Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận ma túy và xã hội 123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.46 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................................................
1.KHÁI NIỆM CÓ LIÊN QUAN.......................................................................................
1.1 Khái niệm ma túy........................................................................................................
1.2 Đặc điểm người sử dụng ma túy...................................................................................
II.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆN MA TÚY.................................................
1.Thực trạng nghiện ma túy hiện nay.............................................................................
2. Những dịch vụ điều trị hỗ trợ người nghiện ma túy hiện nay...................................
3. Những nhu cầu của người nghiện ma túy...................................................................
4.Tầm quan trọng của quản lý trường hợp trong việc hỗ trợ người sử dụng ma túy.
5.Đánh giá các yếu tố tác động tới hoạt động quản lý trường hợp trong việc hỗ trợ
người sử dụng ma túy........................................................................................................
6. Theo bạn trong thời gian tới hoạt động quản lý trường hợp có phát triển không.
Đưa ra dẫn chứng cho nhận định của bạn.......................................................................
III.Những giải pháp và đề xuất triển khai hoạt động quản lý trường hợp trong việc
hỗ trợ người sử dụng ma túy trong thời gian tới.............................................................
IV.KẾT LUẬN....................................................................................................................


DANH MỤC VIẾT TẮT

QLTH
NVQLTH

Quản lý trường hợp
Nhân viên quản lý trường hợp

MT

Ma túy


NSDMT

Người sử dụng ma túy

CTXH

Công tác xã hội

KH

Khách hàng

LĐTB&XH

Lao động Thương binh và Xã hội

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
Theo báo cáo 69/BC-LĐTBXH ngày 8/9/2011của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
tính tới cuối tháng 6 năm 2011 cả nước có 149.900 người nghiện ma túy có hồ sơ quản
lý. So với cuối năm 1994, số người nghiện ma túy đã tăng khoảng 2,7 lần với mức tăng
xấp xỉ 6.000 người nghiện mỗi năm. Người nghiện ma túy đã có 63/63 tỉnh, thành phố,
khoảng 90% quận, huyện, thị xã và gần 60% xã, phường, thị trấn trên cả nước. Theo Thứ
trưởng Bộ Công An Phạm Quý Ngọ cho biết, 6 tháng đầu năm 2012 cả nước có 171.392
người nghiện ma túy (có hồ sơ quản lý), tăng 12.978 người so với cùng kỳ (Báo cáo tại
UB Quốc gia phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm, ngày 7/9/ 2012). Bởi vậy, công tác

phòng chống nghiện ma túy nói chung và điều trị nghiện nói riêng, đặc biệt, vấn đề tái
nghiện và tái hòa nhập xã hội luôn là những thách thức, đòi hỏi sự nỗ lực của người
nghiện, gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Tuy nhiên, trong công tác này chúng ta gặp
không ít khó khăn, chúng ta đã áp dụng nhiều hình thức, mô hình tổ chức can thiệp, trợ
giúp cho người nghiện ma túy nhưng kết quả đạt được không như mong muốn, tỷ lệ tái
nghiện 90% đến 95%, có địa phương tỷ lệ tái nghiện là 100% (Điện Biên). Trong thời
gian gần đây, một số địa phương trên cả nước đang áp dụng mô hình Điều trị nghiện ma
túy tại cộng đồng nhằm nâng cao hiệu quả và khắc phục những điểm chưa phù hợp từ
hình thức cai nghiện ma túy tại các Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội
(trung tâm 06) thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Theo Nghị định 94 của
Chính phủ quy định đối với cai nghiện tại cộng đồng phải có sự phối hợp, vào cuộc của
liên ngành công an, y tế, LĐTB&XH và chính quyền các địa phương; Nhà nước khuyến
khích người nghiện ma túy tự nguyện cai nghiện; tổ chức, hỗ trợ cho công tác cai nghiện
ma túy tại gia đình, cộng đồng
Công tác xã hội là một phương pháp khoa học để can thiệp các vấn đề xã hội, phát triển
xã hội. Năm 2010, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 32 – Phát triển nghề
công tác xã hội tại Việt Nam giai đoạn 2010-2020, và công tác xã hội đang được áp dụng
vào nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hiện tại, tình trạng người sử dụng ma túy tại Việt Nam vẫn đang là mối quan tâm lớn của
các ngành chức năng, các tổ chức về sức khỏe trong nước và quốc tế. Việc giải quyết vấn
đề này cần thiết phải mang tính chuyên môn và toàn diện, vận dụng các lý thuyết của
ngành công tác xã hội. Mô hình quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy do tổ chức
FHI 360 thực hiện, đã vận dụng các lý thuyết về công tác xã hội với cá nhân và gia đình
trong việc giải quyết vấn đề của người sử dụng ma túy.


I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Các khái niệm liên quan
1.1Khái niệm ma túy: Người nghiện ma túy: Là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây
nghiện, thuốc hướng thần và lệ thuộc vào chất này (Luật phòng, chống ma túy

23/2000/QH10). Người nghiện ma túy là người thường xuyên dùng ma túy để thỏa mãn
sự thèm muốn, đam mê tột độ và thói quen của mình. Là những người luôn luôn bị phụ
thuộc, bị trói buộc bởi tình trạng tâm lý khát khao, thèm muốn và sự đam mê đáng sợ
nhất của con người. Đó chính là cơn nghiện, nó có thể đưa con người sa vào tình trạng
khốn quẫn, mất hết phương hướng, thậm chí mất hết tính người.
1.2Đặc điểm của người sử dụng ma túy
Về mặt sinh lý: Š
Nếu là người đang nghiện thì sức khỏe suy sụp dần, không quan tâm chăm sóc đến sức
khỏe bản thân. Có một vài vấn đề ven như áp – xe, có thể mắc phải một số bệnh lây
truyền qua đường máu và đường tình dục, các hoạt động thể lý suy giảm, có vấn đề về
răng miệng, v.v. Š
Tuy nhiên nếu khách hàng ngừng sử dụng và tham gia vào một mô hình điều trị phù hợp
thì sức khỏe thể lý sẽ dần dần được cải thiện, nhưng cũng mất rất nhiều thời gian. Sự cải
thiện sức khỏe của khách hàng còn tùy thuộc vào việc khách hàng có mắc các bệnh đồng
diễn nào khác ngoài nghiện không. Y
Về mặt tâm lý: Š
Tùy thuộc và từng chất gây nghiện khác nhau và thời điểm thiếu thuốc (hội chứng cai)
hoặc lúc phê thuốc mà người sử dụng có những biểu hiện tâm lý khác nhau. Ví dụ một
trong những biểu hiện tâm lý của người phê heroin sẽ là khoan khoái, lâng lâng, thoải
mái, v.v. nhưng đối với hàng đá thì phấn khích, hứng tình và có phần dễ gây hấn với
người khác,
Thông thường đối với người sử dụng ma tuý thường có những đặc điểm như bức xúc về
mặt tâm lý muốn sử dụng lại chất gây nghiện, khi lên cơn nghiện, người nghiện khó có
thể kiểm soát được suy nghĩ và hành vi của mình nên dễ dàng gây ra những tổn thương
cho người khác hoặc gây ra những hành động làm ảnh hưởng xấu đến gia đình và người
xung quanh.


Tuy nhiên, khi tỉnh táo, người nghiện nhận thức được tác hại của việc lạm dụng chất gây
nghiện và đôi khi cũng có mong muốn cai nghiện và thực hiện những Những vấn đề

chung về quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy 25 hoạt động có ích cho bản thân,
gia đình và xã hội. Để giúp người nghiện chiến thắng được chính bản thân mình, vượt
qua sự cám dỗ của chất gây nghiện, gia đình, cộng đồng, xã hội và những nhà chuyên
môn như nhân viên quản lý trường hợp cần tích cực hỗ trợ, giúp đỡ. Š
Nếu mới nghiện: Cảm xúc cô đơn, trống vắng; mặc cảm tội lỗi, cảm giác lo sợ, mặc cảm
mình bị ghét bỏ.Từ đó có thể dẫn đến những hành vi như: tiếp tục sử dụng ma túy để tìm
quên; che giấu, sống tách biệt với thế giới riêng, ngại giao tiếp; lừa dối; phản kháng, bỏ
nhà đi, tiếp tục sử dụng ma túy.
Nếu nghiện lâu:
Mặc cảm thua sút anh em, bạn bè; mặc cảm mình bị ghét bỏ, là thành phần xấu của xã
hội; tự ái rằng mình có thừa khả năng, có thể thành đạt nhưng chỉ tại vì nghiện, tại vì
hoàn cảnh. Đối với những người đã sử dụng trong thời gian dài có cảm giác chán chường,
buông xuôi vì đã từng nỗ lực từ bỏ nhiều lần nhưng không thành công. Họ muốn được
làm người bình thường, muốn có và sống với vợ con, muốn nói chuyện và giao tiếp với
người khác; có nhận thức về mình, đôi lúc có tính cách triết lý, nói chuyện cố gắng có
đầu có đuôi.
1.3Khái niệm Quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy:
QLTH với người sử dụng ma túy là một quá trình trợ giúp của công tác xã hội, bao gồm
các hoạt động đánh giá nhu cầu của khách hàng (là cá nhân, gia đình người sử dụng ma
túy), xác định, kết nối và điều phối các nguồn lực, dịch vụ nhằm giúp khách hàng phục
hồi với việc sử dụng chất gây nghiện hoặc với các vấn đề khác. Quản lý trường hợp còn
là sự phối hợp giữa các dịch vụ hỗ trợ xã hội và lâm sàng chuyên nghiệp nhằm hỗ trợ
những người hiện đang có nhiều nhu cầu phức tạp, chủ yếu vì mục đích bảo vệ và chăm
sóc dài hạn. QLTH với người sử dụng ma túy có một số đặc điểm cơ bản: y Thứ nhất:
Việc cung cấp các dịch vụ khác nhau đối với người sử dụng ma túy là hoạt động rất quan
trọng trong quá trình giúp đỡ người sử dụng ma túy. y Thứ hai: Phương pháp tiếp cận đối
với người sử dụng ma túy cần nêu cao vai trò của nhân viên quản lý trường hợp với
những khả năng, năng lực cần có ở họ, để có kế hoạch tốt nhất (bao gồm việc đánh giá
chi tiết nhu cầu hỗ trợ, xây dựng kế hoạch nhằm đạt được mục tiêu và xây dựng các tiêu
chuẩn đánh giá kết quả) giúp người sử dụng ma túy thực hiện các yêu cầu trong quy trình

cai nghiện hoặc sử dụng các biện pháp thay thế. y Thứ ba: Nhân viên quản lý trường hợp
cần có những phương pháp bảo đảm cho khách hàng được hưởng các dịch vụ hỗ trợ về


chuyên môn (cai nghiện, cắt cơn, điều trị thay thế, các liệu pháp tâm lý xã hội, v.v.) một
cách toàn diện
II.MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGHIỆN MA TÚY
Tình trạng nghiện ma túy hiện nay:
2.1.Thực trạng nghiện ma túy hiện nay.
Thế giới:
Tình hình sử dụng ma túy vẫn diễn biến phức tạp bất chấp các nỗ lực kiểm soát ma
túy. Theo Báo cáo về tình hình ma túy thế giới năm 2012 của Chương trình kiểm soát
tội phạm và ma túy của Liên hiệp quốc (UNODC), ước tính năm 2010 trên toàn cầu
có 230 triệu người sử dụng ma túy, trong đó 27 triệu người có vấn đề nghiêm trọng do
sử dụng ma túy; 200.000 người tử vong hàng năm do sử dụng heroin, cocain và các
loại ma túy khác. Trong số người tiêm chích ma túy, khoảng 20% nhiễm HIV, 46,7%
mắc viêm gan C và 14,6% mắc viêm gan B, tạo thêm gánh nặng về bệnh tật cho toàn
cầu; khoảng 1/100 ca tử vong ở người lớn là do sử dụng ma túy bất hợp pháp.
Trong khu vực, tình trạng tái trồng cây thuốc phiện và sản xuất bất hợp pháp các
chất ma túy tổng hợp, đặc biệt là methamphetamine đang gia tăng đe dọa nghiêm
trọng trật tự an toàn xã hội và sức khỏe cộng đồng ở khu vực Đông và Đông Nam Á
hiện nay. Với diện tích gieo trồng 43.600 ha năm 2011, Myanmar tiếp tục là nước có
diện tích trồng thuốc phiện lớn nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ hai thế giới sau
Afghanistan. Buôn bán methamphetamine dạng viên được sản xuất tại Myanmar và
phần lớn trong số đó được vận chuyển sang thị trường các nước thuộc tiểu vùng sông
Mekong, hiện đã tăng lên gấp 4 lần từ 32 triệu viên năm 2008 lên 136 triệu viên năm
2011. Tình trạng buôn bán và sử dụng ketamine, chất gây ảo giác thường được sử
dụng trong thuốc thú y, đang là vấn đề đáng quan tâm của một số nước trong khu vực,
năm 2011 báo cáo việc sử dụng ketamine gia tăng ở Trung Quốc, Malaysia… (Báo
cáo Bộ Công An trong Hội nghị đánh giá công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại

dâm tháng 9/2012).
Việt Nam:
Ở Việt Nam, theo số liệu từ Bộ Công An, tính tới cuối tháng 6 năm 2012, cả nước
có 171.400 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lí. So với cuối năm 1994, số người
nghiện ma túy đã tăng gấp 3 lần (55.445 người nghiện năm 1994) với mức tăng xấp xỉ
6.000 người nghiện mỗi năm. Trước đây, số người nghiện ma túy chủ yếu là nam giới,


nhưng những năm gần đây tỷ lệ người nghiện ma túy là nữ đã gia tăng đáng kể. Trong
số 171.400 người nghiện, nam giới chiếm 96%, nữ giới chiếm 4%.
Người sử dụng ma túy đang có xu hướng trẻ hóa. Năm 1995, số người sử dụng ma
túy chủ yếu nằm trong nhóm tuổi trên 30 tuổi, chiếm 57.6%, số người sử dụng ma túy
nhóm tuổi từ 18-30 tuổi chiếm 30%, thì năm 2005, tỉ lệ sử dụng ma túy nhóm tuổi 1830 đã tăng hơn gấp đôi, chiếm 65.9% (Nguồn: Cục Phòng, Chống Tệ Nạn Xã Hội/ Bộ
LĐTBXH, Báo cáo về tình hình sử dụng ma túy năm 1995, 2001; Báo cáo về đặc
điểm của người sử dụng 2005). Năm 2012, theo báo cáo của Bộ Công An (Hội nghị
đánh giá công tác phòng chống AIDS, ma túy, mại dâm tháng 9/2012), tình hình sử
dụng ma túy phổ biến hơn cả trong nhóm trẻ, từ 16-30 tuổi, chiếm 66%.
Cũng theo báo cáo trên, heroin vẫn là chất được sử dụng chủ yếu, chiếm 84,7%,
ma túy tổng hợp 6,5%, thuốc phiện 6,4%, cần sa 1,6%, tân dược gây nghiện 0,3%, các
loại khác 0,5% .

Khía cạnh đô thị hóa của tình hình sử dụng ma túy được thể hiện rõ với ngày càng
nhiều người sử dụng ma túy sống ở các thành phố lớn, hình thức sử dụng ma túy cũng
thay đổi đa dạng và nhanh chóng: trước đây người sử dụng chủ yếu hút thuốc phiện,
nhưng nay lại chuyển sang tiêm chính heroin( năm 1995 chỉ có chưa đến 8% số người
nghiện tiêm chích ma túy, hiện nay số người chích ma túy chiếm tới 72,67% tổng số
người nghiện ma túy cả nước); từ sử dụng đơn chất sang đa chất (sử dụng đồng thời
nhiều loại chất): sử dụng và trộn lẫn các dược phẩm khác với ma túy, như sử dụng kết



hợp heroin và novocain hoặc các loại thuốc an thần, hoặc pha trộn các loại thuốc tân
dược gây nghiện với nhau để tăng cảm giác phê. Xu hướng sử dụng ma túy tổng hợp
(bao gồm cả ma túy sử dụng ở các vũ trường và các chất dạng amphetamine) ở các
thành phố đang ngày càng gia tăng, chủ yếu ở nhóm trẻ tuổi (theo nghiên cứu của
Nguyễn và Scannapieco năm 2008). Tuy nhiên, chất lượng ma túy được sử dụng ở
nước ta có nhiều loại không nguyên chất (tinh khiết).
Một nghiên cứu được thực hiện bởi UNODC năm 2007 tại Việt Nam về các thành
phần thực tế trong các viên ecstasy (MDMA-chúng ta thường gọi là viên lắc). Kết quả
cho thấy các viên này hầu như không chứa thành phần ecstasy mà là tổng hợp nhiều
chất khác nhau như paracetamol, caffeine và ketamine. Phần lớn các viên ecstacy bán
trên thị trường đều không phải là MDMA.
Nghiên cứu Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học (IBBS) về HIV và các bệnh
lây truyền qua đường tình dục năm 2009 cho thấy việc sử dụng ma túy trong nhóm gái
bán dâm và nhóm nam tình dục đồng giới tại một số tỉnh, thành phố có xu hướng gia
tăng.
Tệ nạn ma túy có tác hại rất lớn đến kinh tế, chính trị, xã hội, hạnh phúc, giống nòi, làm
suy thoái về đạo đức, lối sống, là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm như trộm cắp,
cướp của giết người, lừa đảo, cưỡng đoạt tài sản, gây rối trật tự công cộng…, đồng thời
cũng là nguyên nhân chính dẫn đến đại dịch HIV của thế giới.
Kết quả rà soát đến tháng 9/2015 toàn quốc có hơn 204 nghìn người nghiện ma túy có hồ
sơ quản lý của lực lượng Công an, tăng gần 23 nghìn người (tăng 12%) so với cuối năm
2013. Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH, mỗi người nghiện ma túy sử dụng khoảng
230.000 đồng/ngày, do đó số tiền thiệt hại là rất lớn. Bên cạnh đó, những năm gần đây
người nghiện ma túy của Việt Nam luôn luôn gia tăng.
Hiện nay, cả nước có 123 trung tâm cai nghiện bắt buộc với biên chế hơn 7 nghìn cán bộ,
lương bình quân mỗi người là 3 - 4 triệu đồng/tháng, lưu lượng tiếp nhận cai nghiện
khoảng 60 nghìn người/năm với cơ sở vật chất hàng ngàn ha. Nhưng hiện tại chỉ có 22,2
nghìn người cai nghiện tại các trung tâm cai nghiện, trong đó có 14 trung tâm cai nghiện
không có người nghiện rất lãng phí. Ngoài ra còn có 180 cơ sở điều trị mathadone, tại 42
tỉnh thành đang điều trị cho 42 nghìn người nghiện ma túy. Theo chủ trương của Chính

phủ giao chỉ tiêu cho các tỉnh cuối năm 2015 phải điều trị thay thế bằng Methadone cho
80 nghìn người nghiện, đây là quyết tâm cố gắng rất lớn của Chính phủ, các ngành giúp
giảm tác hại của tệ nạn ma túy.
Dự báo trong những năm tới, tình hình tội phạm ma túy và tệ nạn ma túy của Việt Nam sẽ
có những diễn biến phức tạp với những lý do: áp lực của tình hình ma túy và tệ nạn ma
túy ở thế giới và các nước trong khu vực Đông Nam Á luôn gia tăng, đặc biệt ở Lào,


Trung Quốc, Myama, Thái Lan… Người nghiện ma túy của Việt Nam luôn tiếp tục gia
tăng (trong 10 năm qua, trung bình mỗi năm tăng từ 5 - 10%) chưa có xu hướng
giảm;công tác cai nghiện của Việt Nam chưa có hiệu quả; chính sách mở cửa hội nhập,
dân chủ, dân quyền của pháp luật, việc lập hồ sơ đưa người nghiện vào các trung tâm cai
nghiện khó khăn; xã hội chưa đủ các điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí cho cai nghiện tại
cộng đồng, điều trị cai nghiện ma túy bằng Methadone; MTTH đang được giới trẻ truyên
truyền ca tụng, xu hướng sẽ có gia tăng đột biến ở Việt Nam, là những điều kiện cho tệ
nạn ma túy gia tăng.
2.2.Hậu quả:
Ảnh hưởng đến bản thân
Ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ,
• Hệ tiêu hoá, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn, các bệnh về da, làm suy giảm chức năng thải
độc, hệ thần, nghiện ma tuý dẫn đến tình trạng suy nhược toàn thân, suy giảm sức
lao động.Nghiện ma tuý dẫn đến tình trạng nhiễm độc ma tuý mãn tính, suy nhược
toàn thân,cơ thể gầy đét do suy kiệt hoặc phù nề do thiếu dinh dưỡng, rối loạn
nhịp sinh học, thức đêm ngủ ngày, sức khoẻ giảm sút rõ rệt.
làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại


Gây nghiện mạnh, sức khoẻ giảm sút. Tiêm chích ma tuý dùng chung bơm kim
tiêm không tiệt trùng dẫn đến lây nhiễm viêm gan vi rut B, C, đặc biệt là HIV(dẫn
đến cái chết). Tiêm chích ma tuý là một trong những con đường lây nhiễm HIV

phổ biến nhất tại Việt Nam. Người nghiện ma tuý có thể mang vi rut HIV và lây
truyền cho vợ/bạn tình của con cái họ.



Thoái hoá nhân cách, rối loạn hành vi, lối sống buông thả, dễ vi phạm pháp luật.



Mâu thuẫn và bất hoà với bạn bè, thầy cô giáo và gia đình.



Mất lòng tin với mọi người, dễ bị người khác lợi dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ
học, ảnh hưởng đến tương lai tiền đồ, nếu đã có việc làm thì dễ bị mất việc làm.



Ma tuý còn gây tác hại lâu dài cho con cái, nòi giống: các chất ma tuý ảnh hưởng
đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng
đến quá trình phân bào hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gien độc có điều
kiện hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.

Ảnh hưởng đến gia đình


Làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và gia đình. Nhu cầu cần tiền để mua ma tuý
của người nghiện là rất lớn, mỗi ngày ít nhất từ 50.000-100.000 đồng/ngày thậm
chí 1.000.000 - 2.000.000 đồng/ ngày, vì vậy khi lên cơn nghiện người nghiện ma
tuý có thể tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ đạc của gia đình vào việc mua ma tuý



để thoả mãn cơn nghiện của mình, hoặc để có tiền sử dụng ma tuý, nhiều người đã
trộm cắp, hành nghề mại dâm, hoặc thậm chí giết người, cướp của.


Sức khoẻ các thành viên khác trong gia đình giảm sút ( lo lắng, mặc cảm, ăn
không ngon, ngủ không yên...vì trong gia đình có người nghiện)



Gây tổn thất về tình cảm (thất vọng, buồn khổ, hạnh phúc gia đình tan vỡ, ly thân,
ly hôn, con cái không ai chăm sóc...)



Gia đình tốn thời gian, chi phí chăm sóc và điều trị các bệnh của người nghiện do
ma tuý gây ra.

Ảnh hưởng đến xã hội


Gây mất trật tự an toàn xã hội, gia tăng các tệ nạn xã hội: Lừa đảo, trộm cắp, giết
người, mại dâm, băng nhóm...



Ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc.




Làm giảm sút sức lao động sản xuất trong xã hội.



Tăng chi phí ngân sách xã hội cho các hoạt động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết
các hậu quả do ma tuý đem lại. Ma tuý còn là nguồn gốc, là điều kiện nảy sinh, lan
truyền đại dịch HIV/AIDS (một hiểm hoạ toàn cầu chưa có thuốc chữa...Hiện nay
nước ta có trên 130.000 người nhiễm HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma
tuý



Ảnh hưởng đến giống nòi, huỷ diệt giống nòi: do các chất ma tuý ảnh hưởng đến
hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến
quá trình phân bào hình thành các giao tử, tạo cơ hội cho các gien độc có điều kiện
hoạt hoá, dẫn tới suy yếu nòi giống.

2.3 Những dịch vụ điều trị hỗ trợ người nghiện ma túy hiện nay.
Hiện nay có rất nhiều dịch vụ điều trị hỗ người nghiện ma túy như : tư vấn, tham
vấn, điều trị tại các trung tâm cai nghiện, các cở sở tư vấn điều trị tự nguyện, trung
tâm cai nghiện tự nguyện, các trung tâm giáo dục- lao động xã hội……. Dưới đây là 2
mô hình điều trị cai nghiệp đang được áp dụng hiện nay.
Điều trị nghiện ma túy theo mô hình bệnh mãn tính.
Điều trị bệnh mạn tính như tiểu đường, hen và tăng huyết áp cùng tuân theo các
nguyên tắc áp dụng trong điều trị nghiện ma túy. Giống như bệnh nhân mắc bệnh tiểu
đường hoặc bệnh tim mạch, bệnh nhân điều trị nghiện ma túy cần uống thuốc như là
một phần của phác đồ điều trị. Ngoài ra họ cần học các kỹ thuật và kỹ năng để thay
đổi hành vi. Sử dụng thuốc hiệu quả và động viên khuyến khích thay đổi lối sống
thông qua điều trị thay đổi hành vi và tư vấn có thể hiệu quả với người nghiện ma túy



giống như hiệu quả đối với bệnh nhân mắc bệnh mạn tính khác. Sự phối hợp giữa
điều trị bằng thuốc và liệu pháp thay đổi hành vi sẽ là phương pháp hiệu quả nhất, tốt
hơn nhiều so với việc chỉ áp dụng riêng lẻ một trong hai biện pháp này.
Không phải cứ nghiện là nghĩ đến trại tập trung. Nhiều gia đình, quá bối rối trước
thực tế mắc nghiện của con em mình, cho rằng chỉ có trại tập trung mới cai được. Có
người nghe nói methadone tốt, lập tức săn tìm cho được methadone, một số muốn sử
dụng biện pháp cổ truyền hoặc châm cứu, trong khi điều trị bằng chất đối
kháng Naltrexonex là phù hợp nhất đối với họ.
Điều trị hiệu quả là phải điều trị toàn diện những nhu cầu của bệnh nhân chứ
không phải chỉ tập trung vào tình trạng sử dụng ma túy của họ.
Mô hình điều trị dựa vào cộng đồng.
Điều trị dựa vào cộng đồng là phương pháp điều trị hiệu quả và ít tốn chi phí nhất
dành cho những người sử dụng và lệ thuộc vào ma túy: Bằng chứng trên khắp thế giới
cho thấy các bệnh nhân sử dụng dịch vụ điều trị dựa vào cộng đồng đã giảm đáng kể
số ngày điều trị nội trú, số lần cấp cứu và phạm tội.







Tạo thuận lợi để bệnh nhân tiếp cận việc điều trị.
Phương pháp này thu hút sự tham gia của bệnh nhân.
Chi phí điều trị phù hợp với bệnh nhân, gia đình và cộng đồng.
Củng cố tính độc lập của bệnh nhân tại môi trường tự nhiên của họ.
Phương pháp này linh hoạt hơn các phương thức điều trị khác.
Chú trọng tới việc bệnh nhân hòa nhập xã hội từ lúc bắt đầu điều trị và phát

huy sức mạnh của cộng đồng.
• Đây là phương pháp ít xâm lấn hơn là những phương pháp điều trị khác (chẳng
hạn như điều trị nội trú, nhập viện, điều trị chuyên sâu, quản thúc …) ít ảnh
hưởng đến gia đình, công việc và đời sống xã hội.
• Giảm sự kỳ thị và khuyến khích sự mong đợi của cộng đồng về những kết quả
tích cực.


Mô hình dịch vụ điều trị dựa vào cộng đồng nhằm cung cấp các liệu pháp chăm
sóc toàn diện cho những người sử dụng và lệ thuộc vào ma túy, bao gồm các dịch vụ
thực hiện tại cộng đồng và bởi cộng đồng, các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu và
dịch vụ và chẩn đoán y khoa và tâm thần, tại các bệnh viện và phòng khám chuyên
khoa. Bệnh nhân được chuyển tuyến đến các cơ sở dịch vụ phù hợp, dựa trên kết quả
kiểm tra các vấn đề về ma túy và rượu, được chuyển trở lại cộng đồng để được hỗ trợ
và chăm sóc sau cai nghiện. Phương pháp này đảm bảo sự tham gia của cộng đồng,
kết nối các hoạt động phòng ngừa sử dụng ma túy và các dịch vụ cơ bản tại cộng
đồng.
Mô hình điều trị này gồm ba hợp phần chính như sau:
• Các tổ chức cộng đồng, bao gồm cả các tổ chức phi chính phủ (NGO) hỗ trợ
xác định người sử dụng ma túy, tiến hành sàng lọc sơ bộ về vấn đề nghiện ma
túy và đưa đến các cơ sở dịch vụ y tế ban đầu khi cần thiết. Các tổ chức cộng
đồng sẽ chú trọng vào việc giáo dục phòng ngừa, khuyến khích nâng cao sức
khỏe và cung cấp hỗ trợ cơ bản, các dịch vụ phục hồi chức năng và tái hòa
nhập.
• Các dịch vụ sàng lọc, tư vấn, hỗ trợ y tế ban đầu và chuyển tuyến được cung
cấp tại các trung tâm y tế. Bệnh nhân được giới thiệu đến các bệnh viện hoặc
phòng khám chuyên khoa khi cần thiết để điều trị đặc biệt về lệ thuộc vào ma
túy, bệnh truyền nhiễm hoặc rối loạn tâm thần.



• Các tổ chức phúc lợi xã hội và NGO sẽ thực hiện các chương trình giáo dục, tư
vấn, đào tạo nghề nghiệp, tạo thu nhập, hỗ trợ các khoản tín dụng nhỏ kèm
theo các hỗ trợ về mặt tâm lý và xã hội khác.

2.4 Những nhu cầu của người nghiện ma túy

Nhu cầu cơ bản nhất của con người – nhu cầu thể lý về khí oxy, thực phẩm, nước, và
thân nhiệt tương đối ổn định. Đó là những nhu cầu mạnh mẽ nhất vì sự sống của con
người phụ thuộc vào những điều này.
Người SDMT cũng là con người bình thường nên có đầy đủ những nhu cầu này, ngoài
ra họ còn rất cần có những nhu cầu vật chất thiết thực hơn cho sức khỏe của họ. y Khi
các nhu cầu về thể lý được đảm bảo và các yếu tố về thể lý không còn chi phối đến
suy nghĩ và hành vi của khách hàng thì họ có thể tập trung vào nhu cầu được an toàn:


an toàn về thông tin, an toàn về cuộc sống, an toàn về thể trạng, an toàn trong quá
trình điều trị nghiện, v.v.
Khi người SDMT cảm thấy tương đối an toàn và yên tâm, họ sẽ hướng đến nhu cầu
yêu thương, được yêu mến. Đó là việc khách hàng cho và nhận được sự yêu thương,
quý mến và cảm nhận rằng mình có mối liên hệ với những người xung quanh như:
những người thân trong gia đình, hàng xóm láng giềng, cộng đồng, đồng nghiệp và cả
những người chăm sóc điều trị nghiện cho họ.
Khi 3 bậc nhu cầu nêu trên đối với khách hàng đã được đảm bảo thì nhu cầu được
quý trọng sẽ rất quan trọng với họ. Điều này bao hàm cả nhu cầu khách hàng quý
trọng người khác và muốn được người khác quý trọng. Khi các nhu cầu này được thỏa
mãn, khách hàng trở nên tự tin hơn vào những giá trị mà họ đã xác định. Khi các nhu
cầu nêu trên được thỏa mãn, thì đó chính là lúc nhu cầu được tự khẳng định của khách
hàng xuất hiện. Nhu cầu tự khẳng định chính là nhu cầu 24 của khách hàng khi đã
khẳng định chính mình mong muốn và được làm những việc khách hàng muốn làm.
Trong quá trình điều trị nghiện, xác định nhu cầu này sẽ giúp cho khách hàng nhìn

thấy rõ bản thân của họ hơn, xác định tâm lý và bản lĩnh vững vàng hơn và từ đó cũng
có những quyết định đúng đắn hơn. Chúng ta cũng có thể khu trú nhu cầu của người
sử dụng ma túy vào 3 nhóm chính sau:
Về tâm lý: Muốn được yêu thương, được tin tưởng, xây dựng lại mối quan hệ, lập gia
đình, tình dục, sử dụng ma túy, được tham gia vào các hoạt động của gia đình, cộng
đồng và xã hội.
Về xã hội: Muốn được hướng nghiệp, được vay vốn, có việc làm, không kỳ thị, thuộc
về một nhóm nào đó, được làm các thủ tục hành chính, có những mối quan hệ tốt
trong cộng đồng, quan hệ với các cơ quan và những người trong xã hội.
Về Y tế: Biết được tình trạng sức khỏe, HIV của bản thân, muốn được điều trị các
bệnh đang mắc phải, chăm sóc giảm nhẹ, chăm sóc cuối đời, mong muốn có sức khỏe
tốt để hòa nhập cộng đồng.
4.Tầm quan trọng của quản lý trường hợp trong việc hỗ trợ người sử dụng ma
túy.
Quản lý trường hợp là một tiến trình hợp tác giữa các nhà chuyên môn với các hoạt
động đánh giá nhu cầu của thân chủ ( cá nhân, gia đình ), xác định, kết nối và điều
phối các nguồn lực dịch vụ nhằm giúp than chủ tiếp cận nguồn lực để giải quyết vấn
đề và đáp ứng nhu cầu một cách hiêu quả.
QLTH với người sử dụng ma túy là một quá trình trợ giúp của công tác xã hội, bao
gồm các hoạt động đánh giá nhu cầu của khách hàng (là cá nhân, gia đình người sử
dụng ma túy), xác định, kết nối và điều phối các nguồn lực, dịch vụ nhằm giúp khách
hàng phục hồi với việc sử dụng chất gây nghiện hoặc với các vấn đề khác. Quản lý


trường hợp còn là sự phối hợp giữa các dịch vụ hỗ trợ xã hội và lâm sàng chuyên
nghiệp nhằm hỗ trợ những người hiện đang có nhiều nhu cầu phức tạp, chủ yếu vì
mục đích bảo vệ và chăm sóc dài hạn.
Thứ nhất: Việc cung cấp các dịch vụ khác nhau đối với người sử dụng ma túy là
hoạt động rất quan trọng trong quá trình giúp đỡ người sử dụng ma túy.
Thứ hai: Phương pháp tiếp cận đối với người sử dụng ma túy cần nêu cao vai trò

của nhân viên quản lý trường hợp với những khả năng, năng lực cần có ở họ, để có kế
hoạch tốt nhất (bao gồm việc đánh giá chi tiết nhu cầu hỗ trợ, xây dựng kế hoạch
nhằm đạt được mục tiêu và xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá kết quả) giúp người sử
dụng ma túy thực hiện các yêu cầu trong quy trình cai nghiện hoặc sử dụng các biện
pháp thay thế.
Thứ ba: Nhân viên quản lý trường hợp cần có những phương pháp bảo đảm cho
khách hàng được hưởng các dịch vụ hỗ trợ về chuyên môn (cai nghiện, cắt cơn, điều
trị thay thế, các liệu pháp tâm lý xã hội, v.v.) một cách toàn diện nhất.
Quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy nhằm:
-

-

-

-

Đảm bảo phương pháp tiếp cận theo hướng lấy khách hàng (là người sử
dụng ma túy) làm trung tâm, tất cả các hoạt động trợ giúp đều phải đặt lợi
ích của khách hàng lên trên đáp ứng tốt nhất nhu cầu cho khách hàng.
Cung cấp và kết nối cho khách hàng dịch vụ tổng thể giúp khách hàng có
thể giải quyết vấn đề ở nhiều phương diện từ nhu cầu cơ bản sống còn đến
nhu cầu tình cảm tâm lý, tinh thần và xã hội.
Đảm bảo sự an toàn tối đa cho khách hàng. Quy trình QLTH với người sử
dụng ma túy áp dụng cách thức quản lý chặt chẽ từ khi tiếp nhận đánh giá
sơ bộ mức độ tổn thương nhằm đánh giá sự cần thiết phải có sự can thiệp
khẩn cấp đến đánh giá toàn bộ, lập kế hoạch, thực hiện, lượng giá và kết
thúc. Vì vậy, khách hàng luôn được đảm bảo an toàn.
Giúp đỡ khách hàng có thể tiếp cận đến các dịch vụ chuyên sâu khác thông
qua việc kết nối và chuyển gửi tới các dịch vụ phù hợp cho khách hàng.


5.Đánh giá các yếu tố tác động tới hoạt động quản lý trường hợp trong việc hỗ
trợ người sử dụng ma túy.
5.1 Cơ chế chính sách.
5.2 Cơ sở cung cấp dịch vụ ( năng lực các bộ, cơ sở vất chất, mạng lưới….).


Các chế độ về sinh hoạt, chế độ về quản lý, ít quân tâm đến nhu cầu cá nhân, cán
bộ ngại trách nhiệm hoặc thiếu gần gũi với người cai nghiện.
Việc tổ chức dạy nghề cho người nghiện ma túy còn nhiều hạn chế do thiếu vốn về
cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề lạc hậu, thô sơ; cán bộ dạy nghề thiếu kiến thức
về dạy nghề, không có kỹ năng sư phạm; phần lớn cán bộ Trung tâm chưa được đào
tạo về chuyên môn cai nghiện.
5.3 Các yếu tố tại cộng đồng.
Cơ sở vật chất của UBND cấp xã còn thiếu, cán bộ chủ yếu là kiêm nhiệm, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, trách nhiệm lớn, rủi ro cao, phụ cấp thấp nên
rất khó thực hiện.SS
Một bộ phận cán bộ và nhân dân còn có nhận thức không đúng về công tác cai
nghiện ma túy với việc điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc
Methadone; chưa hiểu đầy đủ và thông nhất nhận thức về bản chất của nghiện ma túy.
Công tác phối hợp giữa các ngành liên quan còn hạn chế đặc biệt là phối hợp trong
công tác xác định người nghiện, lập hồ sơ đưa đi cai nghiện, quản lý sau cai, chưa quy
định cụ thể cơ quan nào có trách nhiệm xác định người nghiện.
Công tác quản lý sau cai tại gia đình, cộng đồng chưa được chính quyền, đoàn thể
ở xã phường quản lý, giám sát lỏng lẻo, tư vấn hỗ trợ tạo việc làm chưa được quan
tâm, môi trường buôn bán, tổ chức sử dụng ma túy chưa được ngăn chặn nên đối
tượng dễ dàng sự dụng lại ma túy, tình trạng này tồn tại khá nhiều ở địa phương.
Công tác tuyên truyền, giáo dục về tệ nạn ma tuý tới quần chúng nhân dâncủa các
cấp ngành còn thiên về hình thức chạy theo chiến dịch và các đợt phát động phong
trào, chưa chủ động thực hiện tốt nhiệm vụ này do đó hiệu quả chưa cao.

5.4 Các yếu tố từ người sử dụng ma túy/ gia đình.
6. Theo bạn trong thời gian tới hoạt động quản lý trường hợp có phát triển
không. Đưa ra dẫn chứng cho nhận định của bạn.
Ma túy được coi là hiểm họa đối với loài người và đã thực sự trở thành vấn đề nóng
bỏng, vượt qua biên giới của mỗi quốc gia. Ma túy làm ảnh hưởng rất lớn đến nhiều
mặt của đời sống xã hội: Nó trực tiếp phá vỡ hạnh phúc gia đình của những người
mắc nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, trí tuệ và nhân cách của người
nghiện ma tuý, là mối hiểm hoạ đối với tương lai, nòi giống dân tộc, để lại hậu quả
nghiêm trọng cho thế hệ mai sau đồng thời nó còn tác động xấu đến an ninh trật tự, sự


ổn định và sự phát triển của xã hội. Phòng, chống tệ nạn xã hội nói chung và tệ nạn
nghiện ma tuý nói riêng hiện nay đã và đang trở thành các chương trình toàn cầu.
Chính vì thế mà trong thời gian tới ,hoạt động QLTH sẽ phát triển và lâu dài, nó còn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố và có những hạn chế,
Mô hình đang thực hiện và mang lại hiệu quả và phát triển .
.Tại Hải Phòng Nếu Thành phố Hồ Chí Minh là nơi đi đầu của Việt Nam trong việc áp
dụng mô hình Quản lý trường hợp thực hiện công tác tư vấn tiếp cận, giúp đỡ người
sau cai tái hòa nhập cộng đồng tại địa phương thì Hải Phòng là tiêu điểm tiếp theo
trên các tỉnh miền bắc với mô hình Quản lý trường hợp cho những người sử dụng ma
túy nói chung, lồng ghép vào hệ thống nhân sự của nhà nước hiện tại. Người sử dụng
ma túy nói chung có nguy cơ nhiễm HIV rất cao, họ phải đối mặt với các vấn đề liên
quan đến kỳ thị và phân biệt đối xử cũng như hạn chế về tiếp cận 40 các dịch vụ xã
hội và chăm sóc sức khỏe. Mặc dù nhiều can thiệp đã được triển khai nhằm giải quyết
tác hại liên quan đến sử dụng ma túy; Luật Phòng, Chống HIV/ AIDS của Việt Nam
cũng đã đưa ra một khung pháp lý cho các chương trình giảm hại; nhưng vẫn còn
những thiếu khuyết về cung cấp dịch vụ cho người sử dụng ma túy tại Hải Phòng. Các
dịch vụ nói chung được phân bố tản mát và không một dịch vụ nào đáp ứng được toàn
diện tất cả các nhu cầu của người sử dụng ma túy. Tất cả những thách thức này khiến
người sử dụng ma túy dễ bị tổn thương với các tác hại không mong muốn cũng như

hạn chế họ tiếp cận với các dịch vụ điều trị nghiện ma túy dựa trên bằng chứng và
mang tính tự nguyện. Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Chi Cục) thuộc Sở Lao
động - Thương Binh và Xã hội Hải Phòng đóng vai trò quan trọng trong việc phòng
chống HIV và ma túy tại Hải Phòng. Chi Cục có nhiệm vụ tham mưu giúp Sở Lao
động- Thương Binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý Nhà nước theo quy định
của pháp luật. Bên cạnh đó, Chi Cục còn tổ chức và phối hợp với các cấp, các ngành
liên quan thực hiện các kế hoạch, chương trình dự án, hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra
đánh giá các đơn vị thực hiện công tác quản lý, giáo dục, chữa trị cho người nghiện
ma túy và các địa phương ở tuyến quận/huyện, xã/phường. Chi Cục triển khai các
chương trình, kế hoạch hàng năm và dài hạn về phòng chống mại dâm, cai nghiện ma
túy và các giải pháp cho các vấn đề xã hội sau khi hoàn thành điều trị nghiện ma túy.
Chi Cục cũng chịu trách nhiệm hướng dẫn và giám sát việc thực hiện các hoạt động
liên quan tới phòng chống ma túy, điều trị nghiện ma túy và các dịch vụ điều trị cho
người mại dâm và người sử dụng ma túy cũng như cho người sau cai hòa nhập với
cộng đồng tại Hải Phòng. Chi Cục cũng đào tạo và xây dựng năng lực cho các nhân
viên làm việc tại trung tâm và cộng đồng dựa trên tình hình thực tế và thực thi chính
sách. Trong bối cảnh đó và trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của Chi cục, bắt đầu từ


tháng 2 năm 2011, mô hình Quản lý trường hợp tại Hải Phòng đã được thiết lập. Mô
hình được điều hành bởi Ban Quản lý dự án, giám sát bởi hai giám sát viên của Chi
cục với sự hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp từ Tổ chức FHI 360 tại Việt Nam. Trong giai đoạn
từ năm 2011 – 2014, mô hình được triển khai tại bốn quận/huyện thí điểm bao gồm
Hải An, Lê Chân, Ngô Quyền và Thủy Nguyên. Phòng Lao động Thương binh Xã hội
cấp quận/huyện chịu trách nhiệm giám sát hỗ trợ trực tiếp cho 50 cán bộ Quản lý
trường hợp tại các phường/xã. Điểm khác biệt của mô hình mới này là việc lồng ghép
nhân sự chương trình Quản lý trường hợp vào hệ thống nhân sự nhà nước chính thức.
Mỗi phường/xã đều có ít nhất một cán bộ và/hoặc cán sự trong biên chế nhà nước
chịu trách nhiệm về phòng chống mại dâm và ma túy. Các cán bộ, nhân viên này được
tập huấn toàn diện về thái độ với người sử dụng ma túy, kiến thức liên quan đến HIV,

ma túy, tình hình sử dụng ma túy cũng như những can thiệp hiện có cho người sử
dụng ma túy trên địa bàn Thành phố Hải Phòng. Đồng thời, họ cũng được tập huấn bổ
sung hàng năm hoặc tập huấn nâng cao về các kỹ năng làm việc với người sử dụng
ma túy, bao gồm: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xây dựng và duy trì mối quan hệ với thân
chủ, kỹ năng đánh giá và chuyển gửi dịch vụ, v.v. Sau các hoạt động nâng cao năng
lực, 50 cán bộ phường/xã này thực sự hình thành mạng lưới cán bộ Quản lý trường
hợp tại Thành phố Hải Phòng nhằm hỗ trợ trực Những vấn đề chung về quản lý
trường hợp với người sử dụng ma túy 41 tiếp cho người sử dụng ma túy trong cộng
đồng, chuyển gửi họ tới những dịch vụ y tế và xã hội sẵn có theo nhu cầu riêng của
từng cá nhân. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 2011 đến tháng 12 năm 2012,
50 cán bộ Quản lý trường hợp đã hỗ trợ và chuyển gửi dịch vụ cho hơn 1.200 thân
chủ là người sử dụng ma túy.
Mô hình quản lý trường hợp đã cho thấy những bằng chứng về tính thiết thực, sự phát
huy tối đa nguồn nhân lực và vật lực của nhà nước, điều phối và sử dụng hiệu quả các
dịch vụ hỗ trợ sẵn có, v.v. để tư vấn hỗ trợ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng và
người sử dụng ma túy tiếp cận và sử dụng các dịch vụ có chất lượng và đáng tin cậy
giúp tăng cường sự tự tin hòa nhập cộng đồng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Định
hướng trong thời gian tới mô hình này sẽ được mở rộng thực hiện tại nhiều tỉnh thành
khác để thúc đẩy hơn nữa hiệu quả các chương trình điều trị nghiện, sử dụng hợp
phần “cầu nối” then chốt chính là đội ngũ cán bộ quản lý trường hợp. Người làm công
tác quản lý trường hợp cũng như người giám sát sẽ được tập huấn chuyên môn để
thực hiện công việc một cách hiệu quả nhất. Giúp cho mọi người có cuộc sống tốt đẹp
hơn
III.Những giải pháp và đề xuất triển khai hoạt động quản lý trường hợp trong việc
hỗ trợ người sử dụng ma túy trong thời gian tới.


Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phòng chống ma tuý.
Công tác tuyên truyền phòng, chống ma túy phải được các cấp ngành tiến hành một cách
thường xuyên, liên tục, phải đa dạng, phong phú, thường xuyên đổi mới cả về nội dung

và hình thức cho phù hợp với đời sống văn hóa, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, nhất
là trong giới trẻ và phải được lồng ghép với các nội dung kinh tế - xã hội khác ở địa
phương, đơn vị.
Đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục với nhiều nội dung phong phú, hình thức phù
hợp. Đẩy mạnh tuyên truyền bề rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng, tăng
cường tuyên truyền bằng hình ảnh trên đài truyền hình, sử dụng có hiệu qủa loa, đài
truyền thanh, bảng tin, trạm tin xã, phường, thị trấn... Đẩy mạnh tuyên truyền chiều sâu
và tuyên truyền trực tiếp thông qua các hoạt động của các Ban ngành, đoàn thể các cấp,
các tổ chức xã hội trong việc tổ chức như tọa đàm, hội thảo, tập huấn, nói chuyện chuyên
đề, sinh hoạt Câu lạc bộ...
Tập trung tuyên truyền tại địa bàn dân cư, trong các trường học, cơ quan, danh nghiệp,
trong các Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội, Trung tâm quản lý sau cai.....Chú trọng
vào những người có nguy cơ cao, người nghiện ma tuý ở cộng đồng, học sinh, sinh viên
trong các trường học, cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp. Phối hợp với các đoàn
thể vận động người nghiện tự nguyện đi cai nghiện, giúp đỡ quản lý người sau cai nghiện
ma tuý, giảm tỷ lệ tái nghiện.
Nâng cao chất lượng hiệu quả công tác cai nghiện phục hồi, giáo dục tại Trung tâm
Xây dựng tài liệu hướng dẫn công tác cai nghiện tại Trung tâm và cơ sở cai nghiện tự
nguyện; hoàn thiện các chương trình chữa trị, giáo dục cho học viên tại các Trung tâm
theo hướng dành không dưới 70% thời gian cho các hoạt động tư vấn học văn hóa, học
nghề.
Rà soát, quy hoạch Trung tâm Giáo dục Lao động xã hội theo hướng đảm bảo thực hiện
quy trình cai nghiện, có khu vực riêng cho cai nghiện tự nguyện; cân đối số lượng Trung
tâm cai nghiện và Trung tâm quản lý sau cai nhằm tận dụng hết công suất các của các
Trung tâm.
Thí điểm mô hình Trung tâm mở dựa trên điều kiện sẵn có về cơ sở vật chất, cán bộ
với các hình thức nội trú, bán trú; đối tượng tự nguyện tham gia theo nhu cầu, toàn bộ
hay một phần của quy trình cai nghiện.
Đẩy mạnh công tác cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng
Vận động người nghiện cai nghiện tự nguyện tại gia đình, cộng đồng, cai nghiện

bắt buộc tại cộng đồng. Tổ chức tốt công tác cai cắt cơn, giáo dục, tư vấn, dạy nghề,
hỗ trợ tạo việc làm và giúp đỡ người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng.
Tiếp tục triển khai thực hiện thí điểm Đề án về điều trị nghiện các chất dạng thuốc
phiện bằng Methadone cho người nghiện ma tuý. Tổ chức tổng kết, đánh giá hiệu quả


của Đề án và thực hiện nhân rộng ra các địa phương khác.
Tăng cường thực hiện các biện pháp quản 1ý sau cai nghiện ma túy và công tác
tái hòa nhập cộng đồng
Phối hợp giữa trung tâm quản lý sau cai với cơ sở dạy nghề, doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh để tạo điều kiện cho người sau cai nghiện ma tuý thuận lợi trong học nghề
và lao động sản xuất, giải quyết việc làm sau cai.
Tăng cường hỗ trợ công tác dạy nghề cho người sau cai nghiện tại cơ sở quản lý
sau cai và tại nơi cư trú. Tổ chức tạo việc làm cho người sau cai nghiện dưới nhiều
hình thức như giúp người sau cai nghiện tham gia lao động sản xuất, tạo thu nhập ổn
định cuộc sống tại Trung tâm quản lý sau cai nghiện, gia đình và các doanh nghiệp,
tạo thu nhập ổn định cuộc sống.
Duy trì và phát triển các mô hình quản lý sau cai, Câu lạc bộ. Hàng năm, tổ chức
đánh giá kết quả và xếp loại của từng Câu lạc bộ, nâng cao chất lượng hoạt động các
Câu lạc bộ hiện có. Tổng kết, nhân rộng các mô hình quản lý sau cai nghiện có hiệu
quả tại cộng đồng.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ trực tiếp làm công tác cai
nghiện, quản lý sau cai
Xây dựng kế hoạch tiếp tục mở các lớp đào tạo cán bộ làm công tác quản lý, điều trị
cai nghiện phục hồi và quản lý sau cai tại Trung tâm và cộng đồng.
Tổ chức các khóa đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực quản lý và chuyên môn nghiệp
vụ cho cho cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên trách làm công tác phòng chống tệ nạn xã
hội, Đội hoạt động xã hội tình nguyện xã, phường, thị trấn và cán bộ chuyên môn
nghiệp vụ tại các Trung tâm và tại cộng đồng.



IV.KẾT LUẬN
Quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy hiện nay đang là một trong số những hoạt
động rất được chú trọng trong quá trình hỗ trợ điều trị cho những người sử dụng ma túy
tại Việt Nam
Qua những Mô hình quản lý trường hợp đã cho thấy những bằng chứng về tính thiết thực,
sự phát huy tối đa nguồn nhân lực và vật lực của nhà nước, điều phối và sử dụng hiệu quả
các dịch vụ hỗ trợ sẵn có, v.v. để tư vấn hỗ trợ người sau cai tái hòa nhập cộng đồng và
người sử dụng ma túy tiếp cận và sử dụng các dịch vụ có chất lượng và đáng tin cậy giúp
tăng cường sự tự tin hòa nhập cộng đồng và cải thiện chất lượng cuộc sống. Định hướng
trong thời gian tới mô hình này sẽ được mở rộng thực hiện tại nhiều tỉnh thành khác để
thúc đẩy hơn nữa hiệu quả các chương trình điều trị nghiện, sử dụng hợp phần “cầu nối”
then chốt chính là đội ngũ cán bộ quản lý trường hợp. Người làm công tác quản lý trường
hợp cũng như người giám sát sẽ được tập huấn chuyên môn để thực hiện công việc một
cách hiệu quả nhất
Công tác xã hội là nghề nghiệp tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ
của con người và thúc đẩy sự thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng
quyền lực nhằm nâng cao chất lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết
về hành vi con người và các hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với
môi trường sống. Mục đích của Công tác xã hội là hướng tới giúp đỡ cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng phục hồi hay nâng cao năng lực để tăng cường chức năng xã hội, tạo
ra sự thay đổi về vai trò của họ giúp họ hòa nhập xã hội một cách tốt nhất. Với 4 chức
năng cơ bản: phòng ngừa; chữa trị; phục hồi và phát triển, Công tác xã hội đã khẳng định
là một nghề ổn định và chuyên nghiệp trong xã hội. Cũng như nhiều ngành nghề khác khi
làm việc trực tiếp với khách hàng là con người (lại là những người sử dụng ma túy), công
tác xã hội sử dụng rất nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau nhằm đảm bảo tốt nhất cho
quá trình hỗ trợ giúp đỡ các khách hàng. Trong rất nhiều phương pháp, công tác xã hội sử
dụng 3 phương pháp cơ bản: Phương pháp CTXH cá nhân; Phương pháp CTXH nhóm và
Phát triển cộng đồng.



Tài liệu tham khảo:
Sách quản lý trường hợp với người sử dụng ma túy
Đề án đổi mới công tác cai nghiện đến năm 2020
/> /> />


×