Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Grays anatomy for students bản tiếng việt chương 8 giải phẫu đầu mặt cổ part 1/2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.12 MB, 88 trang )

Chương 8
Đầu và cổ
Khái niệm chung
Đầu
Các ngăn chính
Đầu được tạo thành từ các ngăn do xương và mô mềm hình thành bao gồm:
-

Hộp sọ
Hai tai
Hai ổ mắt
Hai khoang mũi
Một khoang miệng (Hình 8.1).

Hình 8.1 Các ngăn chính của đầu và cổ.
Khoang sọ là ngăn lớn nhất chứa não và các màng não.
Phần lớn bộ máy thính giác mỗi bên nằm giữa một trong các xương hình thành nên nền hộp
sọ. Phần bên ngoài của tai kéo dài ra phía ngoài từ các vùng đó.


Hai ổ mắt chứa mắt. Chúng có hình chóp nằm ngay dưới mặt trước của hộp sọ và đỉnh của mỗi
hình chóp hướng về phía sau giữa. Thành của ổ mắt là xương, trong khi nền hình chóp mở ra
bên ngoài và được che lấp bằng mi mắt.
Khoang mũi thuộc đường dẫn khí trên và nằm giữa ổ mắt. Chúng có các thành, sàn và trần
được tạo thành chủ yếu bởi xương và sụn. Phía trước khoang mũi là lỗ mũi, và phía sau mở
vào lỗ mũi sau.
Tiếp nối với xoang mũi là các phần mở rộng chứa đầy khí (xoang cạnh mũi) lồi sang phía bên,
trên và sau vào các xương xung quanh. Xoang hàm là xoang lớn nhất và nằm dưới ổ mắt.
Khoang miệng mở ra phía trước là khe miệng (miệng), và mở ra phía sau là khe hầu họng.
Không giống như mũi và lỗ mũi sau mở liên tục, cả miệng và khe hầu họng có thể đóng mở
nhờ các mô mềm ở xung quanh.


Các vùng giải phẫu học khác
Ngoài các thành phần chính của đầu, hai vùng giải phẫu khác (hố dưới thái dương và hố chân
bướm khẩu cái) ở mỗi bên đầu là các vùng nối từ ngăn này của đầu sang ngăn khác (Hình 8.3).
Mặt và mạc cũng là vùng giải phẫu của đầu và liên quan với bề mặt bên ngoài.
Hố dưới thái dương là vùng giữa ngành xương hàm dưới và một vùng xương phẳng (mảnh
chân ngoài chân bướm) ngay phía sau xương hàm trên. Hố này được bao quanh bởi xương và
các mô mềm, là một đường dẫn cho dây thần kinh sọ lớn đi qua là thần kinh hàm dưới (nhánh
hàm dưới của dây tam thoa[V3]) đi qua giữa khoang não và khoang miệng.
Hố chân bưới khẩu cái ở mỗi bên nằm ngay phía sau xương hàm trên. Đây là một hố nhỏ nối
giữa khoang não, hố dưới thái dương, ổ mắt, khoang mũi và khoang miệng. Cấu trúc chính đi
qua hố chân bướm - khẩu cái là thần kinh hàm trên (nhánh hàm trên của dây tam thoa [V2]).


Hình 8.2 Các vùng chuyển tiếp từ ngăn này sang ngăn khác của đầu.
Vùng mặt là mặt trước của đầu và chứa các nhóm cơ riêng biệt di chuyển da liên quan đến các
xương nằm dưới và điều khiển đóng mở khe miệng ngoài và khoang miệng (hình 8.3).
Mạc phủ phần trên, sau, và bên của đầu.


Hình 8.3 Các cơ vùng mặt.
Cổ
Cổ kéo dài từ đầu phía trên xuống vai và ngực phía dưới (hình 8.4). Giới hạn trên của cổ dọc
theo bờ dưới xương hàm dưới và các xương đặc biệt ở mặt sau xương sọ. Phía sau cổ cao
hơn phía trước để nối các tạng của cổ với các lỗ mở phía sau khoang mũi và khoang miệng.


Hình 8.4 Giới hạn của cổ.
Giới hạn dưới của cổ kéo dài từ đỉnh xương ức, dọc theo xương đòn và lên trên mỏm cùng vai.
Phía sau của giới hạn dưới khó xác định chính xác nhưng có thể được cho là gần với đường
giữa mỏm cùng vai và mỏm gai đốt sống cổ CVII phần lồi lên và sờ thấy được dễ dàng. Bờ

dưới cổ bao quanh nền cổ.
Các ngăn
Cổ có 4 khoang chính (hình 8.5), được bao quanh bởi các vòng cân cơ bên ngoài:
-

Khoang xương sống chứa các đốt sống cổ và các cơ kháng trọng lực liên quan.
khoang tạng chứa các tuyến (giáp, cận giáp và tuyến ức), và các phần của đường hô
hấp và tiêu hóa đi giữa đầu và cổ.
Hai khoang mạch, mỗi ngăn một bên chứa các mạch máu lớn và dây thần kinh phế vị.

Hình 8.5 Các khoang chính của cổ.
Thanh quản và hầu
Cổ chứa hai cấu trúc đặc biệt liên quan tới đường tiêu hóa và hô hấp là thanh quản và hầu.
Thanh quản (hình 8.6) là phần trên của đường dẫn khí dưới và phía dưới được gắn với đỉnh
của khí quản và phía trên với xương móng qua một màng mềm dẻo, xương móng lại gắn vào
nền khoang miệng. Thanh quản có một số mảnh sụn tạo thành khung nâng đỡ có dạng ống


rỗng ở trung tâm. Kích thước của ống có thể được điều chỉnh nhờ các cấu trúc mô mềm liên
quan với thành khí quản. Phần quan trọng nhất là hai dây thanh âm nằm phía bên, chúng nhô
về phía nhau từ các mặt liền kề của khoang thanh quản. Lỗ mở trên của thanh quản (lối vào
thanh quản) nghiêng về phía sau và liên tiếp với hầu.

Hình 8.6 Các cấu trúc riêng của cổ. A. Nhìn tổng quan. B. Cấu trúc giải phẫu.
Hầu (hình 8.6) là một buồng có dạng nửa khối trụ với các thành tạo bởi các cơ và mạc. Phía
trên, các thành gắn với nền của xương sọ và phía dưới gắn với thành của thực quản. Ở mỗi
bên, các thành gắn với mép bên của khoang mũi, khoang miệng và thanh quản. Hai khoang
mũi, khoang miệng và thanh quản do đó mở vào mặt trên của hầu và thực quản mở ở phía
dưới.
Phần hầu bên trên khoang mũi là mũi hầu. Phần sau khoang miệng và thanh quản tương ứng

là miệng hầu và thanh hầu.
CHỨC NĂNG
Bảo vệ
Đầu là nơi chứa và bảo vệ não và tất cả các hệ thống nhận cảm liên quan với những cảm giác
đặc biệt – khoang mũi liên quan đến khướu giác, ổ mắt liên quan đến thị giác, tai liên quan đến
thính giác và cân bằng và khoang miệng liên quan đến vị giác.
Chứa phần trên của đường dẫn khí và tiêu hóa


Đầu chứa phần trên của đường dẫn khí và tiêu hóa – khoang mũi và miệng – các cấu trúc đặc
biệt cho không khí và thức ăn đi vào mỗi hệ thống.
Giao tiếp
Đầu và cổ liên quan đến giao tiếp. Âm thanh do thanh quản tạo ra được sửa đổi trong hầu và
khoang miệng để tạo ra lời nói. Ngoài ra, các cơ biểu lộ nét mặt làm thay đổi đường nét trên
mặt truyền tải tín hiệu phi ngôn ngữ.
Giữ đầu
Cổ chống đỡ và giữ đầu. Quan trọng là nó cho phép hệ thống cảm giác trong đầu mỗi người
xác định vị trí liên quan với các yếu tố môi trường mà không cần di chuyển cả cơ thể.
Nối phần trên và dưới của đường hô hấp và tiêu hóa trên và dưới
Cổ chứa các cấu trúc đặc biệt (thanh quản và hầu) nối phần trên của đường tiêu hóa và hô hấp
(khoang mũi và miệng) ở đầu với thực quản và khí quản bắt đầu từ phần cổ tương đối thấp và
đi xuống ngực.
CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH
Hộp sọ
Rất nhiều xương đầu tập hợp thành hộp sọ (hình 8.7A). Hầu hết các xương đó liên kết với nhau
bởi các khớp khâu – khớp sợi bất động (Hình 8.7B).
Ở trẻ sơ sinh và bào thai, có các khe lớn dạng màng chưa hóa xương (các thóp) giữa các
xương đầu, đặc biệt giữa các xương phẳng lớn che phủ đỉnh khoang sọ não (Hình 8.7C), cho
phép:
-


Đầu thay đổi hình dạng khi sinh
Phát triển ở trẻ sơ sinh.

Hầu hết các thóp đóng kín sau một năm đầu đời. Sự hóa xương hoàn toàn của các dây chằng
là mô liên liên kết mỏng ở các đường khớp khâu phân chia xương bắt đầu ở khoảng những
năm 20 tuổi và thường kết thúc sau 50 năm.
Chỉ có 3 cặp khớp động ở mỗi bên đầu. Khớp lớn nhất là khớp thái dương hàm dưới giữa hàm
dưới và xương thái dương. Có hai cặp khớp hoạt dịch nằm giữa 3 xương nhỏ trong tai: xương
búa, xương đe, và xương bàn đạp.


Hình 8.7 Xương đầu. A. Các xương.


Hình 8.7 (tiếp). Đầu. B. Các khớp khâu. C. Các thóp và đường khớp lamda.
Các đốt sống cổ
7 đốt sống cổ tạo thành khung xương của cổ.
Các đốt sống cổ (hình 8.8A) có đặc điểm:
-

Thân nhỏ
Mỏm gai chẻ đôi
Mỏm ngang chứa lỗ (lỗ mỏm ngang).

Các lỗ mỏm ngang tạo thành một đường đi dọc hai bên cột sống cổ cho các mạch máu (động
mạch và tĩnh mạch đốt sống) đi từ nền cổ vào khoang sọ não.


Hình 8.8 Các đốt sống cổ. A. Các chi tiết điển hình. B. Đốt đội – đốt sống cổ CI (Nhìn trên).

C. Đốt trục – đốt CII (Nhìn dưới). D. Đốt đội và đốt trục (nhìn trước bên). E. Khớp đội –
chẩm (nhìn sau).
Các mỏm ngang điển hình của một đốt sống cổ cũng có các củ trước và sau cho các cơ
bám vào. Củ trước được phát sinh từ các thành phần phôi thai giống như xương sườn ở
ngực. Đôi khi các xương sườn cổ phát triển từ các thành phần này, đặc biệt ở các đốt sống
cổ thấp hơn.
Hai đốt sống cổ phía trên (CI và CII) được thay đổi cấu trúc cho phù hợp với cử động của
đầu (Hình 8.8B-E, xem chapter 2).


Xương móng
Xương móng là một xương nhỏ hình chữ U (hình 8.9A) hướng về mặt phẳng ngang ngay
trên thanh quản tại đó có thể sờ nắn được và di chuyển từ bên này sang bên kia.

Hình 8.9 Xương móng . A. Xương. B. Các phần liên quan.
-

Thân xương móng ở trước tạo thành nền của chữ U.
Hai nhánh của chữ U (Sừng lớn) nhô ra sau từ đầu bên của thân.

Xương móng không khớp trực tiếp với xương nào của đầu và cổ.
Xương móng là một neo xương vững chắc và có tính di động cao cho một số cơ và cấu trúc
mô mềm ở đầu và cổ. Đáng chú ý là nó nằm ở mặt phân cách giữa ba thành phần:
-

Phía trên là sàn của khoang miệng
Phía dưới là thanh quản
Phía sau là hầu (Hình 8.9B).

Khẩu cái mềm

Khẩu cái mềm là một cấu trúc mô mềm dạng vành nối với phần sau khẩu cái cứng (hình 8.10A)
với bờ phía dưới tự do. Nó có thể được nâng lên và kéo xuống bới các cơ (hình 8.10B).


Khẩu cái mềm và các cấu trúc liên quan có thể được nhìn thấy rõ khi miệng mở.

Hình 8.10 Khẩu cái mềm. A. Vị trí. B. Các cơ.
Các cơ
Các cơ xương của đầu và cổ được phân chia thành nhóm trên cơ sở chức năng, chi phối thần
kinh và nguồn gốc phôi thai.
Trên đầu
Các nhóm cơ ở đầu bao gồm:
-

Các cơ ngoài mắt (cử động nhãn cầu và mở mi mắt trên),
Các cơ của tai giữa (điều chỉnh cử động của các xương tai giữa),
Các cơ biểu hiện nét mặt (cử động mặt)
Các cơ nhai (di động hàm – khớp thái dương – hàm dưới),
Các cơ của khẩu cái mềm (nâng và kéo khẩu cái), và
Các cơ của lưỡi (di chuyển và thay đổi đường nét của lưỡi)

Cổ
Các nhóm cơ chính ở cổ bao gồm:
-

Các cơ của hầu (co khít và nâng hầu)
Các cơ của thanh quản (điều chỉnh kích thước của đường dẫn khí).
Các cơ giữ (giữ vị trí thanh quản và xương móng ở cổ).
Các cơ vòng bên ngoài cổ (di chuyển đầu và chi trên)



-

Các cơ tư thế trong ngăn cơ của cổ (giữ vị trí đầu và cổ).

MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC VÙNG KHÁC
NGỰC
Lỗ ngực trên (lỗ vào ngực) mở trực tiếp vào nền cổ (hình 8.11). Các cấu trúc giữa đầu và ngực
đi lên và xuống qua lỗ ngực trên và khoang tạng của cổ. Ở nền cổ, khí quản ở ngay trước thực
quản, thực quản ở trước cột sống. Các tĩnh mạch, động mạch và dây thần kinh ở trước và bên
khí quản.
Chi trên
Có nách (đường vào chi trên) ở mỗi bên lỗ ngực trên của nền cổ (hình 8.11):
-

Các cấu trúc như mạch máu đi trên xương sườn I khi đi giữa lỗ vào nách và ngực.
Các bộ phận cấu thành cổ của đám rối cánh tay đi trực tiếp từ cổ qua nách vào chi trên

Hình 8.11 Lỗ trên ngực và lỗ vào nách.
CÁC ĐẶC ĐIỂM QUAN TRỌNG
Các mức đốt sống CIII/IV và CV/VI
Ở cổ có hai mức đốt sống quan trọng (hình 8.12) là
-

Giữa CIII và CIV, ở khoảng bờ trên sụn giáp của thanh quản (có thể sờ thấy) và các
động mạch chính ở mỗi bên cổ (các động mạch cảnh chung) phân nhánh thành các
động mạch cảnh trong và ngoài.
Giữa CV và CVI, đánh dấu giới hạn dưới của thanh quản và hầu, và giới hạn trên của
khí quản và thực quản – vết lõm giữa sụn nhẫn của thanh quản và vòng sụn đầu tiên
của khí quản có thể sờ thấy.


Động mạch cảnh trong không có nhánh ở cổ mà đi thẳng lên cấp máu cho não. Nó cũng
cấp máu cho mắt và ổ mắt. Các vùng khác của đầu và cổ được cấp máu bởi các nhánh của
động mạch cảnh ngoài.


Hình 8.12 Các mức đốt sống quan trọng – CIII/CIV và CV/CVI.
Đường dẫn khí ở phổi
Thanh quản (H. 8.13) và khí quản ở phía trước thực quản có thể tiếp cận trực tiếp khi các
phần trên của hệ thống thông khí bị tắc nghẽn. Mở sụn nhẫn giáp dễ dàng nhất là tiếp cận
qua dây chằng nhẫn giáp (màng nhẫn giáp) giữa sụn nhẫn và sụn giáp của thanh quản.
Dây chằng có thể sờ thấy được ở đường giữa và thường có những mạch máu nhỏ, mô liên
kết và da (mặc dù đôi khi, một thùy nhỏ của tuyến giáp – thùy tháp) che phủ bên ngoài. Ở
mức thấp hơn, đường dẫn khí có thể được tiếp cận qua thành trước của khí quản bằng mở
khí quản. Con đường tiếp cận này khá phức tạp do có các tĩnh mạch lớn và phần tuyến
giáp nằm bên trên vùng này.


Hình 8.13 Thanh quản và các cấu trúc liên quan trong cổ.
Các dây thần kinh sọ
12 đôi dây thần kinh sọ và các nhánh chính của chúng ra khỏi khoang sọ qua các lỗ hoặc
khe.
Tất cả các dây thần kinh sọ chi phối các cấu trúc ở đầu hoặc cổ. Ngoài ra, dây phế vị [X]
kéo dài qua cổ và đi vào vùng ngực và bụng chi phối các tạng.
Các sợi phó giao cảm ở đầu ra khỏi não từ 4 dây thần kinh sọ - dây vận động nhãn cầu [III],
dây thần kinh mặt [VII], dây thần kinh lưỡi hầu [IX], và dây thần kinh phế vị [X] (H. 8.14).
Các sợi phó giao cảm trong dây vận động nhãn cầu [III], dây thần kinh mặt [VII], dây thần
kinh lưỡi hầu [IX] rời khỏi các dây này hướng tới các mô đích ở đầu cùng với các nhánh
của dây tam thoa [V]
Dây phế vị [X] rời đầu và cổ đưa các sợi phó giao cảm tới các tạng ở bụng và ngực.



Hình 8.14. Sự chi phối các dây thần kinh sọ và phó giao cảm.
Các dây thần kinh cổ
Có 8 dây thần kinh cổ (C1-C8):
-

C1 đến C7 ra khỏi ống sống ở phía trên đốt sống tương ứng.
C8 đi ra giữa CVII và TI (Hình 8.15A).

Các rễ trước của C1 đến C4 tạo thành đám rối cổ. Các nhánh chính của đám rối này chi
phối các cơ treo, cơ hoành (thần kinh hoành), da ở mặt trước và bên cổ, da phía trước
thành ngực và phần dưới đầu (Hình 8.15 B).
Các nhánh rễ của C5 đến C8 cùng với phần lớn rễ trước của T1 tạo thành đám rối cánh tay
chi phối chi trên.
Phân chia chức năng đường tiêu hóa và hô hấp
Hầu là buồng chung cho đường tiêu hóa và hô hấp. Cho nên có thể thở bằng cả đường
miệng miệng hay mũi và các vật thể từ khoang miệng có khả năng đi vào cả thực quản
hoặc khí quản. Chú ý:
-

Đường hô hấp dưới có thể được mở thông với khoang miệng nhờ ống khí quản.
Đường tiêu hóa (thực quản) có thể được mở thông qua khoang mũi bởi ống nuôi.


Hình 8.15 Các dây thần kinh cổ. A. Cấu trúc. B. Đốt da.
Bình thường khẩu cái mềm, nắp thanh quản và các cấu trúc mô mềm trong thanh quản hoạt
động như những van ngăn thức ăn và dịch đi vào đường hô hấp dưới (Hình 8.16A).
Trong suốt quá trình thở bình thường, đường dẫn khí thông thoáng và không khí đi tự do
qua khoang mũi (hoặc khoang miệng), hầu, thanh quản và khí quản (Hình 8.16A). Lòng

thực quản thường đóng do không giống như đường dẫn khí không có các cấu trúc xương
hỗ trợ giữ nó mở.


Trong khi khoang miệng chứa đầy dịch và thức ăn, khẩu cái mềm bị kéo xuống để đóng eo
khẩu hầu do đó cho phép thức ăn và dịch ở trong khoang miệng trong khi thở (Hình 8.16C).
Khi đang nuốt, khẩu cái mềm và các phần của thanh quản hoạt động như những chiếc van
đảm bảo thức ăn di chuyển chính xác từ ổ miệng vào thực quản (Hình 8.16D).
Khẩu cái mềm nâng lên mở khe khẩu hầu ra và cũng ngăn phần mũi của hầu với khoang
miệng. Nhờ đó ngăn thức ăn và dịch đi ngược lên tỵ hầu và khoang mũi.

Hình 8.16 Thanh quản, màng mềm, nắp thanh quản và eo khẩu hầu A. Cấu trúc tổng thể


Hình 8.16 tiếp. B. Thở bình thường. C. Thở khi có thức ăn hoặc dịch trong khoang miệng. D.
Nuốt. E. Ở trẻ sơ sinh.


Thượng thiệt của thanh quản đóng đường vào thanh quản và phần lớn khoang thanh quản bịt
kín bởi sự đối lập của các nếp thanh âm và khẩu cái mềm bao phủ ở trên chúng. Thêm vào đó,
thanh quản được kéo lên trên và ra trước tạo điều kiện thuận lợi cho thức ăn và dịch đi qua và
quanh thanh quản đóng kín vào thực quản.
Ở trẻ sơ sinh, thanh quản ở cao trên cổ và thượng thiệt ở trên khẩu cái mềm (Hình 8.16E). Do
đó, trẻ có thể bú và thở cùng một lúc. Dịch chảy quanh thanh quản mà không có bất kỳ nguy cơ
nào đi vào đường dẫn khí. Trong suốt 2 năm đầu đời, thanh quản di chuyển dần xuống vùng cổ
dưới tới vị trí như ở người trưởng thành.
Các tam giác cổ
Cơ thang và cơ ức đòn chũm chia mỗi bên cổ thành các tam giác cổ trước vào sau. (Hình
8.17).


Hình 8.17 Các tam giác cổ trước vào sau.
Các giới hạn của tam giác cổ trước là:
-

Đường giữa trước của cổ.
Nền xương hàm dưới
Bờ trước cơ ức đòn chũm.

Tam giác cổ sau được giới hạn bởi:
-

1/3 giữa xương đòn,
Bờ trước thang
Bờ sau cơ ức đòn chũm

Các cấu trúc chính đi giữa đầu và ngực có thể tiếp cận được qua tam giác cổ.


Tam giác cổ sau nằm phía trên lối vào nách và liên quan với các cấu trúc (thần kinh, mạch
máu) đi vào và ra khỏi chi trên.
Giải phẫu định khu
Xương sọ
Đầu có 22 xương, trừ các xương nhỏ của tai. Trừ xương hàm dưới, các xương của đầu gắn
với nhau bởi các khớp sợi là các khớp bất động để hình thành nên hộp sọ. Hộp sọ có thể chia
thành:
-

Vòm sọ che phủ khoang sọ não chứa não,
Nền chứa nền của khoang sọ
Phần thấp hơn phía trước là các xương mặt (sọ tạng)


Các xương tạo thành sọ não chủ yếu là cặp xương thái dương và xương đỉnh, và các xương
trán, xương bướm, và xương chẩm là các xương không thành cặp.
Các xương tạo thành phần lớn nền sọ là xương bướm, xương thái xương và xương chẩm.
Các xương tạo thành sọ tạng là các cặp xương mũi, xương khẩu cái, xương lệ, xương gò má,
xương hàm trên và xương xoăn mũi dưới và xương không theo cặp: xương lá mía.
Xương hàm dưới không thuộc hộp sọ hay xương mặt.
Nhìn trước
Đầu nhìn từ trước bao gồm: trán ở phía trên và phía dưới nó là ổ mắt, vùng mũi, phần mặt nằm
giữa ổ mắt và hàm trên, hàm trên và hàm dưới (Hình 8.18).


Hình 8.18 Xương sọ: nhìn trước
Xương trán
Xương trán tạo thành trán và cũng tạo thành phần bờ trên mỗi ổ mắt (hình 8.18).
Ngay phía trên của bờ ổ mắt mỗi bên nhô lên các cung mày. Giữa các cung này là một chỗ lõm
nhỏ (điểm trên gốc mũi).
Có thể thấy rõ ở phần giữa của các bờ trên ổ mắt là lỗ (hoặc khuyết) trên ổ mắt; bảng 8.1).
Ở giữa, xương trán nhô vào trong thành bờ giữa của ổ mắt.
Phía bên, mỏm gò má của xương trán nhô xuống dưới tạo thành bờ trên bên của ổ mắt. Mỏm
này khớp với mỏm trán của xương gò má.
Bảng 8.1 Các lỗ bên ngoài xương sọ.


Lỗ

Cấu trúc đi qua lỗ

Nhìn trước
Lỗ ổ mắt trên


Thần kinh và mạch máu trên ổ mắt

Lỗ dưới ổ mắt

Thần kinh và mạch máu dưới ổ mắt

Lỗ cằm

Thần kinh và mạch máu cằm

Nhìn bên
Lỗ gò má mặt

Thần kinh gò má mặt

Nhìn trên
Lỗ đỉnh

Các tĩnh mạch xuyên (nối hệ tĩnh mạch ngoài sọ với các xoang nội sọ)

Nhìn dưới
Lỗ răng cửa

Thần kinh mũi – khẩu cái; các mạch máu bướm – khẩu cái

Lỗ khẩu cái lớn

Thần kinh và mạch máu khẩu cái lớn đi qua


Lỗ khẩu cái bé

Thần kinh và mạch máu khẩu cái bé đi qua

Ống chân bướm

Thần kinh và mạch máu chân bướm

Lỗ bầu dục

Thần kinh hàm dưới [V3]; thần kinh đá bé

Lỗ gai

Động mạch màng não giữa

Lỗ rách

Chứa đầy sụn

Ống động mạch
cảnh

Động mạch cảnh trong và đám rối thần kinh

Lỗ lớn xương chẩm

Não liên tiếp với tủy sống, động mạch đốt sống và các đám rối thần
kinh; động mạch tủy sống trước; các động mạch tủy sống sau; các rễ
của thần kinh phụ [XI], các màng não


Ống lồi cầu chẩm

Các tĩnh mạch xuyên

Ống thần kinh hạ
thiệt

Thần kinh hạ thiệt [XII] và các mạch máu

Lỗ tĩnh mạch cảnh

Tĩnh mạch cảnh trong; xoang đá dưới; thần kinh thiệt hầu [IX]; thần kinh
lang thang [X]; thần kinh phụ [XI]

Lỗ châm chũm

Thần kinh mặt [VII]

Các xương gò má và mũi
Bờ dưới bên của ổ mắt cũng như phần bên của bờ dưới ổ mắt được tạo thành bởi xương gò
má.


Phía trên, ở vùng mũi các xương mũi khớp với nhau ở đường giữa và với xương trán ở phía
trên. Trung tâm của khớp sợi trán mũi được tạo thành do các xương mũi và xương trán khớp
với nhau là điểm gốc mũi.
Phía bên, mỗi xương mũi lại khớp với mỏm trán của xương hàm dưới.
Phía dưới, piriform aperture là lỗ mở lớn trong vùng mũi, phía trước mở vào khoang mũ. Nó
được giới hạn bởi các xương mũi ở trên và xương hàm trên ở phía bên và dưới.

Dễ dàng quan sát thấy qua piriform aperature các mào mũi cứng tạo bởi phần dưới của các
vách xương mũi và đầu dưới là các gai mũi trước và các cặp xoăn mũi dưới.
Xương hàm trên
Phần mặt nằm giữa ổ mắt và hàm răng trên và mỗi hàm trên được tạo thành bởi cặp xương
hàm trên.
Phía trên, mỗi xương hàm trên tham gia tạo thành bờ dưới và giữa của ổ mắt.
Phía bên, mỏm gò má của mỗi xương hàm dưới khớp với xương gò má và ở giữa, mỏm trán
của mỗi xương hàm trên khớp với xương trán.
Phía dưới, phần xương hàm trên mà phía bên mở vào khoang mũi là thân xương hàm trên.
Mặt trước xương hàm dưới ngay dưới bờ dưới ổ mắt là lỗ ổ mắt dưới (Bảng 8.1).
Ở dưới, các đầu xương hàm trên là các mỏm huyệt rẳng chứa răng và tạo thành hàm trên.
Xương hàm dưới
Hàm dưới là cấu trúc ở dưới cùng khi nhìn đầu từ trước. Nó bao gồm thân hàn dưới ở trước và
ngành hàm dưới ở sau. Chúng gặp nhau ở phía sau tại góc hàm dưới. Tất cả các phần đó của
hàm dưới có thể nhìn thấy, một số giới hạn, ở mặt trước.
Thân xương hàm dưới được chia thành hai phần rõ rệt:
-

Phần dưới là nên của hàm dưới
Phần trên là huyệt răng hàm dưới

Huyệt răng của hàm dưới chứa răng và được co lại khi răng nhổ đi. Nền của xương hàm dưới
có đường giữa lồi ra (lồi cằm) trên mặt trước tại đó hai phía của hàm dưới gặp nhau. Ngay phía
bên lồi cằm ở cả hai bên là các củ cằm.
Phía bên, có thể thấy một lỗ cằm (Bảng 8.1) nằm giữa bờ trên của huyệt răng hàm dưới và bờ
dưới của nền hàm dưới. Tiếp tục xa hơn lỗ này là một vết lằn (đường chéo) đi từ phía trước
ngành xương hàm dưới tới thân xương hàm dưới. Đường chéo là nơi bám cho các cơ kéo môi
dưới.
Nhìn bên
Đầu nhìn bên bao gồm thành bên của xương sọ, bao gồm các phần bên của xương sọ và

xương mặt, và một nửa hàm dưới (Hình 8.19):


Hình 8.19. Đầu nhìn bên
-

Các xương tạo thành phần bên xương sọ bao gồm xương trán, xương đỉnh, xương
chẩm, xương bướm và các xương thái dương.
Các xương tạo thành phần nhìn thấy được của xương mặt bao gồm xương mũi, xương
hàm trên và các xương gò má.
Xương hàm dưới tạo thành phần nhìn thấy được của hàm dưới.

Phần bên của sọ não.


×