộng) và Đoản thiên tiểu thuyết (Liêu trai chí dị). Tiêu
biểu cho thể loại Tiểu thuyết nghĩa hiệp là tác phẩm “Thủy Hử”.
1.3.4 Tóm tắt truyện
Có thể tóm tắt 71 hồi Thủy Hử như sau: Từ hồi 1 đến hồi 19 chủ yếu nói về
nguyên nhân phát sinh cuộc khởi nghĩa. Mở đầu tác phẩm là một câu chuyện
huyền hoặc nhằm giải thích con số 108 vị anh hùng hảo hán.
Vào đời Tống Huy Tôn ôn dịch hoành hành, nhà vua bằng hạ chỉ xây bằng
thái úy đến núi Long Hổ mời Thiền sư Trương Chân Nhân về kinh đô làm lễ tống
ôn. Xong nhiệm vụ Hồng Thái úy đến núi du lãm bỗng thấy một cung điện, điện
cửa lớn có đề mấy chữ “Phục ma chi viện”. Thái úy lấy làm lạ, mở toan cửa, thì
thấy hàng chục đạo kim quan tỏa đi bốn phương. Đó là 72 ngôi sao địa sát và 36
ngôi sao Thiên cung bị Thiền sư lão tổ trấn giữ trong điện, sau này đầu thai xuống
trần gian thành 108 hảo hán Lương Sơn Bạc.
Tiếp đó tác giả nói đến sự thối nát của vua quan, sự nhũng nhiễu của địa
chủ cường hào- nguyên nhân trực tiếp phát sinh khởi nghĩa. Đương kim hoàng
thượng Tống Huy Tông là một tên vua ngu độn và ngu đạo. Hắn chỉ thích có món
đá cầu và sưu tầm kì hoa dị thạch (hoa hiếm, đá lạ). Vì thích đá cầu, mà hắn cân
nhắc tên vô lại Cao Cầu lên chức Thái Uý điện soái phủ. Có chức, có quyền, Cao
Cầu bắt đầu trả thù Vương Tiến, một võ quan chính trực, rồi dùng mưu ma chước
quỷ rồi hãm hại Lâm Xung, một giáo đầu dạy cấm quân ở Kinh đô, hòng cướp
đạt người vợ trẻ đẹp của ông ta. Thế là Vương Tiến cùng mẹ trốn đi biệt xứ. Còn
Lâm Xung thì nhẫn nhục chịu thích chửi vào mặt đi đày đợi dịp ân xóa, nhưng
bọn chúng vẫn không buông tha, dồn chàng đến bước đường cùng trốn lên Lương
Sơn Bạc. Tống Huy Tông còn ham mê sưu tầm đá lạ. Vì trò chơi này mà cuộc đời
Dương Chí còn biết bao éo le. Anh ta phục chỉ Vua đi tìm đá hoa thạch, dọc
đường qua Hoàng Hà thuyền bị đắm nên liền bỏ trốn. Nay nghe tin đại xá lại trở
về kinh đô, rồi nhân tiện giết tên côn đồ rồi bị đày đến phủ đại danh làm lao dịch
dưới trướng trung thủ Lương Trung Thư. Họ Lương đang chuẩn bị món quà mười
vạn quan tiền mừng sinh nhật bố vợ là Thượng thư Sái Kính ở Kinh đô. Hắn bằng
sai Dương Chí đi hộ tống. Nhưng giữa đường bị cướp sạch. Vốn là Tiều Cái cùng
các hảo hán giang hồ đã tổ chức cướp món quà phi nghĩa chia cho dân nghèo.
Vì việc này, Tiều Cái bị triều đình truy nã nhưng Tống Giang, một thư lại ở
huyện đường gửi mật báo cho ông ta, ông ta đành đốt sạch trang ất trốn lên
Lương Sơn Bạc. Dương Chí sau khi bị cướp cũng tìm đường trốn lên núi. Ông ta
gặp Lỗ Trí Thâm một hảo hán giang hồ đã từng hộ vệ Lâm Xung trên suốt chặng
đường đi đày rồi vì bênh vực hai bố con ông lão hát rong đâm chết tên cường hào
Trịnh Đồ mà bị tróc nã. Họ rủ nhau cùng lên sơn trại. Tên chủ trại luôn luôn hẹp
hòi, đố kị không muốn dung nạp, Lâm Xung bằng giết đi rồi mời Tiều Cái lên
làm thủ lĩnh. Họ phân chia tổ chức, ngôi thứ lại sơn trại.
Từ hồi 20 đến hồi 41 chủ yếu nói về sự hình thành và phát triển của lực
lượng nghĩa quân. Tiều Cái nhờ ơn cứu mạng của Tống Giang nên tìm mọi cách
mời ông lên làm chủ sơn trại. Nhưng Tống Giang vẫn nặng tư tưởng trung hiếu
nên một mực không theo. Không may thư Lương Sơn Bạc lọt vào tay người tùy
thiếp là Diêm Bà Tích, ả ta dọa tố giác nên Tống Giang giết ả. Và vì thế, Tống
Giang bị bắt bị thích chửi vào mặt đi đày ở Giang Châu. Trên đường đi đày,
Lương Sơn Bạc cho người mời lên sơn trại, Tống Giang một mực từ chối. Rồi
Lương Sơn Bạc tổ chức cướp đường đưa ông lên làm đầu lĩnh ông vẫn không
nghe. Ông thà chịu đi đày, mãng hạn về nhà tôn trung con hiếu chứ không chịu
mang tiếng nhà cỏ. Nhưng một lần trên bến Tầm Dương, rượu ngà ngà, ông
không tự chủ cấp bút đề lên tường bài thơ ngụ ý phản nghịch. Thế là bị tội chém.
Khi ra pháp trường, Lương Sơn Bạc cử nghĩa binh đến cứu. Từ đó, ông mới
quyết tâm làm phản và lên sơn trại. Rồi Võ Tòng, Lý Qùy,… cũng nghe tiếng
Tống Giang mà lên nhập bọn. Hảo hán đã đủ mặt. Tiều Cái nhường chức chủ trại
cho Tống Giang. Họ dựng cờ “thế thiên hành đạo”, thiết lập “trung nghĩa đường”,
ban bố pháp lệnh bàn bạc kế hoạch.
Từ hồi 42 đến hồi 71, chủ yếu nói về chiến công của Lương Sơn Bạc. Một
mặt họ tiếp tục chiêu mộ nhân tài, bổ sung quân số, sửa sang danh trại. Mặt khác,
ra quân đánh các trang ất địa chủ và danh phủ triều đình để phát huy thế lực. Ban
đầu đánh Lý Gia Trang rồi Hổ Gia Trang, rồi Chúc Gia Trang, sau đó đến Phủ
Cao Đường, Phủ Đại Danh và Tân Đầu Thị thân thế ngày một lớn, triều đình mấy
lần sai quan quân đến đánh giặc nhưng đều bị nghĩa quân đánh cho tất điên bát
đảo. Một số tướng lĩnh triều đình Hồ Diên Chước, Quan Thắng, Từ Ninh, vì mến
phục tài năng Tống Giang mà li khai về với nghĩa quân. Kết thúc Thủy Hử 71 hồi
là việc Tống Giang lập đàn tụng niệm oan hồn Tiều Cái, siêu sinh tịnh độ cho
những kẻ bỏ mạng trong chiến đấu. Họ kéo cờ thế thiên hành đạo, cùng nhau
chích máu ăn thề: “không bao giờ sinh nhị tâm, nguyện sống chết có nhau, hoạn
nạn cùng chia sẻ, đồng lòng giữ nước yên dân”.
CHƯƠNG II
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG THỦY HỬ
2.1 Thế giới nhân vật
Là một phạm trù rất rộng. Thế giới nhân vật là một tổng thể những hệ
thống nhân vật được xây dựng theo quan niệm của nhà văn và chịu sự chi phối
của tư tưởng tác giả. Thế giới ấy cũng mang tính chỉnh thể trong sáng tác nghệ
thuật của nhà văn, có tổ chức và sự sống riêng, phụ thuộc vào ý thức sáng tạo của
nhà văn và chỉ xuất hiện trong sáng tác tác phẩm văn học, trong sáng tác nghệ
thuật. Đó là mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, có quy luật riêng thể hiện ở đặc
điểm con người, tâm lý, không gian, thời gian, xã hội,...Gắn liền với một quan
niệm nhất định của chúng về tác giả. Thế giới nhân vật là cảm nhận một cách trọn
vẹn, toàn diện và sâu sắc của chủ thể sáng tạo về toàn bộ nhân vật trong xã hội,
trong tác phẩm, mối quan hệ, môi trường, hoạt động của họ, ý nghĩa, tư tưởng,
tình cảm của họ trong cách đối nhân xử thế, trong giao lưu xã hội, với gia đình,...
Thế giới nhân vật vì thế bao quát sâu rộng hơn hình tượng nhân vật. Con người
trong văn học chẳng những không giống với con người thực tại về tâm lý, hoạt
động mà còn có ý nghĩa khái quát tượng trưng. Trong thế giới nhân vật người ta
có thể chia thành các kiểu loại nhân vật nhỏ hơn dựa vào những căn cứ tiêu chí
nhất định. Nhiệm vụ của người tiếp nhận văn học là phải tìm ra chìa khóa để
bước qua cánh cửa và bước vào khám phá thế giới nhân vật đó. Trong lịch sử văn
học, có thể nói mỗi tác giả lớn đều có thế giới nhân vật riêng. Mỗi thể loại văn
học cũng có thế giới nhân vật với quy luật riêng của nó.
Trong Thủy Hử thế giới nhân vật được thể hiện một cách đa dạng. Hệ
thống nhân vật phong phú với một lượng nhân vật lớn, bao gồm nhiều tuyến nhân
vật xuất hiện, với những mô thức khác khác nhau, tính cách, hành động cũng
khác nhau tạo nên sức hấp dẫn cho truyện.
2.2 Vai trò của thế giới nhân vật
Nhân vật văn học hay thế giới nhân vật có vai trò khái quát những tính
cách, hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi
xây dựng thế giới nhân vật, nhà văn có mục đích gắn liền nó với những vấn đề
mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm. Vì vậy, tìm hiểu thế giới nhân vật
trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách của nó, cần nhận ra
những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật muốn thể
hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật thuộc một thế giới nhân vật nào đó,
người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó…
Do thế giới nhân vật có vai trò khái quát những tính cách, hiện thực cuộc
sống và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời cho nên trong quá trình mô
tả thế giới nhân vật, nhà văn có quyền lựa chọn những chi tiết, yếu tố mà họ cho
là cần thiết bộc lộ được quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Chính vì
vậy, không nên đồng nhất nhân vật văn học với con người trong cuộc đời. Khi
phân tích, nghiên cứu nhân vật, việc đối chiếu, so sánh có thể cần thiết để hiểu rõ
thêm về thế giới nhân vật, nhất là những nhân vật có nguyên mẫu ngoài cuộc đời
(ví dụ như các anh hùng trong lịch sử) nhưng cũng cần luôn luôn nhớ rằng thế
giới nhân vật là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo gắn liền với ý đồ tư tưởng của
nhà văn trong việc nêu lên những vấn đề của hiện thực cuộc sống.
2.3 Thế giới nhân vật trong Thủy Hử
2.3.1 Nhân vật chính diện
Nhân vật chính diện (còn gọi là nhân vật tích cực): “Là loại nhân vật chiếm
được tình yêu, niềm tin và sự khẳng định của nhà văn, mang trong mình những
phẩm chất tốt đẹp có thể trở thành kẻ đại diện cho những giá trị tư tưởng, đạo đức
và thẩm mỹ của mỗi nhà văn cùng thời đại anh ta hướng tới.” (Lý luận văn học
tập II, Tr (88), Trần Đình Sử chủ biên).
Hoàn cảnh để các anh hùng Lương Sơn Bạc phất cờ khởi nghĩa: Bất kì một
sự nổi loạn về mặt chính trị đều có những lí do chính đáng của nó, và đối với các
anh hùng Lương Sơn Bạc điều đó cũng không ngoại lệ.
Áp bức giai cấp. Vua chơi bời, không quan tâm tới triều chính, gian thần
lộng hành, cậy chức, cậy quyền đàn áp bách tính, dân chúng thì sống trong sự
khốn khó không có lối thoát. Sống trong thời điểm xã hội đang bị suy thoái cả về
chính trị lẫn đạo đức như vậy thì sự ra đời của “Thủy Hử” chính là lời thức tỉnh.
Ngoài ra, đây còn là tiếng nói của nhân dân. Chính vì vậy, Thủy Hử là bộ tiểu
thuyết phản ánh cuộc đấu tranh của giai cấp nông dân trong xã hội phong kiến
đầy gay gắt.
Với một xã hôị thối nát và mục rửa như vậy, việc đấu tranh đòi quyền lợi,
con đường sống là điều tất yếu. Chính vì vậy thành phần tham gia khởi nghĩa
chiếm số lượng đông đảo, đa dạng về tầng lớp:
Xuất thân: Nếu như Lâm Xung, Tống Giang, Dương Chí, Hoa Vinh... là
những trung trung thần, một lòng trung hiếu với triều đình thì Tiều Cái, Lý Quỳ,
Sử Tiến, Lưu Đường,... là những anh hùng xuất thân nơi thôn quê, không có chức
quyền. Hay những người làm nghề cướp bóc kiếm ăn như Lý Tuấn (thường giả
dạng là lái đò trên sông Tầm Dương và cướp của khách khi đò giữa nơi sông
nước), Lý Lập (mở quán rượu dưới chân núi Yết Dương, gần bờ sông Tầm
Dương và cướp của khách bằng cách bỏ thuốc mê trong rượu khách uống),.....
“Suy nghĩ và hành động phù hợp với giai cấp xuất thân và địa vị xã hội”.
Về ngoại hình: Họ là những con người mang vẻ đẹp chuẩn mực qua của
người anh hùng. Lâm Xung: “đầu đội khăn xéo xanh, đằng sau gáy cài vòng bạch
ngọc, mình mặc áo chiến bào đơn màu lục, lưng thắt đai bạc chạm một dải lưng
rùa, chân đi đôi hài mõm vuốt, tay cầm cái quạt tứ xuyên, đầu báo mặt tròn, râu
hùm, hàm én, thân cao tám thước". Lỗ Đạt: “Một người lực lưỡng, sồng bước
vào,...mặt tròn tai lớn, mũi thẳng mồm vuông, hai bên mép có hàng râu xoăn
xoăn, mình cao tám thước, vai rộng đẫy ôm, cách ăn mặc ra đàng một tay quan
võ”. Hoa Vinh là người có môi đỏ thắm, răng trắng đẹp, mặt khôi ngô và trẻ
trung, ngực nở nang, vai rộng. Trí dũng song toàn. Ngô Dụng: có túc trí đa mưu,
về tài mưu lược quân sự có thể ngang hàng Gia Cát Lượng,... Thời Thiên: tướng
mạo xấu, nhưng mạnh khỏe và nhanh nhẹn, nhanh trí và di chuyển rất nhanh. Đây
có thể là có thật song có thể là hư cấu. Bởi tiếng nói nhà văn là tiếng lòng của giai
cấp. Nguyện vọng của nhân dân đều được nhà văn mang vào trong tác phẩm để
bộc lộ khát vọng chính đáng khi mình chịu số phận thấp hèn và không có tiếng
nói trong xã hội.
Về tính cách, Thi Nại Am tài tình trong việc thể hiện cá tính của nhân vật,
mỗi nhân vật có cá tính khác nhau. Ðược thể hiện dần dần qua ngôn ngữ và hành
động mà không cần sự thuyết minh phân tích của nhà văn. Nếu như Tống Giang
là người ôn hòa, trầm lặng thì tác giả lại miêu tả một Lý Quỳ thô lỗ, lỗ mãng,....
Cùng là giáo đầu cấm quân, cùng bị Cao Cầu hãm hại nhưng hành động của
Vương Tiến và Lâm Xung hoàn toàn khác nhau: Lâm Xung nghĩa khí cầm đao đi
tìm kẻ thù chiến đấu, còn Vương Tiến chấp nhận số phận, mang mẹ già đi trốn.
Nhưng cho dù ôn hòa như Tống Giang, Tiều Cái; hiểu biết như Ngô Dụng; lỗ
mãng như Lý Quỳ, Vương Anh,... thì họ đều có thái đọ bất mãn và thoát ra xã
hội.
Họ đều là những con người anh hùng, bất bình trước thế sự, muốn ra tay
nghĩa hiệp nhưng lại bị giai cấp vùi dập. Họ không chỉ có bề ngoài của một người
anh hùng mà ngay cả trong từng lời nói, suy nghĩ của họ đều chứa đựng tư tưởng
của một người anh hùng. Họ là những con người đại diện cho thời đại mà họ sống
vì vậy họ mang dáng vẻ của người anh hùng thời đại. Ở họ có đủ phẩm chất, đạo
đức để trở thành người anh hùng. Họ làm tròn bổn phận, giàu lòng yêu thương
con người, đặc biệt cảm thông chia sẻ trước những nỗi đau người dân gánh chịu.
Cái khéo của Thi Nại Am là ở chỗ khắc họa không chỉ một vài nhân vật mà
ở đó bao gồm một hệ thống nhân vật với ngoại hình, tính cách, hoàn cảnh sống
khác nhau. Thế nhưng, mỗi nhân vật là một mảnh ghép làm phong phú, hoàn
chỉnh hơn trong tổng thể hệ thống nhân vật.
Ở họ có đủ phẩm chất, đạo đức để trở thành người anh hùng. Họ làm tròn
bổn phận, giàu lòng yêu thương con người, đặc biệt cảm thông chia sẻ trước
những nỗi đau người dân gánh chịu. Lỗ Trí Thâm cho tiền hai cha con đứa hát để
trở về cố hương và giết Trịnh Đồ, cứu con gái của Lưu Thái Công khỏi tay Chu
Thông.Tống Giang, giúp đỡ áo quan cho mẹ con Diêm Bà Tích Bà. Trong những
trận đấu với quan thần triều đình, khuyên ngăn các anh hùng hảo hán Lương Sơn
không được giết hại bách tính vô tội.
Những con người trọng nghĩa đã được Thi Nại Am khắc họa một cách rõ
nét từng hành động, lời nói, suy nghĩ. Đó là những con người hành động vì nghĩa,
vì lẽ phải đôi khi có một chút nặng nghĩa để rồi chính bản thân lâm vào mối nguy
hiểm.
Khi nhân vật Tiều Cái xuất hiện, tác giả đã đưa ra lời nhận định cho khí
phách của con người này “bình sinh trọng nghĩa khinh tài”, khi mời rượu ba anh
em họ Nguyễn, Tiều Cái luôn giữ phép, trọng tình nghĩa, thể hiện sự khí chất anh
hùng. Hay anh hùng Võ Tòng có võ nghệ cao cường, thường hay uống rượu,
thích hành hiệp trượng nghĩa, nổi tiếng là con người nghĩa khí.
Không những thế họ còn là những người nghĩa hiệp, bậc trượng phu coi
trọng tình nghĩa huynh đệ, tình nghĩa vợ chồng. Võ Tòng cầm đao giết Tây Môn
Khánh và Phan Kim Liên để trả thù cho người anh trai xấu số của mình. Dương
Hùng khi biết vợ là kẻ loạn luân đã giết vợ mình để chứng minh lòng thanh sạch
cho lòng thanh sạch của Thạch Tú. Lâm Xung yêu vợ nhưng bản thân lại không
thể tiếp tục se duyên, lo lắng thương vợ nên đành viết thư bảo vợ tìm một người
bảo vệ hơn mình.
Sinh ra trong thời xã hội loạn lạc, làm một con người bình thường đã khó
huống chi là làm một đấng anh hùng trượng phu. Trời sinh bản lĩnh trượng phu
thì tất yếu phải sinh ra tài năng hành đạo. Đến với nhân vật Lương Sơn Bạc cái
tài là điều mà ta có thể thấy rõ nhất, bởi nó thể hiện qua cách hành xử khôn khéo
giữa con người với nhau, tài trí khi lập mưu chống lại chuyện ác.
Nhân vật thứ nhất phải kể đến là Tống Giang: Đây là một vị tướng tài ba là
bộ mặt của Lương Sơn Bạc, Tống Giang nắm giữ một vị trí quan trọng trong thế
giới của Lương Sơn Bạc và cũng chính Tống Giang là người nối kết các anh hùng
Lương Sơn lại với nhau, tạo thành một khối đoàn kết hợp nhất đứng lên khởi
nghĩa. Cái tài của Tống Giang ở chỗ là một con người linh hoạt biết dùng trí tuệ
để phân định những việc chưa rõ và làm sáng tỏ.
Thứ hai đó chính là Võ Tòng. Cũng giống như các anh hùng Lương Sơn
Bạc khác Võ Tòng thể hiện “tài” mình bằng cách trừ khử con cọp trên núi đem lại
cuộc sống bình yên cho người dân. Chỉ qua việc chàng đấu trí với con cọp trong
núi cũng phần nào làm rõ được tài năng của chàng. Hơn thế nữa anh còn là một
người điều tra án tài tình, anh không nóng vội kết luận cái chết của anh trai là do
Phan Kim Liên, mà anh đã điều tra và tìm ra được chân tướng sự việc. Khi miêu
tả Võ Tòng Thi Nại Am viết “bình sinh chỉ đánh bọn ngang ngạnh, không có đạo
đức trong thiên hạ”, qua đó cho thấy anh ta là một con người cứng rắn, bắt nạt kẻ
mạnh chứ không bắt nạt kẻ yếu nói được làm được, đó là con người có dũng lại
có mưu, cái mưu đó chính là một phần nào thể hiện tài năng trong cách hành xử
cũng như dùng tài để giúp đời.
Chữ “tài” không chỉ được thể hiện qua tuyến nhân vật nam anh hùng mà
còn được khắc họa qua nhân vật nữ.
Trong Thủy Hử phải kể đến là bộ nữ anh hùng: Cố Đại Tẩu, Hỗ Tam
Nương, Tôn Nhị Nương ba người này trời sinh ra phận đàn bà nhưng tính khí lại
mạnh mẽ cương trực, dám xông pha trận mạc chiến đấu, để đánh giặc. Miêu tả ba
nhân vật nữ này Thi Nại Am không chú trọng đến cuộc đời, hay những ngã rẽ
riêng biệt của mỗi nhân vật cái mà ông muốn nói tới đó chính là tài năng và đức
độ của ba nhân vật nữ. Giữa một rừng hảo hán như vậy đều là đấng nam nhi tài
cao, thì lại hiện lên những nữ tướng anh dũng tài đức chỉ có thật sự có tài năng
mới có thể đứng trên đất Lương Sơn Bạc, mới có thể cưỡi ngựa xông pha trận
mạc. Bản lĩnh tài năng đó chính là điều mà chúng ta nhận thấy được ở cả ba nhân
vật nữ này.
Chữ “Hiếu” cũng được Thi Nại Am trau chuốt lồng vào. Mặc dù là một con
người cư xử lỗ mãng nhưng Lý Quỳ thực sự là một người con có hiếu. Sau khi
lên Lương Sơn làm đầu lĩnh, Lý Quỳ vì nhớ gia đình nên xin phép Tống Giang
xuống núi về quê mang theo gia đình lên. Tuy nhiên khi về thì Lý Quỳ bị Lý Đạt
chửi và báo quan. Lý Quỳ đành cõng mẹ đi ngay. Trên đường đi, mẹ ông khát
nước nên ông để mẹ ngồi đợi rồi đi tìm nước cho mẹ uống. Nhưng không may
trong lúc Lý Quỳ đi, bầy hổ trong rừng đã xé xác mẹ ông. Lý Quỳ trở về không
thấy mẹ đâu, ông hoảng hốt đi tìm khắp nơi, đến gần hang hùm thì thấy 4 con hổ
đang gặm xác mẹ mình, ông tức quá xông thẳng vào dùng phác đao giết trọn 4
con hổ trả thù cho mẹ, rồi đau đớn khóc thương thu nhặt xương tàn của mẹ đem
chôn cất.
Các anh hùng Lương Sơn không chỉ mang trong mình vẻ đẹp của người
anh hùng, mà ở họ còn rực lửa bởi tinh thần chiến đấu, khí chất của một đấng
trượng phu.
Lòng trung thành và cam đảm trong chiến đấu.
Điều này có lẽ là yếu tố đầu tiên làm nên con người bản lĩnh của các anh
hùng Lương Sơn Bạc. Họ quyết liệt phản kháng xã hội đầy bất công. Qua bài thơ
ngâm ở Tầm Dương của Tống Giang, ta cũng thấy ông chán ghét cái xã hội thối
nát này:
“Ngày nào rửa sạch oán thú ấy
Nước bến Tầm Dương máu đỏ ngầu
Một mai thỏa cánh bằng tung gió
Khinh cả Hoàng Sào chửa trượng phu”
Hay như Nguyễn Thị Tam Hùng:
“Đầm Liêu Nhi một đời đánh cá
Gai không trồng mà lúa cũng không
Ơn nhà Triệu như biển sông
Quan tham giết sạch thỏa lòng hờn căm”
Trong mọi trận đấu, Lý Quỳ luôn là người xung phong ra trận. Ông rất
hăng hái, nhiệt tình và trung thành với Tống Giang. Tuy thế nhưng có một số lần
ông giận dỗi, bỏ trốn khỏi Lương Sơn với lý do Tống Giang không cho ông ra
trận. Hay, Thạch Tú dũng cảm trên chiến trường, với lòng can đảm và trí thông
minh đã nhảy lầu, cướp pháp trường,... Ba anh em nhà họ Nguyễn “không sợ trời,
không sợ đất, không sợ quan”.
Lý tưởng sống cao đẹp: Thế thiên hành đạo. Có thể nói “thiên mệnh” là
quyền lực tối cao nhất trong thời phong kiến. Thiên là trời và thiên cũng là vua.
Thiên mệnh được coi là mệnh trời, quyền vua do trời trao cho, cho nên mệnh vua
coi như mệnh trời. "Quân sử thần tử, thần bất tử bất trung”. Tuy nhiên đó chỉ là
tôn chỉ làm mù quáng dân tạo điều kiện cho vua chúa bảo vệ quyền lực. Trên thực
tế trong lịch sử đã khẳng định, ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh. Khi tình
hình chính trị bất ổn, tầng lớp vua quan sa ngã thì những cuộc khởi nghĩa của
nhân dân là điều tất yếu. Trong số 108 anh hùng có hơn nửa là bậc tôi trung con
hiếu, những người sẵn lòng phục vụ triều đình. Nhưng triều đình buộc họ phải trở
thành lạc thảo.
108 anh hùng hảo hán ở Lương Sơn Bạc là gương mặt đại diện để vạch
trần bộ mặt xã hội, cứu vớt bách tính khỏi lầm than. Không chỉ bao gồm quan
triều đình, phú hào, mà còn có thợ săn, người đánh cá, người bán thuốc, gánh củi,
thậm chí cả ăn cướp cũng có,... thế nhưng họ được xã hội tiếp nhận, được lòng
của nhân dân. Họ đại diện cho mọi tầng lớp bị chèn ép bóc lột để nói nên khát
vọng được đấu tranh, giải thoát khoải chế độ phong kiến mục nát. Chính vì thế,
dù làm “lạc thảo” nhưng họ vẫn được gọi chung một cái tên là những anh hùng
hảo hán Lương Sơn.
Hành động của họ mang đậm tính nhân nghĩa, cướp của người giàu chia
cho người nghèo. Lưu Đương cùng Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, 3 anh
em họ Nguyễn cướp số châu báu chúc thọ Sái Kinh rủ nhau lên Lương Sơn Bạc.
Họ đánh phá các Châu, cướp lương thực vàng bạc của người giàu, ba lần
đánh thắng Cao Cầu, 3 lần đánh Chúc gia trang, Hổ gia trang, Phủ Cao Đường,
Phủ Đại Danh, Tăng Thị Đầu,..... Xét trong bối cảnh xã hội bấy giờ, một chính
quyền mục nát thối ruỗng thì nhân dân là những người phải hứng chịu đau
thương nhiều nhất. Việc đứng lên chống lại triều đình đã phần nào thỏa mãn
nguyện vọng của người dân.
=> Họ là những vị anh hùng mang chuẩn mực của xã hội, mẫu hình anh
hùng lý tưởng của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại, có những phẩm chất tốt
được bách tính mến mộ. Nhưng do sống nhầm thời nên mới nảy ra cuộc phản
kháng chống lại triều đình. Họ hiểu được cuộc sống, nổi khổ của nhân dân khi
phải phục tùng một ông vua ăn chơi đàn điếm, không làm tròn bổn phận của
mình; một tầng lớp quan sai nịnh hót, mưu mô, đểu cáng. Anh hùng Lương Sơn
đã thay trời mà cũng là thay nhân dân trừng phạt giai cấp cầm quyền nên trên lá
cờ Lương Sơn đã thêu nên bốn chữ “Thế thiên hành đạo”.
Gặp chuyện bất bình không tha
Mỗi người một tính cách, một môi trường, một hoàn cảnh sống khác nhau.
Tuy nhiên giao điểm chung giữa họ được thể hiện qua việc gặp chuyện bất bình
không tha. Là một người không có gia đình, không chút vướng bận, tính tình
ngay thẳng, hào hiệp, thô lỗ nhưng đặc trưng tính cách trong con người Lỗ Trí
Thâm được biểu hiện “giữa đường gặp chuyện bất bằng không tha”.
“Gậy thiền phá nát dường nguy hiểm,
Đao giới giết hết kẻ bất bình”
Hay:
“Giết người phải thấy máu vung,
Cứu người phải cứu đến cùng mới thôi”
Khi nghe được cha con Kim Thúy Liên kể chuyện bị tay ác bá Trấn Quan
Tây Trịnh Đồ ép hại (Kim Thúy Liên bị ép bán thân gả làm vợ lẽ do không thể trả
nợ chạy chữa cho cha). Nghe nói đến đây, Lỗ Trí Thâm nổi cơn thịnh nộ, đưa hai
cha con ít tiền lộ phí và hứa sẽ xử lý việc này.
Lỗ Trí Thâm liền đến để tìm chuyện với mục đích "dạy Trịnh Đồ một bài
học". Lỗ Trí Thâm lần lượt làm khó Trịnh Đồ bằng nhiều yêu cầu oái oăm như
bắt Trịnh Đồ tự thái hàng cân thịt toàn nạc hoặc toàn mỡ, không chịu nổi yêu cầu
vô lý (Trịnh Đồ trước quan lại vốn rất mềm mỏng, lễ phép), Trịnh Đồ phản kháng
liền bị họ Lỗ cho một bạt tai. Nhịn không nổi, Trịnh Đồ lấy dao ra sống chết với
Trí Thâm. Tuy nhiên, với võ nghệ cao cường, Lỗ Trí Thâm nhanh chóng đánh bay
dao, khống chế Trịnh Đồ, đè Trịnh Đồ xuống vừa đấm vừa mắng, không ngờ, do
quá mạnh tay, Trịnh Đồ vong mạng dưới tay Trí Thâm.
Thạch Tú quê ở phủ Kim Lăng, từ thuở nhỏ theo đòi võ nghệ, tính thích trừ
những việc bất bình, sau theo chú đi buôn ngựa, bất đồ giữa đường chú mất tiêu
hết tiền nong, đành phải lưu lại ở đất Kế Châu mà hái củi kiếm ăn cho qua ngày
tháng. Một hôm gánh củi đi qua thấy Dương Hùng bị đánh liền xông vào giải
vây, rồi gặp Dương Lâm rủ lên Lương Sơn Bạc. Dương Hùng và Thạch Tú kết
nghĩa làm huynh đệ, Thạch Tú trú trọ ở nhà Dương Hùng, mở quán bán thịt. Vợ
Dương Hùng là Phan Xảo Vân tư thông với hòa thượng Bùi Như Hải. Thạch Tú
và Thì Thiên biết được, báo lại với Dương Hùng. Dương Hùng không tin, đuổi
Thạch Tú ra khỏi nhà. Thạch Tú giết Bùi Như Hải đêm đó rồi bắt Phan Xảo Vân
giải lên núi Thúy Bình, đưa Dương Hùng lên tra hỏi. Dương Hùng biết sự thật,
chém chết Phan Xảo Vân.
Anh hùng hảo hán, võ nghệ cao cường, giàu lòng vị tha, xả thân vì nghĩa.
Xoay quanh họ là những điều chướng tai gai mắt và họ không thể nào dửng dưng
trước thế sự như vậy, họ liền ra tay. Máu anh hùng trong họ luôn trỗi dậy mỗi khi
gặp những chuyện bất bình. Đó được coi là hành động chuẩn mực. Điều này thể
hiện lý tưởng khát vọng của nhân dân đối với một tầng lớp lãnh đạo. Đồng thời
phản đối sự thống trị hà khắc của chính quyền mục nát. Bởi vậy quân khởi nghĩa
được gọi là “Hảo hán Lương Sơn”. Ngoài ra, ta có thể kể đến Thủy Hử như là
trang sử ghi lại cuộc khởi nghĩa của nông dân dưới thời Bắc Tống.
2.3.2 Nhân vật phản diện
Nếu như nhân vật anh hùng chính diện ở phần trên đại diện cho lực lượng
anh hùng chính nghĩa trong xã hội lúc bấy giờ, thì tuyến nhân vật phản diện hoàn
toàn ngược lại…Những nhân vật phản diện là những lực đại diện cho cái phi
nghĩa, cái ác, cái xấu xa, tàn bạo, trái với đạo đức, lý tưởng và đáng bị thời đại,
xã hội và con người lên án.
Tầng lớp vua quan
Khởi nguồn, bắt đầu từ việc Triết Tôn Hoàng Đế không có con trai, quan
quân trong triều đình thương nghị lập Đoan Vương lên làm ngôi Thiên Tử, xưng
để hiệu là Huy Tông gọi là Thành Ngọ Giáo Chủ, Vi Diệu Hoàng Đế. Sau khi lên
ngôi Thiên Tử, thăng cho Cao Cầu lên chức Điện Súy Thái Úy trong thời gian trị
vì của mình, vị vua này sinh hoạt xa xỉ, dùng sức quan quân triều đình để thỏa
mãn những nhu cầu của mình. Ông là một trong những vị vua bỏ trung thần mà
ưu tiên trọng dụng gian thần, để cho tham quan lộng hành dẫn đến các cuộc khởi
nghĩa nông dân, đấu tranh giai cấp và đặc biệt là đưa đến việc tụ nghĩa ở bến
nước Lương Sơn.
Sơ lược về vị vua nhà Tống, mở đầu tiểu thuyết Thủy Hử cũng như là trong
toàn bộ cuốn sách nhân vật quan trọng xuất hiện đầu tiên là Cao Cầu. Cao Cầu là
một sủng thần của Tống Huy Tông. Trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am
Cao Cầu là một nhân vật phản diện chính thống, xuất hiện ở đầu của tiểu thuyết.
Cao Cầu là một tên con nhà lông bông, mất dạy, thuở nhở không chịu làm , chỉ
biết mua thương đánh gậy và có biệt tài đá cầu rất giỏi bởi thế trong kinh sư gọi
là Cao Cầu, anh chàng này giỏi thổi sáo múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ lối mà
còn đòi học thơ, phú, nhưng khi nói đến Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, hạnh trung
lương ở đức thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì, suốt ngày anh ta chỉ ở trong
thành, ngoài thành Đông Kinh bám vào những tay du thử du thực đánh đu với
Sinh Thiết Vương Viên Ngoại để kiếm tiền tiêu sài. Không lâu sau đó có đơn kiện
Cao Cầu bị bắt án đánh hai mươi trượng và bị trục xuất khỏi Đông Kinh.Khi ông
ta chưa đắc trí thì tỏ ra hết sức ôn hòa, ngoan ngoãn, khéo dua nịnh đối với những
nhân vật có quyền thế. Nhưng một khi ông ta đắc chí, liền mượn chuyện công để
báo thù riêng, hà hiếp thuộc hạ, đâu đâu cũng tỏ vẻ oai phong, ngang ngược
không ai bằng.
Cao Cầu là một nhân vật thủ đoạn nhờ đá cầu giỏi nên được Hoàng Đế
Tống Huy Tông trọng dụng có quyền hành lớn trong triều- Cao Thái Úy- Cao
Cầu là người có nhiều mưu mẹo, xảo quyệt. Do không phải dễ dàng từ một tên
lông bông, vô danh vô thực trở thành Thái Úy đứng đầu trong đám quan thần nên
hình tượng nhân vật phản diện của Cao Cầu đã thể hiện được hết mọi tính cách
của một viên quan tham lam, tàn bạo.
Đúng như lời bình của Kim Thánh Thán “loạn từ trên loạn xuống”. Con
người của Cao Cầu là điển hình bản chất thối nát xấu xa của xã hội phong kiến,
trở thành nhân vật tiêu biểu của giai cấp thống trị. Cao Cầu chính là kẻ làm cho
anh hùng có nhà mà không được về, sống trên quê hương đất nước của mình mà
phải lẩn tránh, ẩn nấp chốn Thủy Bạc- Sơn, làm cho người có tài có sức mà
không được xuất hiện ở đời.
Cao Cầu là sợi dây vô hình kết dính tất cả những tham quan ô lại lớn nhỏ
tè Trung Ương đến Địa Phương thành một chuỗi với những mối quan hệ hoàng
thân quốc thích, dây mơ rể má. Từ Cao Nha Nội là anh em chú bác, vừa là con
nuôi của Cao Cầu, Cao Liêm Tri phủ Cao Đường là anh em con chú bác hắn,
Thái Kính, Đồng Quán là bè đảng. Còn Thác Đắc Chương là con trai của Thái
Kính, Lưu Thế Kiệt lưu thủ ở Bắc Kinh là con rể của Thái Kính, Hoa Châu Hạ
Thái Thú là tôi tớ của Thái Kính. Bọn này cộng thêm Mộ Dung Ngạn Đạt, tri phủ
Phanh Châu Lưu Cao, … chỗ nào cũng ỷ lại vào địa vị giai cấp của mình và đặc
quyền phong kiến để bức người quân tử anh hùng, để nén người dân.
Chính Cao Cầu là người tiếp tay cho bè phái của hắn bức áp, hạm hại Lâm
Xung- như bày mưu hại Lâm Xung mua đao, dụ đến Bạch Hổ. Đường dẫn đến tội
làm phản để cho Cao Nha Nội bắt ép vợ Lâm Xung.
Tầng lớp địa chủ, tay sai
Ngoài tầng lớp vua quan trong triều đình thì ở bên ngoài còn có thêm bọn
địa chủ, ác bá cấu kết thông đồng với đám quan phủ cười lên đầu dân, gây nên
bao nhiêu tội ác tày trời khiến nhân dân vô cùng uất hận, căm phẫn.
Như tên Trấn Tây Quan Trịnh Đồ làm văn tự giả gạt cô gái Kim Thúy Liên
cùng người cha già, sau đó đuổi đi và đòi lại món tiền chuộc ba nghìn quan, ở
quán rượu Lổ Đề Hạt- Lỗ Trí Thâm nghe tiếng khóc lâu sang hỏi chuyện thì trong
lòng căm tức đi giết chết tên Trịnh Đồ, bị quan quân truy nã và lưu lạc chốn giang
hồ.
Hay như tên gian phụ Tây Môn Khánh, quyến rũ Phạm Kim Liên cùng với
Vương Bà xúi giục dâm phụ giết chồng là Võ Đại Lang một anh chàng bán bánh
nướng hiền lành, làm cho người người ghê sợ, Võ Tòng muốn đòi lại đạo lý cho
anh của mình giết chết Tây Môn Khánh và Phan Kim Liên phạm vào tội giết
người., từ đó cũng dứt áo ra đi phong ba chốn bụi trần.
Bên cạnh đó còn có lão già Mao Thái Công gian xảo, dối trá, giấu con hổ
trúng tên của 2 anh em Giải Bảo, Giai Trân rồi đổ tội cho ai anh em họ là cướp
đoạt tài sản rồi dẫn lên quan phủ dẫn đến kết cục cướp ngục, bỏ trốn gia nhập
Lương Sơn Bạc.
Hay như ở Chúc Gia Trang là Chúc Triều Phung và 3 anh em Chúc Bưu,
Chúc Long, Chúc Hổ thề chết chống lại Lương Sơn Bạc với khẩu hiệu:
“Lấp bằng Thủy Bạc bắt tiều lái
Giam nát Lương Sơn bắt Tống Giang”
Qua tuyến nhân vật phản diện này để tạo nên một bức tranh ghê tởm, đáng
lên án của xã hội phong kiến thối nát, mục rửa, từng tên quan tham, gian thần
phơi bày, lộ rõ bộ mặt lội thú máu của nhân dân làm cho xã hội, thời cuộc đời
sống của nhân dân bách tính u ám, tối tăm, tù đọng, bế tắc, dẫn đến thời cuộc,
tình thế rối ren, nhân dân khởi nghĩa, binh biến loạn lạc.
Nhân dân bị áp bức bóc lột rất là đông, thuộc thành phần số nhiều, bao
quát toàn bô ở trên có quí tộc, địa chủ, phong kiến..ở dưới có thợ săn, ngư dân…
chẳng sót chẳng chừa chẳng thiếu một ai, một thành phần nào.
Chính thành phần phản diện này là vua quan, địa chủ, ác bá đã làm cho
tình thế thời cuộc rối ren, nông dân nổi dậy, khởi nghĩa, chống phá, làm cho anh
hùng thất thế, bỏ triều đình ra đi tìm đường sống dung thân vùng vẫy trong vùng
bến nước Lương Sơn Bạc để thỏa cái tài chí của mình.
Bên cạnh đó ta còn thấy rõ một chân lí hùng hồn, sáng suốt của thời đại lúc
bấy giờ, một minh chứng cho việc “quan bức thì dân phản”- tức nước vỡ bờ,
phản kháng, chống lại, đấu tranh là con đường tốt nhất để cứu vớt ra khỏi triều
đình suy thoái, nhân dân khổ cực.
2.4 Tính kí hiệu của nhân vật
Điều khiến “Thủy Hử” trở nên cuốn hút, hấp dẫn là ngoài tính cách đa
dạng của các nhân vật, thì tính kí hiệu trong văn học để góp phần làm nổi bật nên
những nhân vật anh hùng. Hay nói cách khác các nhân vật này đều do ý trời
muốn tụ họp 108 anh hùng Lương Sơn Bạc lại với nhau. Trong số 108 vị, chia ra
làm hai nhóm là các Chánh tướng (Thiên cang – 36 vị) và các Phó tướng (Địa sát
– 72 vị), với nhiều kiểu xuất thân: người thì là dòng dõi cao quý (ví dụ như Lư
Tuấn Nghĩa, Quan Thắng…), người thì chỉ là loại đầu trộm đuôi cướp (Thời
Thiên, Bạch Thắng…), quan lại triều đình (Tống Giang- Thiên Khôi Tinh, Tiều
Cái, Lâm Xung-Thiên Hùng Tinh, Dương Chí- Thiên Ám Tính…), hay những
anh tự do như Võ Tòng, Dương Thanh… Người thủ lĩnh đầu tiên của Lương Sơn
Bạc là Vương Luân, nhưng chính Vương Luân lại bị Lâm Xung giết để tôn Tiều
Cái. Tiều Cái được xem là người khai sáng Lương Sơn, nhưng lại không thuộc
vào số 108 vị anh hùng - không thuộc vào 36 vị thiên cang hay 72 vị địa sát - vì
ông bị tử trận trước khi Lương Sơn tập hợp đủ 108 người. Tài năng, tính cách của
các anh hùng Lương Sơn cũng phong phú, mỗi người một vẻ. Ngoài những người
giỏi chinh chiến trên lưng ngựa như Quan Thắng, Lâm Xung, Hô Duyên Chước,
Tần Minh, Đổng Bình...hoặc đánh bộ như Lý Quỳ, Võ Tòng, Lỗ Trí Thâm... còn
một đội ngũ các tướng chuyên đánh dưới nước như anh em Trương Hoành,
Trương Thuận, 3 anh em họ Nguyễn và cả Lý Tuấn; các quân sư tài ba như Ngô
Dụng, Chu Vũ; những người di chuyển nhanh hoặc giỏi đột nhập như Đới Tung,
Thời Thiên... Đặc biệt, trong các anh hùng Lương Sơn còn có 3 nữ tướng là Cố
Đại Tẩu, Hỗ Tam Nương và Tôn Nhị Nương. Một bộ sách bảy mươi hồi, với một
trăm lẻ tám người, theo 36 vị Thiên Cang, thì ngôi sao Tống Giang làm chủ; mà
khi trước làm trộm cướp vậy, lại theo 72 vị Địa Sát, có ngôi sao Chu Vũ, dẫu rằng
bút lục tung hoành của tác giả rất khéo, song cũng ngược với đạo trời mà làm ra
vậy.
Những con số đó có vai trò rất quan trọng nó làm cho những nhân vật dù
có mối quan hệ lỏng lẻo hoặc cách xa nhau đều có thể tập kết một cách ngẫu
nhiên tạo thành một quần thể anh hùng. Mặt khác, nó cũng còn rất dễ nhớ, lưu
truyền trong lòng người đọc. Nó không chỉ có vai trò tập hợp nhân vật mà còn
khiến cho nhóm có tính chất thần kì, siêu nhiên.
Cho dù sau này trong Hậu Thủy Hử, các hảo hán đa số mạng vong, những
người còn lại cũng không được viên mãn đến cuối đời, nhưng Thủy Hử vẫn là bài
ca bất tận về tráng chí khao khát tự do. Hình ảnh 108 hảo hán Lương Sơn còn
được lặp đi lặp lại trong nhiều cuốn phim về sau, xem một lần rồi nhớ mãi.
Tống Huy Tông sau này nhận ra sai lầm của mình nhưng cũng đã muộn;
mới cho đắp tượng 36 Thiên Cương, 72 Địa Sát ở Sở Châu để ngàn năm cúng
bái. Người đời kể rằng Tống Công Minh vẫn hiển linh cứu giúp dân chúng.
2.5 Nghệ thuật xây dựng thế giới nhân vật
Bút pháp khắc họa thế giới nhân vật
Khắc họa thế giới nhân vật một cách tinh tế, được thể hiện qua tính cách
của các anh hùng Lương Sơn Bạc. Tác giả giỏi khắc họa nhân vật qua hành động,
ngôn ngữ. Mỗi nhân vật đều có những nét riêng, ai cũng võ nghệ cao cường, giàu
lòng vị tha xả thân vì nghĩa. Mỗi người một vẻ góp phần tạo nên sự đa dạng,
phong phú trong tính cách của họ đã phản ánh khí khái anh hùng và tinh thần
phản kháng của quần chúng nhân dân qua nhiều mặt khác nhau. Tuy số lượng rất
đông đảo nhưng tác phẩm vẫn đảm bảo tính thống nhất và toàn vẹn của kết cấu
nhờ hiện thực của dòng lịch sử đang vận động và sự vận động của các nhân vật
đều hướng tới đó là sự phản kháng quyết liệt đứng lên chống lại quan quân để
giành quyền sống, bởi “bất phản kháng tức tử vong”.
Tác phẩm xây dựng được tính cách nhân vật điển hình, rõ rệt, thậm chí dị
biệt. Nếu Tống Giang coi việc làm phản là tội "đáng diệt chín họ" và con đường
đến với Lương Sơn quanh co, day dứt bao nhiêu, thì Lý Quỳ lại xem đó là việc
đương nhiên và việc gia nhập chốn thủy hử (bến nước) của họ Lý lại đơn giản
bấy nhiêu. Ngay trong một nhân vật, khi hoàn cảnh sống và địa vị xã hội thay đổi,
tính cách cũng thay đổi theo, như Lâm Xung vốn là người hiền lành nhẫn nhục,
nhưng khi ở miếu Thổ thần, hiểu thấu sự nham hiểm và tàn bạo của đám quan
trên, ông lại trở nên ngỗ ngược, ngang tàng. Về nổ lực xây dựng cá tính của
những hình tượng nghệ thuật, Thủy hử đã vượt thoát khỏi những khuôn sáo "tính
cách có sẵn", "lý tưởng hóa" của các tác phẩm cổ điển, tạo nên những cá tính sinh
động và có sức thuyết phục độc giả.
Ngôn ngữ, giọng điệu
Tác giả đã dựng dậy vô số nhân vật có phong tục tập quán cũng như lời ăn
tiếng nói của vùng thượng lưu và trung lưu sông Hoàng Hà. Phải dụng công lắm
Thi Nại Am mới xây dựng được những nhân vật không những có "suy nghĩ và
hành động phù hợp với giai cấp xuất thân và địa vị xã hội", hình dáng và lời nói
không ai giống ai trong thực tế cuộc đời.
Giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, thể hiện được tính cách đặc trưng của các
anh hùng. Bằng tài năng của tác giả trong việc sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu
dù là sự chắp nối những câu chuyện với nhau nhưng tác giả đã khái quát được
lịch sử của đất nước mình, mang đậm màu sắc văn hóa dân tộc Trung Hoa.
Theo giáo sư Lương Duy Thứ, văn chương của Thủy hử không "dệt gấm
thêu hoa" như Tây Sương ký, không "nhả ngọc phun châu" như Hồng Lâu Mộng,
mà là "nhạc trỗi chuông ngân", hùng hồn, dồn dập. Văn chương của Thủy hử gần
gũi với truyện kể dân gian. Tác phẩm Thủy hử giữ được tính sống động của nhân
vật trong ngôn ngữ gân gũi với đời sống hằng ngày, trong lối hành văn ít trang
sức tô điểm.
CHƯƠNG 3
TỔNG KẾT
Một giai đoạn lịch sử qua đi không có nghĩa là tất cả những thứ thuộc về
giai đoạn đó sẽ chìm vào dĩ vãng, đối với Thủy Hử không phải đơn thuần mà nó
được mệnh danh là một trong bốn tứ đại kì thư bậc nhất của đất nước Trung Hoa
mà trải qua hàng trăm năm của lịch sử nó vẫn giữ được những tinh chất như thuở
ban đầu. Ở Thủy Hử không chỉ tái hiện lại cuộc khởi nghĩa lẫy lừng chấn động
trong thời kì lịch sử, những người anh hùng kiệt xuất luôn sẵn sàng chiến đấu vì
chính nghĩa, đem tài năng của mình để giúp ích cho đời mà còn cho ta thấy cách
hành đạo của bậc trượng phu thời bấy giờ. Viết nên những trang sách lỗi lạc Thi
Nại Am không chỉ muốn cho bạn đọc thấy tinh thần trượng phu nghĩa hiệp của
các đấng Lương Sơn mà còn muốn thể hiện nỗi bất bình của mình trước thời đại
mà ông sống, mong muốn đấu tranh để thay đổi tình hình đất nước. Thủy Hử đã
để lại cho nhân loại nhiều giá trị tốt đẹp góp làm rạng rỡ nền văn học Trung
Quốc.