SỞ HỮU CHÉO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI
1. Trần Việt Cường
2. Ngô Tiến Dũng
3. Hà Diệu Linh
0
SỞ HỮU CHÉO TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Em nghiên cứu giai đoạn nào ? Trước TT 36?
Thế giwos có tình trạng shc ko?
Lý thuyết chung...................................................................................................................................... 2
I.
1.
Khái niệm............................................................................................................................................. 2
2.
Phân loại............................................................................................................................................... 2
3.
Nguyên nhân........................................................................................................................................ 3
II.
Thực trạng chung về sở hữu chéo trong NHTM............................................................................ 7
III.
Tình trạng không tuân thủ khung giám sát của các NHTM........................................................9
1.
Trường hợp của ACB.......................................................................................................................... 9
2.
Trường hợp VNCB............................................................................................................................ 13
1
I. Lý thuyết chung về sở hữu chéo
1. Khái niệm
Nghị định 96/2015 – NĐ-CP, điều 16, khoản 2 có quy định: “Sở hữu chéo là việc
đồng thời hai doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần của nhau”, tức là công ty A
nắm giữ cổ phần của công ty B mà công ty B này cũng đang nắm giữ cổ phần tại công ty
A.
Tuy nhiên, khái niệm trên cho thấy sự thiếu sót khi nhận định về sở hữu chéo. Sở hữu
chéo là việc đồng thời hai hoặc nhiều doanh nghiệp có sở hữu phần vốn góp, cổ phần
của nhau, đặc biệt là sở hữu chéo trong NHTM tại Việt Nam rất phức tạp.
2. Phân loại
Sở hữu chéo có thể phân thành ba loại: (i) trực tiếp (khi công ty A có cổ phần tại công
ty B), (ii) gián tiếp (khi A có cổ phần tại B và B có cổ phần tại C, thì A sở hữu gián tiếp
C), và (iii) sở hữu vòng (circular ownership) (khi A có cổ phẩn tại B, B có cố phần tại C,
C lại có cổ phần tại A).
Hình 1: Sở hữu chéo đơn giản
Hình 3: Sở hữu chéo mạng lưới
Hình 2: Sở hữu chéo vòng
Sở hữu chéo trong hệ thống NHTM Việt Nam đã có từ khá lâu. Thời gian đầu chủ
yếu do các ngân hàng quốc doanh góp vốn với tư cách cổ đông Nhà nước. Về sau, cùng
2
với sự phát
3
triển, các hình thức sở hữu chéo càng ngày càng đa dạng và đến nay, sở hữu chéo trong
hệ thống NHTM Việt Nam có thể chia thành 6 nhóm (theo Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012
của Ủy ban Kinh tế Quốc hội):
Ba nhóm tích cực:các mối quan hệ này chủ yếu hướng đến việc tăng cường thúc
đẩy hoạt động thương mại giữa Việt Nam và quốc tế, nâng cao năng lực quản trị và thúc
đẩy việc sử dụng vốn một cách có hiệu quả.
(1)
(2)
(3)
Sở hữu của các NHTM nhà nước và NHTM nước ngoài tại các Ngân hàng liên
doanh
Cổ đông chiến lược nước ngoài tại các NHTM
Cổ đông tại các NHTM là các công ty quản lý quỹ
(4)
(5)
(6)
Ba nhóm đáng lo ngại:
Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần
Sở hữu lẫn nhau giữa các NHTM cổ phần
Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước và tư nhân
-
-
3. Nguyên nhân
Tình trạng sở hữu chéo xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau:
Từ nhu cầu tăng vốn của Ngân hàng: Thời kỳ kinh tế tăng trưởng nóng, yêu cầu vốn
của các ngân hàg trở nên lớn hơn, theo quy định thì đến năm 2010 vốn điều lệ thực
góp của các NHTM phải đạt 3000 tỉ đồng, điều này đã gây nên áp lực đối với nhiều
Ngân hàng khiến họ phải thông qua sở hữu chéo để tăng vốn ảo.
Các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng muốn thâu tóm lẫn nhau với mục đích tăng
quy mô hay cho vay “doanh nghiệp sân sau” của mình.
3
4
II.
-
Tình trạng không tuân thủ khung giám sát của các NHTM
1. Trường hợp của ACB:
1.1 Lỗ hổng pháp lí mà giúp Bầu Kiên lách luật
Bầu Kiên biết nếu có tên trong HĐQT tại ngân hàng ACB sẽ bị hạn chế vay vốn từ
ngân hàng này, hạn chế việc sở hữu chéo tại nhiều ngân hàng thương mại cổ phần và
hạn chế nhiều hoạt động kinh doanh riêng khác nên đã rút tên khỏi HĐQT ngân hàng
ACB, trước khi rút tên khỏi HĐQT, Bầu Kiên đã đề nghị HĐQT ngân hàng này ra
nghị quyết thành lập và phê chuẩn quy chế làm việc Hội đồng sáng lập Ngân hàng
ACB do Bầu Kiên phụ trách. Thực tế, Hội đồng sáng lập không có trong cơ cấu tổ
5
chức ngân hàng, không được pháp luật thừa nhận, Bầu Kiên làm vậy để có thể thành
lập nhiều công ty gia đình để hoạt động thao túng, chi phối lĩnh vực tài chính, chứng
khoán và để đầu tư vào nhiều ngân hàng khác nhau.
-
Việc phát hành trái phiếu quá dễ dàng để góp vốn sở hữu chéo ngân hàng mà thực chất
không góp gì cả. Phát hành trái phiếu không bị ràng buộc gì về việc bảo đảm trả nợ, để
cho người giữ tiền ký thác (ngân hàng) xuất tiền, trái phiếu , cổ phiếu có đảm bảo hay
không vẫn cứ mua.
Điều này giúp cho Bầu Kiên dễ dàng sử dụng pháp nhân của công ty Đầu tư Tài chính
Á Châu Hà Nội vay ACB 659 tỷ đồng thông qua hình thức phát hành và bán trái
phiếu. Sau đó sử dụng số tiền này mua cổ phiếu của chính ACB nhằm sở hữu 2%
cổ phiếu của ngân hàng này.
-
Luật doanh nghiệp có quy định về giới hạn tỉ lệ sở hữu cổ phần: một cổ đông cá nhân
không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng; một cổ đông là
tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, cổ
đông và những người liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn
điều lệ của một tổ chức tín dụng. Nhưng trên thực tế việc giám sát quy định về giới
hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần vẫn bị buông lỏng dẫn đến lợi dụng vốn ảo thâu tóm ngân
hàng. Thông qua những pháp nhân và thể nhân khác, một cá nhân có thể sở hữu vượt
quy định này. Năm 2010, Bầu Kiên sử dụng pháp nhân công ty B&B do chính mình
thành lập và điều hành vay của ngân hàng ACB 1.000 tỷ đồng thông qua hình thức
phát hành và bán trái phiếu trong thời hạn 120 tháng. Khi vay được số tiền trên, ông
Kiên và 8 người thân trong gia đình sử dụng 974,85 tỷ đồng để mua 33% trong cổ
phần của ngân hàng ViettinBank, nâng số cổ phần của Bầu Kiên và gia đình lên 41%
trong ViettinBank.
-
Theo quy định của Bộ Tài Chính: “ Công ty chứng khoán không được đầu tư vào cổ
phiếu hoặc góp vốn của công ty sở hữu trên 50% vốn điều lệ của công ty chứng
khoán”
Do hiểu luật nên năm 2009, khi Bầu Kiên được thường trực HĐQT ngân hàng ACB
ủy quyền đầu tư chỉ đạo trực tiếp đầu tư vào cổ phiếu ở thị trường chứng khoán do lúc
này giá cổ phiếu ở TTCK đang diễn biến thuận lợi cho việc đầu tư để sinh lời. Ông
Kiên đã chỉ đạo công ty ACBS (Công ty chứng khoán do Ngân hàng ACB sở hữu
100% vốn điều lệ) ký hợp đồng hợp tác đầu tư với công ty Đầu tư Á Châu và công ty
TNHH Đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội do ông Kiên làm chủ tịch tiến hành đầu tư cổ
phiếu ngân hàng ACB và một số mã chứng khoán khác.
10
1.2 Tác động tới thị trường tài chính
- Việc bầu Kiên bị bắt không chỉ mang những bất lợi trước mắt cho ACB mà hậu quả để
lại đối với thị trường chứng khoán và vàng tại Việt Nam cũng bị ảnh hưởng bởi cú sốc
này. Theo báo cáo phân tích của VCCI, trong vòng 20 ngày sau sự kiện, niềm tin của
các nhà đầu tư trong và ngoài nước sụt giảm một nửa. Thị trường tài chính Việt Nam
chao đảo, chứng khoán lao dốc và bốc hơi gần 50.000 tỷ đồng, đặc biệt là cổ phiếu của
ACB tại sàn HNX giảm kịch sàn chỉ sau 2 ngày chủ yếu là do tâm lí đám đông.
- Xếp hạng tín nhiệm của ngân hàng ACB bị tụt dốc theo đánh giá của Fitch, được coi là
có triển vọng “tiêu cực”, phản ánh khả năng suy giảm, không mấy khả quan về tình
hình tài chính. Vụ việc để lại những khoản nợ hàng nghìn tỷ đồng cho ngân hàng Á
Châu (ACB), khiến tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Tháng 8 năm
2013, tỷ lệ nợ xấu tăng 20% so với cùng kì năm 2012, tốc độ tăng gần như nhanh nhất
trong lịch sử hơn 20 năm hoạt động của ngân hàng ACB. Số lượng nợ xấu tồn đọng
quá lớn mà ngân hàng lại phải gánh trên lưng 2 loại chi phí: lãi vay vẫn phải trả lại đều
đặn cho người gửi, ngân hàng vẫn phải bỏ ra một khoản tiền không nhỏ để trích lập dự
phòng rủi ro khiến tài sản bị sụt giảm hàng trăm nghìn tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế
giảm mạnh. Ngoài ra, nhiều ngân hàng khác cũng mất hàng chục ngàn tỷ đồng tài sản
sau sự kiện, thêm hàng loạt các vụ bắt bớ liên quan đến các thành viên vip trong
ngành, cho thấy khủng hoảng ngân hàng đang là một vấn đề quan trọng cần được tái
cơ cấu.
- Hành vi bầu Kiên cố tình thâu tóm hệ thống các ngân hàng, tạo nên hệ thống sở hữu
chéo phức tạp, tăng lượng vốn ảo trong ngân hàng ACB, kèm theo các hành vi trái
phép khác như kinh doanh trái phép, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đầu cơ đã làm lũng
đoạn thị trường tài chính, tiền tệ, ảnh hưởng xấu đến chính sách tài chính, chính sách
quản lý thị trường tiền tệ trong nước, gây ra nhiều bất ổn nghiêm trọng cho nền kinh tế
trong nước.
1.3 Biện pháp can thiệp tạm thời của Nhà nước
Sau vụ án của Bầu Kiên, nhà nước đã làm gì để giảm thiểu tình trạng sở hữu chéo:
- Ngân hàng Nhà nước tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy
định của pháp luật về sở hữu vốn điều lệ, việc góp vốn, mua cổ phần, chuyển nhượng
cổ phiếu, việc cấp tín dụng cho cổ đông và người có liên quan.
- Yêu cầu cổ đông và người có liên quan sở hữu vốn điều lệ vượt quá giới hạn quy định
phải thoái vốn về mức quy định; tổ chức tín dụng cho vay cổ đông và người có liên
11
quan vượt quá giới hạn quy định phải thực hiện các biện pháp thu hồi nợ, kể cả việc
yêu cầu bán cổ phần, bán tài sản để trả nợ cho ngân hàng.
- Cơ quan thanh tra triển khai cơ chế giám sát chặt chẽ các cổ đông, việc chấp hành giới
hạn sở hữu cổ phần và quan hệ tín dụng của cổ đông, người có liên quan với tổ chức
tín dụng. Định kỳ xem xét, đánh giá thực trạng cơ cấu sở hữu vốn điều lệ và mức độ
ảnh hưởng cổ đông lớn, nhóm cổ đông lớn và người có liên quan của các cổ đông lớn
đối với quản trị, điều hành và hoạt động của tổ chức tín dụng.
- Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Ủy ban Chứng khoán theo dõi, giám sát chặt chẽ
việc mua bán, chuyển nhượng cổ phiếu của các tổ chức tín dụng trên thị trường chứng
khoán. Đồng thời giám sát chặt chẽ các khoản cho vay đối với các nhà đầu tư có giao
dịch lớn cổ phiếu để hạn chế việc cho vay, tài trợ lớn các giao dịch mua bán cổ phiếu
gây tác động bất lợi tới thị trường chứng khoán và rủi ro của ngân hàng.
- Đối với cổ đông, nhóm cổ đông mới nhận chuyển nhượng cổ phần, vốn góp từ các cổ
đông cũ tại ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém phải chứng minh có đủ năng lực
tài chính, không sử dụng vốn vay, vốn huy động từ chính tổ chức tín dụng đó hoặc các
tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước thông qua các công cụ theo
dõi, giám sát và phối hợp với các cơ quan có liên quan tiến hành thêm các biện pháp
xác minh nguồn tiền hợp pháp của cổ đông mới.
- Để tránh tình trạng "gia đình hóa" cùng lúc nhiều TCTD khi các cổ đông sáng lập với
vợ, chồng, con, cháu... đồng thời sở hữu lượng cổ phần lớn tại nhiều ngân hàng khác
nhau, nhà nước quy định tổng dư nợ cấp cho cổ đông sáng lập, cổ đông lớn và các bên
liên quan không quá 5% vốn điều lệ ngân hàng, đồng thời không được vượt quá phần
vốn góp của những người đó đầu tư vào ngân hàng
- Công khai số vốn thực 6 tháng/lần:
Yêu cầu các ngân hàng phải báo cáo NHNN về số giá trị thực vốn điều lệ 6 tháng/lần.
Trong đó, giá trị thực của vốn điều lệ được tính trên nguyên tắc sau khi đã trích lập đầy
đủ dự phòng rủi ro, tính đủ các khoản thu nhập - chi phí khi xác định kết quả kinh
doanh.
- Nếu giá trị thực vốn điều lệ thấp hơn vốn pháp định, các ngân hàng phải có ngay
phương án xử lý khắc phục và báo cáo NHNN. Nếu giá trị thực vốn điều lệ giảm
xuống dưới 80% vốn pháp định, NHNN sẽ áp dụng các biện pháp hạn chế hoặc đình
chỉ một số mảng hoạt động.
12
2. Trường hợp VNCB
Tương tự với Bầu Kiên, Phạm Công Danh cũng lập lên ma trận sở hữu chéo bằng
việc nắm quyền chi phối ở cả VNCB và Tập đoàn Thiên Thanh. Phạm Công Danh vừa
là Chủ tịch VNCM, vừa là chủ tịch Tập đoàn Thiên Thanh.
- Do ngân hàng không được cấp tín dụng cho thành viên HĐQT, Phạm Công Danh
đã nhờ người đứng tên thành lập Công ty An Phát, sau đó tạo dựng hợp đồng với công
ty này về việc cung cấp gói dịch vụ tư vấn giải pháp nâng cao hệ thống Corebanking.
Sau khi tiền từ VNCB chuyển cho công ty An Phát để thực hiện hợp đồng, tiền được
chuyển ngược lại tài khoản của Phạm Công Danh để sử dụng
- Phạm Công Danh đã làm việc với một số khách hàng có sổ tiết kiệm gửi vào
VNCB và dùng chính những sổ tiết kiệm này để thực hiện vay ngân hàng này và cho
Danh vạy lại. Cách làm này được lặp đi lặp lại và số tiền VNCB cho vay bằng việc thế
chấp sổ tiết kiềm lần sau bao giờ cũng lớn hơn trước để vừa đảm bảo trả nợ nhưng lại
vừa có một khoản phục vụ mục đích trả nợ và hoạt động của tập đoàn Thiên Thanh.
Các khoản mục vay thế chấp bằng sổ tiếp kiệm được xác định là thực hiện đúng quy
định, hợp pháp
- Phạm Công Danh thông qua hình thức ủy thác đầu tư: ủy quyền cho công ty cổ
phần quản lí quỹ Lộc Việt mua bán các loại trái phiếu do VNCB chỉ định và đã thực
hiện mua 900 tỉ đồng trái phiếu của 3 công ty. Số tiền này sau đó tiếp tục được 3 công
ty này mua lại trái phiếu Tập đoàn Thiên Thanh. Nhưng trong thỏa thuận ủy thác đầu
tư có xác định, nếu sau 2 năm, Lộc Việt không tất toán được các khoản đầu tư này thì
VNCB sẽ nhận lại tài sản của Lộc Việt là 900 tỉ đồng trái phiếu của Tập đoàn Thiên
Thanh.
- Với vai trò là Chủ tịch VNCB, Phạm Công Danh không thể đứng ra thực hiện các
giao dịch vay tại ngân hàng này, vậy nên Danh đã chỉ đạo thuộc cấp ở cả VNCB và
Tập đoàn Thiên Thanh lập các biên bản họp HĐQT để sử dụng 12 pháp nhân của Tập
đoàn Thiên Thanh, 2 pháp nhân là Công ty Nhà Quốc Cường và Công ty Nhà Hưng
Thịnh, lập 16 bộ hồ sơ vay vốn với phương án kinh doanh, phương án trả nợ, lập các
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản, hợp đồng mua bán nguyên vật liệu khống,
không tiến hành thẩm định các lô đất thuộc Sân vận động Chi Lăng… (đã được dùng
làm tài sản đảm bảo cho một khoản vay khác và chưa được giải chấp), nâng khống giá
trị tài sản bảo đảm… để vay 5.000 tỉ đồng. Số tiền này được Phạm Công Danh chỉ đạo
chuyển đến các tài khoản theo chỉ định và được sử dụng để thanh toán các khoản vay
nợ của các công ty thành viên của Thiên Thanh và trả cho nhóm cổ đông cũ.
13
trường.
20
Phụ lục: Một số quy định hiện hành
Theo thông tư 10/2011, để trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài tại NHTM,
cổ đông chiến lược nước ngoài cần đảm bảo:
a) Là tổ chức tín dụng nước ngoài hoặc tổ chức tài chính nước ngoài, có tổng tài sản tối
thiểu tương đương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm đăng ký tham gia cổ đông chiến
lược;
b) Có trên 05 (năm) năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế;
c) Được các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập quốc tế (Moody’s, Standard & Poor,
Fitch Rating …) xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt
động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng
không thuận lợi;
d) Không là cổ đông chiến lược, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập tại bất kỳ tổ chức tín dụng
nào tại Việt Nam;
đ) Có cam kết bằng văn bản về việc hỗ trợ ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa
trong các lĩnh vực quy định tại Khoản 1 Điều 2 Thông tư này và cam kết gắn bó lâu dài
với ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa.
Về tỷ lệ sở hữu, theo quy định Nghị định số 01/2014 về việc nhà đầu tư nước
ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam: Điều 7. Tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với
nhà đầu tư nước ngoài
1. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cá nhân nước ngoài không được vượt quá 5% vốn điều
lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam.
2. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài không được vượt quá 15% vốn điều
lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều này.
3. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá
20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam.
4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà
đầu tư nước ngoài đó không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng
Việt Nam.
5. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn
điều lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà
đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt Nam thực hiện theo quy
định của pháp luật đối với công ty đại chúng, công ty niêm yết.
21
Theo quy định tại Điều 55 về Tỷ lệ sở hữu cổ phần, Luật Các tổ chức tín dụng 2010:
1. Một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức
tín dụng.
2. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức
tín dụng, trừ các trường hợp sau đây: a) Sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 Điều
149 của Luật này để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ
chức tín dụng; b) Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hóa; c) Sở hữu
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật này.
3. Cổ đông và người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn
điều lệ của một tổ chức tín dụng.
4. Tỷ lệ sở hữu quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này bao gồm cả phần vốn ủy thác
cho tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần.
5. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, các cổ đông sáng lập phải nắm
giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; các cổ đông sáng lập
là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông
sáng lập nắm giữ.
Theo điều 20, thông tư 36/2014, NHNN ban hành thêm một số quy định về việc
Ngân hàng thương mại (NHTM) mua và nắm giữ cổ phiếu của Tổ chức tín dụng khác,
hay nói cách khác là siết chặt tình trạng sở hữu chéo của các TCTD.
Theo đó, NHTM mua và nắm giữ cổ phiếu (bao gồm các khoản ủy thác cho tổ
chức, cá nhân khác và cổ đông của ngân hàng thương mại mua, nắm giữ cổ phiếu) của
TCTD khác phải đáp đảm bảo tuân thủ các điều kiện tại khoản 2 và giới hạn tại khoản 3
điều này, cụ thể:
- Giá trị thực của vốn điều lệ không thấp hơn vốn điều lệ đã đăng ký
- Đảm bảo các giới hạn về tỷ lệ an toàn quy định tại thông tư này
- Có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%
- Có quy trình xét duyệt và đánh giá rủi ro đối với việc mua và nắm giữ cổ phiếu của
TCTD khác
- Từng khoản mua, nắm giữ cổ phiếu của TCTD khác phải được HĐQT, Hội đồng thành
viên thông qua.
- Không bị phạt hành chính trong hoạt động ngân hàng trong 1 năm trước ngày mua, nắm
giữ cổ phiếu
22
- Chủ tịch và các thành viên HĐQT, HĐTV, Tổng giám đốc (Giám đốc), Ban kiểm soát,
cổ đông lớn, công ty con của NHTM và người có liên quan của những người này không
ủy thác cho tổ chức khác mua, nắm giữ vốn cổ phần có quyền biểu quyết đó
Về giới hạn:
- NHTM chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu tối đa không quá 2 TCTD khác (trừ trường
hợp TCTD khác là công ty con của NHTM đó).
- NHTM chỉ được mua, nắm giữ cổ phiếu của một TCTD khác dưới 5% vốn cổ
phần có quyền biểu quyết của tổ chức tín dụng khác đó.
- NHTM không được cử người tham gia HĐQT tại TCTD mà NHTM đã mua, nắm giữ
cổ phiếu trừ trường hợp là TCTD đó là công ty con hoặc NHTM tham gia tái cơ cấu, xử
lý tổ chức tín dụng yếu kém theo chỉ định của NHNN.
Điều 20 cũng quy định các trường hợp ngoại trừ. Theo đó, việc mua, nắm giữ cổ
phiếu của một TCTD khác vượt quá giới hạn quy định tại các điểm trên được thực hiện
trong các trường hợp:
- Việc mua, nắm giữ cổ phiếu nhằm tái cơ cấu, hỗ trợ tài chính cho tổ chức tín dụng gặp
khó khăn về tài chính, có nguy cơ mất khả năng thanh toán, ảnh hưởng đến an toàn của
hệ thống tín dụng và được NHNN chấp thuận.
- Được NHNN chỉ định theo quy định của pháp luật.
23