Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Hành vi lệch chuẩn của học sinh phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.49 KB, 15 trang )

HÀNH VI L Ệ
CH CHU Ẩ
NCỦ
A HỌ
C SINH TRONG TR ƯỜ
N G PH ỔTHÔNG
KHÁI NI Ệ
M, BI Ể
U HI Ệ
N VÀ M Ộ
T S ỐY Ế
U T ỐTÁC ĐỘN G

Tóm tắt
Hành vi lệch chuẩn là hành vi không phù hợp với chuẩn mực đạo
đức, văn hóa, pháp luật, những quy định chung. Trong trường học
hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi lệch chuẩn của
học sinh và có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới vấn đề này. Vì vậy,
các nhà giáo dục, phụ huynh cần hiểu rõ và đưa ra các biện pháp
để phòng ngừa cũng như can thiệp sớm nhằm ngăn chặn và giảm
thiểu vấn đề này trong trường học.

I. Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, số học sinh có hành vi lệch chuẩn
trong nhà trường ngày càng gia tăng, số hành vi lệch chuẩn ngày
càng nhiều.Số học sinh bị kỷ luật năm học sau nhiều hơn năm học
trước, mức độ kỷ luật ngày càng nặng.Số học sinh xếp loại đạo
đức trung bình và yếu, kém ngày càng gia tăng [7].Một số hành vi
lệch chuẩn xuất hiện ngày càng nhiều như sử dụng chất kích thích
(hút thuốc, uống rượu…), bạo lực học đường, bỏ học…đặc biệt là
có những hành vi bạo lực với thầy/cô giáo. Nếu những người làm


công tác giáo dục không điều chỉnh và uốn nắn kịp thời thì có thể
dẫn đến khủng hoảng và lệch lạc về hành vi ở các em. Nhưng thế
nào là hành vi lệch chuẩn, nguyên nhân cũng như các biện pháp
phòng ngừa và can thiệp như thế nào là hiệu quả thì không phải
thầy cô giáo, nhà quản lý giáo dục nào cũng hiểu rõ. Trong bài viết
này sẽ phần nào làm rõ khái niệm, biểu hiện, các yếu tố tác động

1


cũng như đề xuất một số biện pháp phòng ngừa và can thiệp đối với
hành vi lệch chuẩn của học sinh trong trường học.
II. Nội dung
1. Khái niệm hành vi lệch chuẩn của học sinh
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hành vi lệch chuẩn
nhưng nhìn chung các tác giả đều đồng ý với quan điểm hành vi
lệch chuẩn là hành vi không phù hợp với chuẩn mực đạo đức, văn
hóa, pháp luật, những quy định chung và cần điều chỉnh.
Lưu Song Hà định nghĩa “Hành vi lệch chuẩn là hành vi chệch khỏi
các quy tắc, chuẩn mực của nhóm hay của xã hội. Hành vi lệch
chuẩn có tính chất tương đối về văn hoá và lịch sử”. [5]
Trong Từ điển Tâm lý học có nêu: “Hành vi lệch chuẩn là hệ thống
hành vi hoặc các hành vi riêng lẻ đối lập với các chuẩn mực đạo
đức hoặc pháp luật đã được xã hội thừa nhận. Những kiểu dạng
hành vi lệch chuẩn chủ yếu là phạm pháp và những hành vi phi
đạo đức nhưng chưa phải chịu trách nhiệm hình sự (say rượu, ăn
cắp vặt…). Những hành vi lệch chuẩn thường là cơ sở hình thành
các hành vi vi phạm pháp luật”.[4]
Những học sinh có hành vi lệch chuẩn trong trường học, Nguyễn
Văn Song đã cho rằng: “Học sinh có hành vi lệch chuẩn là học sinh

có những hành vi lệch ra khỏi những chuẩn mực xã hội về đạo
đức, truyền thống, thẩm mỹ, pháp luật, vi phạm nội quy trường
lớp làm ảnh hưởng xấu đến cá nhân, gia đình, nhà trường và xã
hội”.[7]
2. Các biểu hiện của hành vi lệch chuẩn trong trường học
Trong quá trình thực hiện đề tài “Bồi dưỡng cho giáo viên THCS sử
dụng trắc nghiệm tâm lý cho việc chuẩn đoán hành vi làm cơ sở
cho việc giáo dục học sinh” chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn giáo
2


viên trường THCS Dương Nội – Hà Nội về những hành vi lệch chuẩn
nào trong trường học mà thầy/cô nhận thấy và có biểu hiện
thường xuyên ở học sinh? Kết quả thu được cho thấy các hành vi
lệch chuẩn chủ yếu trong trường học đó là: “bỏ tiết thường
xuyên”, “đi học không đúng giờ”, “đánh nhau, chửi nhau với các
bạn”…
Trong các nghiên cứu gần đây cho thấy, hành vi lệch chuẩn trong
nhà trường được biểu hiện rõ nhất là bạo lực, bắt nạt học đường
gia tăng mạnh mẽ, cùng với đó là việc học sinh sử dụng chất kích
thích trong trường học như hút thuốc, uống và nghiện rượu bia.
Ngoài ra, còn các hành vi lệch chuẩn khác như: trốn học, ăn cắp,
vi phạm quy định trong trường (gian lận trong thi cử, phá hoại của
công, sử dụng lời nói thô tục…)
3. Các yếu tố tác động tới hành vi lệch chuẩn của học sinh
trong trường học
Theo RobertK. Merton, nguyên nhân dẫn tới hành vi lệch chuẩn là
do sự không phù hợp giữa các mục tiêu mang tính văn hóa và
phương tiện (cách thức) mà cá nhân sử dụng để đạt được mục tiêu
đó. Ông cho rằng có 3 kiểu người có hành vi lệch chuẩn là: (1)

Kiểu người chấp nhận các giá trị xã hội nhưng lại sử dụng những
phương tiện (cách thức) không được xã hội chấp nhận để đạt được
mục tiêu; (2) Kiểu người từ chối, họ tránh, không chấp nhận những
giá trị xã hội và cách thức phù hợp để đạt được những giá trị xã
hội đó nhưng không thay thế bằng những giá trị mới; (3) Kiểu
người chống lại tất cả các giá trị xã hội và phương tiện phù hợp
mà thay thế bằng những giá trị mới và phương tiện mới của cá
nhân để đạt được mục tiêu.
Jaonan Cheng chỉ ra các yếu tố góp phần dẫn tới hành vi lệch
chuẩn của học sinh là: (1) Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái; (2)
3


Mối quan hệ giữa thầy/cô giáo và học sinh; (3) Sự kiểm soát của
xã hội đối với hành vi của trẻ. [3]
Juan Herrero, Estefanía Estevez, Gonzalo Musitu trong nghiên cứu
của mình cũng chỉ ra mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa hành
vi lệch chuẩn của học sinh với mối quan hệ cha mẹ - con cái, mối
quan hệ thầy/cô – học sinh và tâm lý cá nhân. [6]
Amber Carlson đã phân tích cha mẹ có ảnh hưởng trực tiếp đến
mẫu hình hành vi mà trẻ thực hiện thông qua phong cách nuôi dạy
con cái, cấu trúc của gia đình và môi trường dân cư mà họ sinh
sống. Hành vi của trẻ ở trường học cũng chịu tác động gián tiếp từ
cha mẹ khi cha mẹ có dạy cho trẻ cách thức thích ứng và chấp
nhận sự khác biệt trong trường học hay không. [1]
Một nghiên cứu khác của Adrian D.Pearson đã chỉ ra rằng các
hành vi bạo lực, không tôn trọng phụ nữ, hút thuốc, sử dụng cần
sa…được thể hiện qua các kênh truyền thông như phim ảnh, video
ca nhạc, internet, trò chơi điện tử đã làm tăng một cách đáng kể
các hành vi này ở trẻ trong độ tuổi đến trường. Và việc tiếp xúc

một cách thường xuyên với các hình ảnh bạo lực và chống đối xã
hội trên truyền thông là một yếu tố quan trọng làm tăng các hành
vi chống đối xã hội và gây rối ở học sinh trung học. Nghiên cứu
cũng cho thấy những trẻ có hành vi lệch chuẩn ở trường học
thường thiếu sự hỗ trợ giáo dục từ phía gia đình, có tự trọng cá
nhân ở mức thấp và thiếu sự kiểm soát từ phía cộng đồng dân cư
(xã hội thu nhỏ nơi trẻ sinh sống). [2]
Qua các nghiên cứu có thể thấy những yếu tố chính tác động tới
hành vi lệch chuẩn của học sinh tại trường học là: (1) Gia đình bao
gồm mối quan hệ giữa cha mẹ - con cái; phong cách giáo dục con,
môi trường sống; (2) Nhà trường bao gồm mối quan hệ giữa
thầy/cô giáo – học sinh, môi trường học đường, kỷ luật trong
4


trường học, mối quan hệ với bạn bè đồng đẳng trong trường học;
(3) Sự kiểm soát của xã hội bao gồm hệ thống pháp luật, hoạt
động ngoài xã hội của trẻ; (4) Truyền thông.
4. Các biện pháp phòng ngừa và can thiệp đối với hành vi
lệch chuẩn của học sinh trong trường học
·

Tăng cường các mối quan hệ giữa phụ huynh, giáo

viên, các tổ chức giáo dục và bảo trợ trẻ em. Các lực lượng này
cần làm việc trong sự hợp lực, thống nhất.
· Kỷ luật của lớp học/nhà trường cần được xây dựng dựa trên sự
thống nhất giữa các lực lượng giáo viên/nhà trường – phụ huynh –
học sinh.
· Củng cố hành vi mẫu của học sinh trong nhà trường thông qua

hệ thống khen thưởng.
· Tổ chức những buổi nói chuyện giữa học sinh và những cán bộ
thực thi pháp luật để trẻ hiểu rõ hơn các quyền mà mình được
hưởng cũng như những trách nhiệm/hạn chế cần thực thi.
· Nhà trường, giáo viên luôn phải đảm bảo các quy tắc ứng xử
công bằng đối với tất cả các học sinh. Đặc biệt tránh các tình
huống những học sinh có vai trò lãnh đạo không tuân theo các quy
tắc/quy định chung, và hậu quả nhận được khi không tuân theo lại
nhẹ hơn những học sinh không có vai trò lãnh đạo.
· Trong nhà trường nên tổ chức các chương trình phòng ngừa, can
thiệp sớm đối với các hành vi lệch chuẩn. Sử dụng các nhân viên
Tâm lý học đường, công tác xã hội cho công việc này.
· Trong đề tài “Bồi dưỡng cho giáo viên THCS sử dụng trắc nghiệm
tâm lý cho việc chuẩn đoán hành vi làm cơ sở cho việc giáo dục
học sinh” chúng tôi đã tiến hành tập huấn, bồi dưỡng cho giáo
viên sử dụng trắc nghiệm tâm lý “xác định khuynh hướng hành vi
5


lệch chuẩn” để chẩn đoán hành vi của học sinh – điều này có ý
nghĩa định hướng và là một công cụ để góp phần chẩn đoán hành
vi của học sinh. Từ đó, giáo viên sẽ có cơ sở để giáo dục học sinh,
giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân theo
đúng hướng.
Tài liệu tham khảo
[1] Amber Carlson, 2012, How Parents Influence Deviant Behavior
among Adolescents: An Analysis of their Family Life, their
Community, and their Peers,The Literature, University of New
Hampshire.
[2] Adrian D.Pearson, 2009, Media influence on deviant behavior

in

middle

school

students,

Degree

of

Master

of

School

Administration, Watson School of Education, The University of
North Carolina Wilmington.
[3] Jaonan Cheng, 2012, The Effect Factor for Students’ Deviant
Behavior, The Journal of Human Resource and Adult Learning, Vol.
8, Num. 2, 26-32.
[4] Vũ Dũng, 2008, Từ điển Tâm lý học, NXB Từ điển Bách khoa.
[5] Lưu Song Hà, 2004, Hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, Tạp chí
tâm lí học, Số 7, Tr 44.
[6]

Juan


Herrero,

Estefania

Estevez,

Gonzalo

Musitu, 2006, Relationships of Adolescent School-Related Deviant
Behavior and Victimization with Psychological Distress, Journal of
Adolescence Volume 29, Issue 5, 671-690.
[7] Nguyễn Văn Song, 2012, Quản lý hoạt động giáo dục học sinh
có hành vi lệch chuẩn ở trường trung học phổ thông Phù Cừtỉnh
Hưng Yên, Luận văn ThS Quản lý giáo dục; Đại học Giáo dục, Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
6


ĐẠO ĐỨC HỌC SINH ĐANG THÁCH THỨC
NĂNG LỰC GIÁO DỤC CỦA NGƯỜI THẤY
TS. Phạm Thị Kim Anh
Viện NCSP, trường ĐHSPHN

Tóm tắt
Sự sa sút về đạo đức, nhân cách của một bộ phận HS, nhất là HS cá biệt đang
thách thức năng lực giáo dục của GV. Nhiều thày cô cảm thấy bất lực trước những
hành vi của học trò hư. Bài báo đã phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự bất lực
trong giáo dục HS của người thày, đồng thời chỉ ra những năng lực cần thiết của
GV trong giáo dục HS.
1. Mở đầu

Trong những năm gần đây nhiều câu chuyện buồn liên tiếp xảy xa như: trò tạt cả
chậu a xít vào người thầy vì không được nâng điểm thi, kiện lại thầy vì bị phạt hít
đất trong giờ thể dục (ở TP. Hồ Chí Minh); rút dây nịt quất vào đầu, vào mặt thầy
giáo đến ngất xỉu mới thôi chỉ vì thầy gọi giám thị mời trò ra khỏi lớp do đánh cờ,
la ó trong giờ học (ở An Giang); lao vào đánh hội đồng thầy khi bị thầy tát (ở Bình
Định),… để thầy bị sa thải và còn biết bao trường hợp trò chặn đánh
thầy giữa đường, ngang nhiên thách thức lại thầy cụ giáo, hỗn láo với thầy cô trong
giờ học,… đang làm dư luận xú hội dậy sóng và làm dấy lên nhiều câu hỏi: “phải
chăng đã đến thời thầy phải sợ trò”?.
7


Nhiều giáo viên (GV) phổ thông đã phải thốt lên rằng: “Học trò nay đã khác xưa
quá nhiều khiến thách thức cho những người trồng người càng chồng chất” và
dường như họ bất lực trước những đối tượng HS cá biệt. Một số thầy, cụ giáo lại
cho rằng, đây chính là "thuốc thử" cho bản lĩnh sư phạm và trái tim ấm nồng,
tận tụy của nhà giáo thời nay.
2. Thầy có bất lực với trò không?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy lắng nghe một số câu chuyện hoàn toàn
có thật diễn ra trong đời sống thường ngày ở lớp học sau đây:
Câu chuyện thứ nhất: Một HS A gây mất trật tự trong lớp làm ảnh hưởng
tới những bạn xung quanh. GV đang dạy bảo HS này đứng dậy, nhưng A không
đứng. Câu trả lời của cậu ta là: "Tại sao em phải đứng?". GV nói: "Em gây mất trật
tự trong lớp, làm ảnh hưởng tới các bạn, cô yêu cầu em đứng dậy.". A trả lời: “Em
không thích đứng”.
GV nói: "Đây là kỷ luật của lớp. Em đứng dậy cho cô". A ngồi yên không
nhúc nhích. GV tiếp tục: "Thôi được, thế em cứ ngồi đấy, nhưng không được gây
mất trật tự nữa". A nói lại: "Em không thích ngồi, cũng không thích giữ trật tự".
Nghe đến đây GV này không thể từ tốn được nữa, cụ nói: "Em có bị điên không?".
A: "Cô mới điên. Em không điên". Tới lúc này thì GV không thể làm gì được nữa.

Cô tuyên bố ghi tên A vào sổ đầu bài và sẽ đưa việc này lên Ban giám hiệu để giải
quyết.
Câu chuyện thứ hai: Vào đầu giờ học, thày giáo gọi một HS lên kiểm tra bài cũ,
em này không thuộc bài, cũng không ghi chép bài đầy đủ. Thầy nhắc nhở em ấy lần
sau phải học hành đàng hoàng hơn và cho điểm 0 vào sổ điểm. Khi quay về chỗ,
HS này ném mạnh quyển vở xuống bàn, lầm bầm: "điểm 0 là cái quái gì, đây không
học thì làm gì được!". Thầy giáo quay xuống lớp, hỏi to: Em vừa nói gì, hãy nhắc
lại cho tôi nghe xem. Em HS ngồi xuống ghế, im lặng nhưng gương mặt đầy thách
thức. Thầy nén giận, bước xuống nói:
8


- Nếu em không chịu học và có thái độ thách thức như thế thì tốt nhất em đứng
dậy, đi ra khỏi lớp. Tôi không thể dạy những HS có thái độ như thế. Em này đứng
phắt dậy, hất cằm, nhìn thẳng thầy giáo và nói:
- Đây không thích ra đấy, thầy làm gì được hả?.
Không thể để HS này tiếp tục có lời nói vô lễ, thầy quát lớn:
- Em ra khỏi lớp, xuống phòng giám thị đợi tôi!. Cậu HS đó hùng hổ bước ra và
quay lại nói: "Tôi sẽ đợi thầy ở cổng trường,....".
Câu chuyện thứ ba: Có những HS nghiện chơi game đến lớp ngủ suốt
trong giờ học. GV tìm mọi cách để em đó tỉnh ngủ (thậm chỉ khiển trách, cảnh cáo)
nhưng không được. Khi bị GV lôi dậy, yêu cầu ra ngoài rửa mặt cho tỉnh táo thì HS
đó quát lại: Có để cho em ngủ không? Buồn ngủ thì học thế nào được, cứ nói
lắm,....”. Đến nước này thì GV đành chịu thua vì không được phép đánh mắng hoặc
đuổi HS ra khỏi lớp.
Một vài câu chuyện trên đây chỉ là những ví dụ rất cụ thể minh chứng cho sự bất
lực của GV với một bộ phận HS vô cảm, ngang ngược, mất hết lễ nghĩa và không
còn ý thức kỉ luật cũng như tôn sư trọng đạo; rộng hơn là sự bất lực của một nền
giáo dục mà ở đó thầy cô không còn cụng cụ gì trong tay để giáo dục HS ngoài tấm
lòng bao dung và những biện pháp mềm dẻo như: nhắc nhở, khuyên nhủ, cảm hóa

HS theo yêu cầu của giáo dục kỷ luật tích cực.
3. Nguyên nhân nào khiến trò không biết sợ và thầy bất lực?
3.1. Trách phạt không còn hiệu lực
Trong lý luận giáo dục, trách phạt là biện pháp cần thiết và có giá trị trong
giáo dục HS, nhưng hiện nay trách phạt liệu có còn hiệu lực?. Chúng ta hãy điểm
lại một số hình thức trách phạt HS dưới đây để xem chúng có tác dụng gì trong giáo
dục HS:
9


a) Viết bản tự kiểm điểm: Nếu HS vi phạm những lỗi như: đi học muộn, áo quần
mặc không đúng quy định, nghe điện thoại trong giờ học, nhuộm tóc màu, nam sinh
để tóc dài, nữ sinh sử dụng son phấn lòe loẹt, không học bài cũ hoặc không chuẩn
bị đủ đồ dựng học tập,... là phải viết bản kiểm điểm. Viết mãi các em thành nhờn và
không còn hiệu quả (có HS phấn khởi vì được nghỉ học và cùng hàng chục bạn
khác lên văn phòng viết bản tự kiểm). Do nhà trường qui định, nếu viết bản kiểm
điểm tới ba lần trong tháng HS đó sẽ bị hạ hạnh kiểm, nhưng xem ra việc làm này
không thể thực hiện được. Đến cuối học kỳ GV vẫn phải nương tay vì nếu hạ hạnh
kiểm nhiều sẽ không đạt chỉ tiêu trường giao và không được xét lên lớp.
b) Cảnh cáo dưới cờ: Dành cho những HS đã viết bản tự kiểm điểm quá nhiều lần
mà vẫn không tiến bộ hay do có sai phạm quá lớn cần nhắc nhở ngay, cách làm này
không mang đến hiệu quả giáo dục cao. Có những em bị cảnh cáo dưới cờ mà vẫn
tươi cười hồn nhiên như không có lỗi gì. Số HS khác chưa nhận thấy lỗi của bạn để
tự rèn luyện bản thân, đôi khi còn ngầm thán phục!. HS nào biết sợ hơn thì nghỉ
tiết chào cờ hôm đó và nhà trường chỉ biết phê bình “chay” vì không có mặt HS vi
phạm.
c) Chép phạt: Đối với thầy cô bộ môn, để khỏi phải vướng vào “những điều GV
không được làm” mà điều lệ trường phổ thông đã quy định, một hình thức phạt
được áp dụng là yêu cầu HS chép phạt (có thể là bài học mà HS không thuộc, bài
tập chưa hoàn thành, điều nội quy làm chưa đúng). Có em phải chép mươi lần bài

học, thậm chí có thầy cô cho HS chép hàng trăm lần một định lý trong toán học hay
đơn giản hơn chỉ là lời cam kết: “Em không nói chuyện trong giờ học”. Để hoàn
thành công việc được giao, có em phải lấy giờ môn học khác ra chép, khi bị thầy cô
phát hiện lại tiếp tục chép phạt bài khác. Đến lúc kiểm tra bài, các em lại viện lý
do: bận chép phạt nộp cho thầy A, cô B gì đó,... Cuối cùng, với số lần chép phạt
khủng khiếp kia, các em cũng hoàn thành nhưng không giúp gỡ cho HS đó tiến bộ
hơn mà thầy cô lại mệt mỏi.

10


d) Nộp phạt: Có lớp, thầy cô chủ nhiệm đề ra quy định: HS vi phạm nội quy, phải
tự kiểm điểm và nộp một số tiền hay hiện vật như vở viết cho lớp. Số tiền, hiện vật
này sẽ dùng để thưởng cho các bạn có thành tích cao trong học tập và phong trào
hàng tháng của lớp. Với cách làm này, HS khi có lỗi cứ vô tư nộp phạt là coi như
yên chuyện, không cần rèn giũa bản thân hay khắc phục khuyết điểm. Một số em
kiên quyết không chép phạt, không nộp phạt, GV phải “chào thua” vì sợ HS bỏ học
lại mất công đến nhà mời học lại.
e) Cách ly: Một số HS có hành vi quậy phá, không thể giáo dục được, thường bị
GV cho ngồi riêng một chỗ (thường là dồn vào cuối lớp) để dễ quản lý và không
ảnh hưởng tới các HS khác. Biện pháp này cũng không có tác dụng gì bởi những
HS này biết chắc một điều, không học thì cuối năm vẫn được lên lớp vì nhà trường
không được phép cho HS đúp.
Điều đem lại của những hình phạt này là làm cho phụ huynh HS hài lòng (vì
không đánh mắng con em họ). Nhà trường không mang tiếng với địa phương, thầy
cô không bị phê bình, kỷ luật, HS cứ tuần tự lên lớp khi hạnh kiểm kém và hổng
kiến thức.
Dẫu biết là thế, nhưng GV không còn có sự lựa chọn nào khác. Bởi không một GV
nào dám "hy sinh tương lai" của mình chỉ vì một cái roi quất vào tay hay vào
“mông” của một học trò hỗn láo, vô lễ với mình.

3.2. Người thầy nhận được sự ủy thác của gia đình, xã hội quá nhiều, nhưng
đơn độc và gần như không còn cụng cụ để giáo dục HS
Điều này biểu hiện ở chỗ:
a) Thứ nhất, người thầy hiện nay nhận được sự ủy thác quá nhiều của phụ huynh,
xã hội, là người chịu trách nhiệm chính trong dạy dỗ, giáo dục HS: “Trăm sự nhờ
thầy/cô, nhờ nhà trường”. Nhưng nếu có bất cứ vấn đề gỡ xảy ra đối với con em họ
(bị đánh mắng, trách phạt,…do bị phạm lỗi) thì người thầy nhận được sự chỉ trích,
11


lên án quá nhiều từ phía gia đình, xã hội, thậm chí bị kỷ luật hoặc buộc thôi việc.
Vì vậy, GV cố kìm nén, không dám kỷ luật nghiêm khắc với những HS được coi
như các "ông trời con". Đã có GV đau đớn tâm sự rằng: "Vì Luật không đứng bên
tôi, phụ huynh không đứng bên tôi, đau khổ nhất là ngành giáo dục không đứng
bên tôi".
b) Thứ hai, thầy giáo hiện nay bị tước gần hết công cụ để giáo dục HS. Đây là vấn
đề nhức nhối nhất đối với GV. Có bao nhiêu trong số các bạn đọc biết GV hiện nay
không còn có cả quyền đuổi HS ra khỏi lớp chứ đừng nói đến dùng đòn roi hoặc
quát mắng HS. Ngoài sử dụng các biện pháp trách phạt, hạ hạnh kiểm thì không
còn biện pháp nào khác. Nhưng hạnh kiểm đối với HS có gì quan trọng đối với
chúng. Bị hạ hạnh kiểm hoặc bị xếp loại đạo đức trung bình, yếu, kém chẳng có gì
là kinh khủng hay đáng xấu hổ, chỉ cần hạnh kiểm trung bình là được lên lớp. Do
đó, hạ hạnh kiểm không còn tác dụng gì trong răn đe, rèn luyện nhân cách HS của
GV hiện nay.
Thiết nghĩ, thời kỳ quan trọng nhất trong hình thành ý thức học tập và đạo đức của
HS là kỷ luật. Để chúng có được nền tảng đó thì một chút hình phạt không phải là
không thể chấp nhận được. Một cái vụt bằng thước vào tay hay mông sẽ khiến
chúng nhớ lâu hơn một vài trang chép phạt, một lời mắng mỏ với lương tâm và tình
thương của GV sẽ hơn bất cứ những bản kiểm điểm vụ hồn kia. Thậm chí, một cái
tát cũng có thể làm cho HS nên người. Đó là cái tát của tình thương, trách nhiệm

làm thức tỉnh những hành vi lệch chuẩn của HS và mong muốn các em tiến bộ.
Makarenko là nhà giáo dục nổi tiếng người Ukraina. Trong suốt 34 năm cống
hiến cho giáo dục ông đã thành công trong việc giáo dục hơn 3.000 thiếu niên chưa
ngoan, phạm tội trộm cắp, cướp giật, đánh người,… ông đã khẳng định, “Trong
giáo dục mà loại bỏ các hình phạt là thể hiện chủ nghĩa nhân đạo giả dối. Nhân đạo
không phải là sẵn sàng bỏ qua những cái sai, cái xấu xa của HS mà phải đấu tranh
để loại bỏ nó đến cùng với niềm tin nhất định HS sẽ tiến bộ”. Danh ngôn xưa cũng
có câu “Khoan dung với cái ác là đẩy người lương thiện vào chốn tai ương”. Cho
12


nên, giáo dục HS rất cần đến hình thức kỷ luật nghiêm khắc, thậm chí là các hình
phạt mang tính răn đe, giáo dục như từ xa xưa, cha ông ta đã dạy: “Thương cho roi
cho vọt” đó sao!.
Đáng tiếc rằng, GV hiện nay không có những quyền đó, vì thế HS đã “nhờn
thuốc” và việc giáo dục các em trở nên đầy khó khăn, thách thức với người thầy
hiện nay.
3.3. Năng lực giáo dục của người thầy hiện nay còn nhiều hạn chế
Trừ những người thầy có bề dày kinh nghiệm, có khả năng ứng phó và xử lý tốt với
mọi tình huống xảy ra trong lớp học, phần lớn những GV trẻ mới ra trường đều rất
khó khăn trong giáo dục HS, nhất là với những em cá biệt. Có những GV vừa dạy
được một vài tiết hoặc làm chủ nhiệm được một vài tuần đã phải xin chuyển sang
lớp khác dạy, vì không thể dạy hoặc quản lý được lớp học. Các tình huống xảy ra
trong và ngoài lớp học không xử lý được hoặc phản sư phạm dẫn đến những hậu
quả sai lầm đáng tiếc. Một số GV trốn tránh trách nhiệm, thờ ơ, mặc kệ HS với thái
độ “không muốn đụng vào những “cậu ấm”, “cụ chiêu” đã quá nổi danh và hỗn láo,
…. Đây chính là biểu hiện năng lực giáo dục của người thầy còn nhiều hạn chế.
Điều này do nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân chính là:
- Việc đào tạo GV trong trường sư phạm chưa trang bị tốt cho SV những năng lực
giáo dục cần thiết. Đặc biệt những lý luận và thực tiễn mà trường sư phạm trang bị

cho họ dường như đã không bắt kịp với những thay đổi, thách thức mà thực tiễn
giáo dục đang đòi hỏi.
- Đối tượng HS ngày nay khác trước rất nhiều (hiểu biết, thông minh, tự tin và đầy
cá tính hơn) nhưng ngày càng có nhiều HS hư, cá biệt hơn. Đây chính là những khó
khăn đang thách thức năng lực giáo dục của người thầy.
4. Người thầy cần có những năng lực gì để giáo dục được HS?

13


Ngoài những năng lực cần thiết mà chuẩn nghề nghiệp GV đã yêu cầu, chúng tôi
cho rằng, những năng lực sau đây giúp người thầy vượt qua được mọi thách thức
trong giáo dục HS, đó là:
4.1. Năng lực hiểu và thích ứng với HS: Người thầy phải hiểu được đặc điểm cũng
như cá tính của từng đối tượng HS, biết chấp nhận và thích ứng với đối tượng mình
đang giáo dục. Từ đó tìm phương pháp phù hợp để tác động chúng. Nếu không
thích ứng được với những hành vi lệch chuẩn của HS, GV rất dễ sốc và rơi vào
trạng thái bất lực, buông xuôi hoặc nóng giận trong xử lý tình huống.
4.2. Năng lực ứng phó và xử lý các tình huống giáo dục một cách hiệu quả. Các
tình huống luôn xảy ra trong lớp học với mức độ, tính chất ngày càng phức tạp,
căng thẳng và khó xử. Bất cứ người thầy nào đang đứng trên bục giảng đều rất mệt
mỏi và đầy áp lực trước những hành vi do HS hư gây ra. Vì vậy, GV phải biết ứng
phó kịp thời và xử lý một cách nghiêm khắc nhưng mềm dẻo, có tính sư phạm để
tránh căng thẳng không cần thiết hoặc gây tổn thương cho GV và HS.
4.3. Năng lực kiềm chế cảm xúc trước những hành vi lệch chuẩn của HS. Trong
thực tiễn đã có nhiều thầy/cô do không kiềm chế được cảm xúc nên đã quát mắng,
lăng mạ hoặc đánh đập thô bạo học trò, gây nên những hậu quả đáng tiếc và vi
phạm qui định nhà giáo. Vì thế, trước những hành vi hỗn láo, vô tổ chức kỉ luật,
với thái độ "coi trời bằng vung" của một số HS hư, GV cần biết nén sự nóng giận
của mình để tìm cách xử lý. Đây được coi là một trong những kỹ năng rất quan

trọng của người thầy trong giáo dục HS, nhất là với HS cá biệt.
Bên cạnh những năng lực trên, người thầy cần: - Biết vui cùng những thành tích
nhỏ bé của học trò và hãy chia sẻ những thất bại của chúng. Hãy vừa là bạn, vừa là
thầy của HS và cố gắng để các em luôn gần gũi, cởi mở với mình; - Hãy cố gắng
khơi dậy lòng tự trọng, sự tự tin và những ưu điểm trong mỗi HS. Đừng bao giờ
cho rằng, những HS hư là đồ bỏ đi và không thể dạy dỗ được; - Đừng đòi hỏi một
“kỷ luật lý tưởng” trong lớp học và đừng độc đoán quá. Hãy nên nhớ, giờ học là
14


một phần cuộc sống của HS, vì vậy đừng làm cho giờ học gò bó, cứng nhắc để tạo
cho HS sợ hãi mà không dám cởi mở, say mê, sáng tạo; - Các cuộc gặp gỡ, trao đổi
với phụ huynh HS vi phạm kỷ luật là cần thiết, nhưng nên nhớ, đối với họ đứa con
là quý giá nhất trên đời. Vì thế, người thầy hãy hết sức tế nhị, tránh đừng để phụ
huynh cũng như HS đó bị tổn thương; - Đừng sợ xin lỗi học trò nếu thấy mình sai.
Xin lỗi chỉ làm tăng uy tín của người thày trong mắt các em mà thôi. Khi HS mắc
lỗi, GV không nên nóng nảy quá; - Không thể giáo dục HS với một chút ít nhiệt
tình mà hãy cố gắng sống hết mình với các em. Yêu thương và bao dung, nghiêm
khắc và dạy dỗ, dùng lời nói và tình thương để tác động đến tâm hồn HS; - GV hãy
kiềm chế, bình tĩnh, kiên trì và mềm mỏng trước mọi hành vi chưa đúng của HS.
5. Kết luận
Có thể nói trong xã hội ngày nay, đạo đức của một bộ phận HS đang xuống cấp đến
mức báo động. Sự sa sút về đạo đức, nhân cách của HS đang thách thức năng lực
giáo dục của người thầy. Điều này đã đặt ra một bài toán cho các trường sư phạm
phải chú ý đến việc nâng cao năng lực giáo dục cho đội ngũ GV tương lai để giúp
họ sau khi ra trường sẽ trở thành những nhà giáo dục hơn là những người thày dạy
chữ. Mặt khác, đối với GV phổ thụng, đòi hỏi họ phải thực sự là một nhà giáo dục
đầy tâm huyết, kiên nhẫn, song cần lắm những quyền lực và công cụ đủ mạnh để
làm cho HS biết sợ mà cố gắng rèn luyện, tu dưỡng. Nếu không, sự "nhờn thuốc"
qua các hình thức trách phạt kể trên không thể chữa trị được những HS hư.

(Đã đăng trên tạp chí Giáo dục và xã hội, tháng 5/2014)
Tài liệu tham khảo
1.Makarenko.A.C.(1976) giáo dục trong thực tiễn, NXB thanh niên Hà Nội.
2.Makarenko.A.C (1984) tuyển tập các tác phẩm Sư phạm, NXB giáo dục Hà Nội.
3. Thời của nhà giáo...vô trách nhiệm , (Báo Dân trí 22/12/2012).
15


4. Nguyễn Thị Thu Huyền. Có những cái tát làm học sinh nên người.
(Nguồn: http//www. Vnexpress.net ngày 19/2/2014)

16



×