Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng, hợp lí trong pháp luật nhân quyền quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.46 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
Quyền con người là những giá trị cao quý, kết tinh từ nền văn hóa của tất cả
các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện
chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi
người. Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, quyền con người hiện đã trở thành
một hệ thống các tiểu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất bắt buộc đối với mọi
quốc gia, và việc tôn trọng, bảo vệ các quyền con người hiện đã trở thành thước đo
căn bản về trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới. Hệ thống
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người về cơ bản được chia thành các quyền
của cá nhân và các quyền đặc thù áp dụng cho một số nhóm người tức quyền của
nhóm. Nhóm quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa là một trong hai nhóm quyền
quan trọn nhất thuộc về nhóm quyền của cá nhân, trong đó phải kể đến quyền làm
việc và hưởng thù lao công bằng, hợp lý. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, quyền
lợi của người lao động luôn luôn được coi trọng và quan tâm bởi người lao động là
chủ thể trực tiếp tạo ra vật chất, hàng hóa, sản phẩm, họ phải được hưởng thành quả
lao động của bản thân mình, được hưởng các quyền, lợi ích và điều kiện lao động
cơ bản. Do đó, người lao động phải được hưởng các quyền liên quan đến vấn đề
việc làm và được hưởng thù lao một cách công bằng hợp lí nhất, đảm bảo đầy đủ
các điều kiện sống cơ bản, thỏa mãn nhu cầu của con người.
1


B. NỘI DUNG
I. QUYỀN LÀM VIỆC VÀ HƯỞNG THÙ LAO CÔNG BẰNG, HỢP LÝ
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ.
Trong luật nhân quyền quốc tế, quyền về lao động bao gồm nhiều khía cạnh
khác nhau như: quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp; quyền được bảo đảm điều kiện
lao động hợp lý; quyền được trả thù lao hợp lý; quyền được thành lập công đoàn,
được đình công; quyền được nghỉ ngơi,…


Với phạm vi toàn cầu, quyền lao động, làm việc được biết đến trong pháp luật
kể từ Bộ luật nhân quyền: Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền 1948 (UDHR),
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR), Công ước quốc tế
về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 (ICESCR). Ngoài ra, phải kể đến các
văn kiện pháp luật do Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thông qua, như Tuyên bố về
các quyền lao động cơ bản của ILO tại nơi làm việc năm 1998.... Trong các văn
kiện trên, một số văn kiện có giá trị ràng buộc nghĩa vụ thực hiện của các quốc gia
thành viên (ICCPR, ICESCR,...) có những văn kiện chỉ là tuyên bố không mang
tính ràng buộc, yêu cầu các quốc gia phải thực hiện. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
những giá trị lịch sử về quyền lao động của con người mà các văn kiện này mang
lại đối với hệ thống pháp luật quốc tế .
2


1. Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng hợp lý trong tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền 1948 (UDHR)
Tại Điều 4 UDHR nêu rằng: “Không ai có thể bị bắt làm nô lệ hay nô dịch;
chế độ nô lệ và sự mua bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm chỉ” . Quy định
này khẳng định chắc chắn về quyền làm việc của mọi người đều phải do người đó
quyết định, không một ai có thể ép buộc, hay bị ép buộc; coi, hoặc bị coi là nô lệ,
nô dịch dù dưỡi bất cứ hình thức nào đều là xâm phạm nghiêm trọng quyền lao
động làm việc của con người.
Điều 23 UDHR quy định về quyền được tự do lựa chọn việc làm, được hưởng
lương, trợ cấp, được gia nhập công đoàn, cụ thể:
“1. Mọi người đều có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại
nạn thất nghiệp;
2. Mọi người đều có quyền được trả công ngang nhau cho những công việc như
nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào;
3. Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ thù lao công bằng và hợp

lý nhằm đảm bảo sự tồn tại của bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và
được trợ cấp khi cần thiết bằng các biện pháp bảo trợ xã hội;
4. Mọi người đều có quyền thành lập hoặc gia nhập công đoàn để bảo vệ các
quyền lợi của mình.”
Tiếp nối Điều 23, Điều 24 UDHR đã bổ sung quy định về quyền được nghỉ
ngơi thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý số giờ làm việc và hưởng những
ngày nghỉ định kỳ có hưởng lương: “Ai cũng có quyền được nghỉ ngơi và giải trí,
được hưởng sự hạn định số giờ làm việc và những ngày nghỉ định kỳ có trả
lương.”
2. Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng hợp lý trong Công ước quốc
tế về các quyền chính trị, dân sự 1966 (ICCPR)
3


Kế thừa và tái khẳng định tinh thần của Điều 4 UDHR, Điều 8 ICCPR một lần
nữa quy định rằng:
“1. Không ai bị bắt làm nô lệ; mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị
cấm; 2. Không ai bị bắt làm nô dịch; 3. Không ai bị yêu cầu phải lao động bắt
buộc hoặc cưỡng bức”.
Do tính chất bắt buộc của UDHR và ICCPR khác nhau (UDHR chỉ mang tính
tuyên bố, ICCPR mang tính bắt buộc nghĩa vụ thực hiện của các quốc gia thành
viên) vì thế quy định của Điều 8 ICCPR đóng vai trò quan trọng, sẽ ràng buộc được
các quốc gia thành viên thực hiện một cách nghiêm túc, đảm bảo quyền tự do lao
động không bị bắt buộc, cưỡng bức của con người.
3. Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng hợp lý trong Công ước quốc
tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 (ICESCR)
ICESCR cụ thể hóa các quyền về lao động nêu ở UDHR tại các Điều 6,7,8.
Theo Khoản 1 Điều 6, các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm
viễ, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công
việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện

pháp thích hợp để bảo đảm quyền này. Khoản 2 Điều 6 quy định, các quốc gia
thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp để thực hiện đẩy đủ quyền này,
bao gồm triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp, các chính
sách và biện pháp kĩ thuật nhằm đạt tới sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội
và văn hóa, tạo công ăn việc làm đẩy đủ và hữu ích với điều kiệ bảo đảm các
quyền tự do cơ bản về chính trị và kinh tế của từng cá nhân.
Điều 7 ICESCR khẳng định Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận
quyền của mọi người được hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận
lợi, đặc biệt là được bảo đảm:
a) Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải bảo đảm:

4


(i)

Tiền lương thỏa đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có giá
trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải
được đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được
trả công ngang nhau đối với những công việc giống nhau;

(ii)

Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các
quy định của Công ước này.

b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh.
c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức vụ thích hợp
cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc. d) Sự nghỉ ngơi, thời gian
rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng

lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ.
Ngoài ra, Điều 8 ICESCR quy định các quốc gia thành viên Công ước cam kết
bảo đảm quyền của mọi người được thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa
chọn, theo quy chế của tổ chức đó, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã
hội của mình. Việc thực hiện quyền này chỉ bị những hạn chế quy định trong pháp
pháp luật và là cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích của an ninh quốc gia
và trật tự công cộng, hoặc vì mục đích bảo vệ các quyền và tự do của những người
khác ( Điểm a, Khoản 1. Điều 8) và các quốc gia có quyền đình công với điều kiện
là quyền này phải được thực hiện phù hợp với pháp luật của mỗi nước (điểm d,
Khoản 1. Điều 8)
Đặc biệt, Điều 10 ICESCR nhấn mạnh đến đối tượng lao động là trẻ em. Theo
đó, Khoản 3 – Điều 10 ICESCR có nêu “Trẻ em và thanh thiếu niên cần được bảo
vệ để không bị bóc lột về kinh tế và xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm
các công việc có hại cho tinh thần, sức khoẻ hoặc nguy hiểm tới tính mạng, hay có
hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị trừng trị theo pháp luật. Các
5


quốc gia cần định ra những giới hạn về độ tuổi mà việc thuê lao động trẻ em dưới
hạn tuổi đó phải bị pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt.”
4. Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng hợp lý trong một số văn
bản pháp lý quốc tế khác.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã thông qua nhiều văn kiện pháp luật để ghi
nhận và bảo vệ các quyền trong lĩnh vực lao động. ILO đã thông qua nhiều công
ước và khuyến nghị nhằm thiết lập các tiêu chuẩn bao trùm các lĩnh vực liên quan
đến lao động. Các chủ đề được đề cập trong các công ước có liên quan của ILO có
phạm vi rất rộng, bao gồm tự do lập hội, sức khỏa người lao động, các điều kiện lao
động trong lĩnh vực hàng hải, lao động ban đêm, phân biệt đối xử, lao động cưỡng
bức, lao động trẻ em….
Năm 1998, ILO thông qua Tuyên bố về các quyền cơ bản của người lao động

tại nơi làm việc gồm: (i) Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của người
lao động và người sử dụng lao động (theo Công ước số 87 và số 98 của ILO); (ii)
Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc (theo Công ước số 29 và số 105
của ILO); (iii) Cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em
tồi tệ nhất (theo Công ước số 138 và Công ước số 182 của ILO); (iv) Xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp (theo Công ước số 100 và số
111 của ILO). Theo Tuyên bố năm 1998 của ILO thì các nước thành viên ILO dù đã
phê chuẩn hay chưa phê chuẩn các công ước cơ bản nêu trên đều có nghĩa vụ tôn
trọng, thúc đẩy và thực hiện bốn tiêu chuẩn lao động được đề cập trong các công
ước đó. Sau khi trở thành thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế ILO, thì năm
1994 Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của tổ chức này.

6


II. QUYỀN LÀM VIỆC VÀ HƯỞNG THÙ LAO CÔNG BẰNG, HỢP LÝ
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Về cơ bản, pháp luật lao động Việt Nam nước ta không mâu thuẫn với các tiêu
chuẩn quốc tế về nhân quyền và việc đảm bảo các quyền con người nói chung và
quyền tự do việc làm nói riêng trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ so
với thông lệ quốc tế. Các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước tới nay, Bộ luật Lao
động cùng các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật liên quan đều
ghi nhận, bảo đảm, bảo vệ quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và các quyền cơ
bản khác của người lao động.
Khoản 1 và 2 Điều 25 Hiến pháp 2013 nước ta quy định rõ: “Công dân có
quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công
ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng
lương, chế độ nghỉ ngơi.” Quy định mới trong Hiến pháp 2013 đã đề cao quyền tự
do lựa chọn việc làm, nơi làm việc. Đây là một trong những quyền con người quan
trọng nhất trong lĩnh vực lao động. Nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để

công dân (cá nhân) có thể tự tạo việc làm, làm giàu bằng sức lao động của chính
bản thân họ.
Bộ luật Lao động 2012 một lần nữa khẳng định rằng mọi người đều có quyền
làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ
nghề nghiệp; cấm ngược đãi và cưỡng bức người lao động. Cụ thể, tại khoản 1
Điều 5 Bộ luật Lao động quy định như sau:
“1. Người lao động có các quyền sau đây:
a) Làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ
nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử;

7


b) Hưởng lương phù hợp với trình độ kỹ năng nghề trên cơ sở thoả thuận với người
sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an
toàn lao động, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và
được hưởng phúc lợi tập thể;
c) Thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác
theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại với người sử dụng lao
động, thực hiện quy chế dân chủ và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử
dụng lao động;
d) Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật;
đ) Đình công.”
Pháp luật Việt Nam đã phát huy tinh thần, quy định của UDHR, ICCPR,
ICESCR,… để đảm bảo cho mọi người được tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp,
được hưởng chế độ lương công bằng, hợp lí, được thành lập, gia nhập công đoàn, tổ
chức cũng như được đình công.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người lao động phải là người từ đủ
15 tuổi trở lên có khả năng lao động. Thời gian làm việc không quá 8 giờ một ngày,

48 giờ một tuần. Tuy nhiên, người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa
thuận làm thêm giờ nhưng không được quá 4 giờ một ngày và 200 giờ một năm.
Nhằm đảm bảo quyền của người lao động, pháp luật đã quy định về điều kiện
lao động, và chế độ tiền lương. Mức lương mà người lao động được hưởng không
thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định trong từng thời điểm cụ thể.
Người lao động và người sử dụng lao động có thể thỏa thuận làm thêm giờ và

8


lương của thời gian làm thêm giờ ít nhất bằng 150% của giờ làm việc trong ngày
bình thường.
Ngoài ra, pháp luật Việt Nam quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm trong
lĩnh vực lao động, cụ thể:
Tại Điều 8 Bộ luật Lao động 2012: “1. Phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu
da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV,
khuyết tật hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn.
2. Ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
3. Cưỡng bức lao động.
4. Lợi dụng danh nghĩa dạy nghề, tập nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc
dụ dỗ, ép buộc người học nghề, người tập nghề vào hoạt động trái pháp luật.
5. Sử dụng lao động chưa qua đào tạo nghề hoặc chưa có chứng chỉ kỹ năng nghề
quốc gia đối với nghề, công việc phải sử dụng lao động đã được đào tạo nghề hoặc
phải có chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia.
6. Dụ dỗ, hứa hẹn và quảng cáo gian dối để lừa gạt người lao động hoặc lợi dụng
dịch vụ việc làm, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng để thực hiện hành vi trái pháp luật.
7. Sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật.”
Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng quy định xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực lao động: Tội sa thải người lao động trái pháp luật (Điều162);

Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở những nơi
đông người (Điều 295); Tội cưỡng bức lao động (Điều 297),…
9


Những quy định trên đã siết chặt việc thực hiện, đảm bảo tốt hơn quyền của
người lao động tại Việt Nam, phù hợp với các tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế và
quyền của người lao động.

C. KẾT LUẬN
Quyền làm việc và hưởng thù lao công bằng hợp lý là một trong những quyền
quan trọng thuộc nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Trong bối cảnh hội nhập
toàn cầu hiện nay, các quốc gia luôn coi trọng những vấn đề xoay quanh lĩnh vực
lao động, việc làm.Từ xưa đến nay, chỉ có lao động mới tạo ra của cải, vật chất cho
xã hội, đảm bảo cho xã hội ngày càng phát triển. Bởi vậy trong bất kì xã hội, thời
đại nào thì vấn đề tự do làm việc, thù lao làm việc vẫn luôn được quan tâm đặc biệt.
10


Điều đó đảm bảo cho đời sống con người luôn được đảm bảo, đáp ứng những nhu
cầu tối thiểu của con người, giúp xã hội loài người ngày càng phát triển, văn minh.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

11


1. Lý luận và pháp luật về quyền con người. Khoa Luật – Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội
2. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948

3. Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966
4. Công ước quốc tế về các quyền chính trị, dân sự 1966
5. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
6. Bộ luật Lao động 2012
7. Bộ luật Hình sự 2015
8. Tuyên bố về các quyền cơ bản của người lao động tại nơi làm việc năm 1998 của
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
9. Bài viết “Quyền của người lao động theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam” của Nguyễn Bình An – Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

12


13



×