Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Điểm danh rủi ro từ sở hữu chéo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.24 KB, 4 trang )

Điểm danh rủi ro từ sở hữu chéo
Thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo là 3 rủi ro
lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân
hàng.
Có 3 rủi ro lớn xuất phát từ sở hữu chéo trong hoạt động ngân hàng đã được Tiến sĩ Võ
Trí Thành, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, nêu ra. Đó là
thâu tóm ngân hàng, nợ xấu và tăng vốn ảo, từ đó dẫn đến rủi ro mang tính hệ thống.
NCĐT đã trao đổi với ông Thành xung quanh vấn đề này.
Có thể hiểu đơn giản về sở hữu chéo như thế nào?
Sở hữu chéo xuất hiện khi một công ty A hay nhà đầu tư A đầu tư vào công
ty B, sau đó công ty B đầu tư lại vào công ty A hoặc cả công ty A lẫn B đầu
tư vào công ty C. Sau đó công ty C đầu tư ngược trở lại vào công ty A và
công ty B. Có thể hiểu đơn giản như vậy. Trên thực tế, có thể chu trình của
sở hữu chéo còn phức tạp hơn thế nữa.
Theo quy định, một cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của một
ngân hàng, nhưng thông qua sở hữu chéo, họ vẫn thâu tóm hoặc gây ảnh
hưởng đến ngân hàng. Họ làm được điều này bằng cách nào?
Họ có thể lách luật, thâu tóm ngân hàng bằng cách sử dụng hình thức ủy
quyền. Tức cá nhân A chỉ được sở hữu không quá 5% vốn điều lệ của một
ngân hàng, nhưng trên thực tế cá nhân này chỉ nắm 2%, còn lại ủy quyền
vốn cho nhiều cá nhân hoặc tổ chức khác không họ hàng gì với cá nhân A để
cùng đầu tư vào một ngân hàng. Vì thế, sở hữu chéo là vấn đề Việt Nam còn
rất ít kinh nghiệm và rất khó kiểm soát.
Ông thấy gì từ các mối quan hệ chằng chịt như vậy?
Điều này cần phải truy lại từ thời kỳ đầu những năm 1990, khi các ngân
hàng thương mại nhà nước đầu tư vào ngân hàng nhỏ để tái cấu trúc các
ngân hàng này.
Lúc đó, chỉ đơn thuần là ngân hàng lớn đầu tư vào ngân hàng nhỏ chứ chưa
lằng nhằng như sau này, khi các doanh nghiệp phi tài chính đầu tư vào ngân
hàng, trở thành những ông chủ ngân hàng hay chiếm vị trí chi phối trong
ngân hàng. Sau đó họ lại đầu tư vào các ngân hàng khác. Các ngân hàng


khác lại có chu trình đầu tư rất phức tạp, đan chéo nhau như sở hữu chéo đã
nói ban đầu. Do đó, mức độ rủi ro cao hơn trong khi khả năng giám sát của
chúng ta lại không theo kịp tình hình thị trường.
Ông phân tích thế nào về rủi ro khác của sở hữu chéo trong hệ thống
ngân hàng?
Có một đặc điểm chung khi nói đến rủi ro của thị trường tài chính ngân
hàng. Đó là rủi ro mang tính hệ thống, dù rủi ro ấy ban đầu chỉ xuất phát từ
một vài tổ chức riêng lẻ. Vì đó là quan hệ giữa dòng tiền với nền sản xuất
thực, nên sự đổ vỡ của một vài tổ chức sẽ không chỉ lan tỏa trong hệ thống
ngân hàng (do mối quan hệ lằng nhằng giữa các ngân hàng), mà còn ra cả hệ
thống sản xuất kinh doanh ngoài ngân hàng.
Với rủi ro nợ xấu, sở hữu chéo có mối liên hệ như thế nào?
Nợ xấu là hệ lụy của câu chuyện vừa nêu. Nếu giám sát không chặt chẽ,
dòng tiền có thể chuyển sang cho vay các dự án sân sau của chính những
người chi phối hoặc làm chủ ngân hàng. Việc nguồn lực phân bổ không
được đánh giá, giám sát đầy đủ sẽ dễ gây ra nợ xấu. Khi đã xuất hiện nợ xấu,
việc xử lý sẽ khó khăn hơn nhiều, do mối quan hệ lằng nhằng của sở hữu
chéo.
Các ngân hàng cũng có thể đầu tư chéo vào nhau, nắm cổ phần của
nhau, qua đó giúp nhau nâng vốn điều lệ một cách nhanh chóng?
Điều này có thể đã xảy ra ở Việt Nam nếu quan sát 2 điểm. Thứ nhất là
những vụ việc gần đây và dòng tiền đầu tư của các ngân hàng thương mại.
Thứ hai là trong thời gian quá ngắn, họ lại có được số vốn rất lớn để tăng
vốn điều lệ. Đây là vốn sở hữu của ngân hàng. Điều đó cho thấy vốn ảo là có
thực trong hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Điều này nguy hiểm ở chỗ, sở hữu chéo làm sai lệch việc đánh giá rủi ro của
hệ thống ngân hàng, vì có rất nhiều chỉ số dựa trên số vốn sở hữu mà ngân
hàng đang nắm, trong khi vốn đó là vốn ảo. Các chỉ số không chính xác sẽ
dẫn đến những sai lệch, cả về quản trị ngân hàng lẫn giám sát hệ thống tài
chính.

Về phía người gửi tiền hay doanh nghiệp giao dịch với ngân hàng, sở hữu
chéo tác động như thế nào đến họ?
Chắc chắn là có rủi ro, vì sở hữu chéo giảm tính minh bạch, giảm khả năng
giám sát và tăng khả năng đổ vỡ của một định chế tài chính. Khi đó người
gửi tiền sẽ chịu thiệt hại.
Kinh nghiệm của các nước vào những thời điểm khủng hoảng, cần cải tổ hệ
thống tài chính cho thấy, họ đều nâng mạnh số tiền bảo hiểm, thậm chí bảo
hiểm 100% giá trị khoản tiền gửi. Điều này là để có được sự ổn định trong
quá trình tái cấu trúc hay cải cách để làm lành mạnh hệ thống ngân hàng. Ở
nhiều nước trong giai đoạn khủng hoảng 2008-2009, bảo hiểm tiền gửi đã
giúp tránh được tình trạng người dân quá lo lắng, ồ ạt đến ngân hàng rút
tiền.
Như vậy, trong điều kiện bình thường, cần phải có một tỉ lệ bảo hiểm tiền
gửi nhất định, nhưng vẫn phải đảm bảo rằng, nếu một ngân hàng làm ăn kém
thì ngân hàng đó phải chấp nhận phá sản. Còn trong khủng hoảng mà cần tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng, có thể buộc phải chấp nhận mức bảo hiểm tiền
gửi rất cao, thậm chí là 100% giá trị khoản tiền gửi.
Có vẻ như sở hữu chéo toàn mang lại rủi ro?
Nếu sở hữu chéo nằm trong hoạt động sản xuất kinh doanh thực, hoạt động
phi tài chính, trong một chừng mực nhất định nào đó, nếu năng lực tài chính
và quản trị của doanh nghiệp tốt thì sở hữu chéo có thể tạo ra những lợi thế
nhất định trong kinh doanh. Ví dụ như lợi thế quy mô, lợi thế kiểm soát
chuỗi giá trị.
Thế nhưng, nếu sở hữu chéo gắn với khu vực tài chính - ngân hàng thì rủi ro
sẽ rất cao. Nói chung, các nhà kinh tế đều rất e ngại với chuyện không tạo ra
một bức tường lửa giữa ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Bởi lẽ,
bản chất sở hữu chéo là các dòng vốn đầu tư lẫn nhau mà lại chịu sự chi phối
của một người hay một nhóm người nhất định.
Theo Nhịp cầu đầu tư
/>2012092711562936ca34.chn

×