Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tiêu Luận Thực Trạng Buôn Bán Phụ Nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.37 KB, 10 trang )

THỰC TRẠNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM Ở
VIỆT NAM

TÓM TẮT
Qua tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu thứ cấp (tài liệu có trước) về đề tài
buôn bán người ở Việt Nam trong thời gian qua, bài báo này của chúng tôi
muốn đóng góp một phần nhỏ của mình để mọi người hiểu hơn về thực trạng
của nạn buôn bán người đặc biệt đối tượng là phụ nữ và trẻ em, một số nguyên
nhân, hình thức thực hiện, ảnh hưởng của nạn buôn người gây ra. Qua bài viết
mong muốn mọi người trong cộng đồng xã hội hiểu hơn về vấn nạn này và cùng
nhau chung sức chống lại nạn buôn người.
Từ khóa: Buôn bán người, phụ nữ và trẻ em bị buôn bán, kẻ buôn người,
người mua, người môi giới
1. Giới thiệu

Xã hội ngày một phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của con người
ngày một nâng cao. Nhưng kéo theo đó là những vấn đề xã hội khác như ô
nhiễm môi trường, tội phạm ngày càng gia tăng…đặc biệt tình trạng tội phạm
ngày diễn ra phức tạp và tinh vi hơn. Trong đó phải kể đến tội phạm buôn bán
người. Những tên tội phạm này đối tượng mà chúng hướng đến chủ yếu là phụ
nữ và trẻ em, vì đây là những đối tượng yếu đuối và dễ mềm lòng để chúng có
thể thực hiện hành vi phạm tội dễ dàng
Theo cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm Liên Hiệp Quốc
(UNODC), Buôn bán người đứng thứ 3 trong nhóm các hành vi tội phạm mang
lợi sau buôn bán ma tuý và súng. Ước tính, trên thế giới hiện có khoảng 27 triệu
người là nạn nhân của buôn bán người, trong khi hàng năm 600.000 đến
800.000 người bị buôn bán qua biên giới, phần lớn là phụ nữ và trẻ em gái và
khoảng 1 triệu trẻ em bị bóc lột vì mục đích tình dục. (Báo cáo buôn bán phụ nữ
và trẻ em ở Việt Nam, 6/2011)
Tội phạm buôn bán người-là hành vi cướp đi một số quyền cơ bản của
con người, là một việc làm vô nhân đạo, đáng lên án trong xã hội. Buôn bán


người để lại hậu quả vô cùng nặng nề không những cho cá nhân bị hại mà còn
ảnh hưởng đến xã hội, nhiều phụ nữ và trẻ em trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân của bóc lột tình dục, hôn nhân ép buộc và


lao động bất hợp pháp trên nhiều quốc gia. Vì thế, bài nghiên cứu tìm hiểu
“thực trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam” của nhóm chúng tôi sẽ tìm
hiểu thực trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em, các hình thức mà kẻ buôn người sử
dụng, nguyên nhân của tình trạng buôn bán người và những hậu quả của việc
buôn bán người để lại cho cá nhân và xã hội.
2. Cơ sở lí luận
2.1.

Lí thuyết thiếu sự điều hòa, điều chỉnh:

Theo lý thuyết này, những hành vi sai lệch, tội phạm, tệ nạn xã hội của con
người xuất hiện là do trạng thái thiếu chuẩn và khi có sự không khớp nhau giữa
các mục tiêu văn hóa với các biện pháp được chấp nhận để đạt được các mục
tiêu đó.
Hai tác giả điển hình của lý thuyết “thiếu sự điều hòa, điều chỉnh” là E.
Durkheim và R.K. Merton. Theo E. Durkheim, tội phạm, tệ nạn xã hội là hiện
tượng không thể thiếu trong xã hội. Chính tình trạng vô quy tắc thể hiện sự suy
thoái của đạo đức xã hội là nguyên nhân của các hiện tượng phạm tội. Ông còn
cho rằng, khi ở một trạng thái rối ren, người ta không hội nhập được với xã hội
do nhu cầu không khớp với các với các khả năng mà xã hội cung cấp để thỏa
mãn nhu cầu đó, thì khi đó xuất hiện những hành vi sai lệch (tự tử, tôi phạm, tệ
nạn xã hội…). (Trần Đức Châm, 2012)
Qua thuyết này làm rõ nguyên nhân phạm tội, nhu cầu con người quá cao mà xã
hội không đáp ứng được, con người phải dùng mọi phương thức để đáp ứng nhu
cầu bản thân. Từ đó xuất hiện những hành vi sai lệch, thiếu chuẩn mực đạo

đức…và tội phạm ngày càng gia tăng.
Khái niệm
2.2.1. Buôn bán người: Có nhiều định nghĩa về buôn bán người, nhưng chưa có định
nghĩa riêng ở Việt Nam, nghiên cứu sử dụng định nghĩa của Hội đồng bảo an
Liên hợp quốc:
Buôn bán con người là một phong trào bí mật và bất chính đưa người qua
biên giới phần lớn là từ các nước đang phát triển và một số nước đang chuyển
đổi kinh tế nhằm mục tiêu cuối cùng là ép buộc phụ nữ và các em gái hoạt động
tình dục hoặc bóc lột về kinh tế và tình trạng bóc lột lợi nhuận từ những việc
làm này. Những kẻ buôn người và tập đoàn tội ác cũng như các hoạt động bất
hợp pháp khác liên quan đến buôn bán con người như là việc cưỡng bức lao
động trong nhà, ép buộc làm vợ, nghề nghiệp không minh bạch và con nuôi bất
hợp pháp (Hội đồng bảo an Liên hợp quốc 1994).
Theo định nghĩa này thì các đặc trưng của buôn bán người được biểu hiện
như sau:
- Hành vi: Tuyển dụng, chuyên chở, chuyển giao, che dấu, chứa chấp, tiếp
cận, hoặc nhận người trong nước hoặc qua biên giới.
2.2.


- Phương thức: Lừa gạt, bắt cóc, lừa dối, ép buộc, cưỡng bức hoặc đe doạ,
sử dụng bạo lực, lạm dụng quyền hành hoặc lợi dụng tình hình khó khăn của
một người nào đó. Đối với trường hợp buôn bán trẻ em: bất cứ phương thức nào
đều được tính đến, ngay cả việc sự đồng ý của trẻ em.
- Mục đích: Bóc lột sức lao động, khai thác mại dâm hoặc những hình
thức bóc lột tình dục khác, hay cắt bỏ những bộ phận của cơ thể
2.2.2. Phụ nữ, trẻ em bị buôn bán: là phụ nữ, trẻ em bị một người hay một
nhóm người sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hay những hình thức ép
buộc khác, bắt cóc, lừa gạt, lạm dụng quyền lực hay địa vị, tình trạng dễ bị tổn
thương để mua bán (giao nhận tiền hoặc giao nhận một lợi ích vật chất khác)

nhằm mục đích bóc lột (cưỡng bức bán dâm hoặc các hình thức bóc lột tình dục
khác, lao động hoặc dịch vụ cưỡng bức, nô lệ hoặc làm việc như tình trạng nô lệ
hoặc lấy đi các bộ phận trên cơ thể) (Báo cáo tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ
em ở Việt Nam, 6/2011)
2.2.3. Kẻ buôn người: là kẻ cám dỗ người nào đó bằng cách quyến rũ, dùng
bạo lực hoặc đe dọa bạo lực hoặc các hình thức khác, nhằm mục đích buôn bán
kiếm lời (bằng tiền hoặc bất kì vật chất khác). Kẻ buôn người có thể là những
người tiếp nhận hoặc chuyển người khác trong nội bộ đất nước hoặc ra nước
ngoài. (Báo cáo tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam, 6/2011)
2.2.4. Người mua: là người có nhu cầu mua người khác nhằm mục đích bắt
buộc lao động hoặc nô lệ tình dục (bao gồm cả những người vợ phụ thuộc),
đóng vai trò chủ nhân có quyền sở hữu hoặc chiếm hữu người khác để bóc lột,
vứt bỏ hoặc trao đổi. (Báo cáo tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam,
6/2011)
2.2.4. Người môi giới: thường được xem là trung gian đóng vai trò đầu
mối, dắt mối, theo dõi, tìm kiếm, ép buộc, buôn bán phụ nữ cho mạng lưới buôn
người nhằm mục đích kiếm lời (Báo cáo tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em ở
Việt Nam, 6/2011)
3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
3.1.
Phương pháp nghiên cứu:
-

Nghiên cứu tài liệu thứ cấp
3.2.
Tổng quan tài liệu

Buôn bán phụ nữ và trẻ em đang là vấn nạn không của riêng một quốc gia
nào mà của toàn xã hội. Buôn bán phụ nữ và trẻ em là hành vi đi ngược lại với
chuẩn mực đạo đức. Vì thế mà nó được nhiều thành phần trong xã hội quan tâm

và trong giới hạn của nhóm nghiên cứu, chúng tôi tìm được một số tài liệu
nghiên cứu tại Việt Nam về vấn đề này.
Cụ thể là theo báo cáo buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam thì buôn bán
người là tệ nạn được ghi nhận vào những năm 1990, khi buôn bán người được


xem là một bộ phận của nạn mại dâm nhằm cung cấp nguồn phụ nữ rẻ mạt từ
các vùng khác nhau. Kể từ thời điểm đó, Việt Nam trở thành một trong những
đường dây buôn bán phụ nữ quốc tế và khu vực. Cho đến thời điểm hiện tại,
chưa có một con số chính xác nhất, tổng hợp được đã có bao nhiêu phụ nữ, trẻ
em bị buôn bán, bởi sự khó khăn trong việc xác định hành vi phạm tội, người bị
hại và chính bởi sự che dấu của gia đình, nạn nhân gắn liền với hệ lụy xã hội có
thể xảy ra trong nền văn hóa phương Đông. Tuy nhiên, các nghiên cứu, khảo
sát, số liệu thống kê cho thấy có những bằng chứng chân thực, sinh động để
khẳng định rằng nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em là có thực và số lượng các vụ
việc có liên quan đến buôn bán phụ nữ và trẻ em mặc dù ở mỗi thời điểm và khu
vực có khác nhau nhưng luôn có xu hướng tăng lên theo thời gian, năm sau số
lượng nhiều hơn năm trước và không có dấu hiệu giảm sút (Báo cáo tội phạm
buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam, 6/2011).
Cùng quan điểm với báo cáo buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam báo
cáo tình hình buôn người năm 2014 cũng chỉ ra rằng Việt Nam là quốc gia xuất
phát của nhiều nam giới, phụ nữ và trẻ em bị mua bán vì mục đích tình dục hoặc
bị cưỡng ép lao động trong nước và nước ngoài. Việt Nam là quốc gia có nhiều
nam giới và phụ nữ di cư ra nước ngoài lao động thông qua con đường tự túc
hoặc thông qua các công ty xuất khẩu lao động nhà nước, tư nhân và cổ phần.
Sau đó một số người đã bị cưỡng ép lao động trong các ngành xây dựng, đánh
bắt thuỷ sản, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ, chế tạo, và một số ngành
khác, chủ yếu tại Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, và Nhật Bản, và ở mức độ thấp hơn là tại Trung Quốc, Thái
Lan, Cam-pu-chia, Indonesia, Vương quốc Anh, Cộng hoà Séc, Đảo Síp, Pháp,
Thuỵ Điển, Trinidad và Tobago, Costa Rica, Nga, Ba-lan, Ucraina, Libya, Ả-rập

Xê-út, Gioóc-đa-ni và một số quốc gia khác ở châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi.
Phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng
ép tình dục – đặc biệt là Trung Quốc, Cam-pu-chia, Malaysia, và Nga. Nhiều
nạn nhân người Việt của buôn bán tình dục cũng đã được tìm thấy ở Ghana. Họ
thường bị lừa gạt bởi các cơ hội việc làm giả mạo và bị bán cho các nhà chứa ở
biên giới với Campuchia, Trung Quốc và Lào; một số người sau đó bị đưa sang
các nước thứ ba như Thái Lan và Malaysia. Một số phụ nữ Việt Nam sang
Trung Quốc, Đài Loan, Hong kong, Macau, Singapore hay Hàn Quốc qua
những cuộc hôn nhân với người nước ngoài thông qua môi giới, sau đó đã bị
cưỡng ép phục vụ trong gia đình, hành nghề mại dâm, hoặc cả hai. Làm công
trừ nợ, thu giữ hộ chiếu, và dọa nạt bị trục xuất là những thủ đoạn thường được
dùng để bắt các nạn nhân Việt Nam phải phục vụ. Các mạng lưới tội phạm có tổ
chức của Việt Nam và Trung Quốc đã đưa những người dân Việt Nam, chủ yếu
là trẻ em, sang Vương quốc Anh và Đan Mạch và buộc họ làm việc trong các
trang trại trồng cần sa. Các nạn nhân làm việc trong các trang trại này bị mờ mắt
bởi những hứa hẹn về công ăn việc làm có lợi nhuận cao, và đã bị cưỡng bức
lao động qua việc làm công trừ nợ, các lời dọa dẫm đánh đập họ và gia đình họ,


và nỗi sợ hãi bị các cơ quan chức năng châu Âu bắt giữ. (Báo cáo tình hình
buôn bán người, 2014)
Trong một bài nghiên cứu khác của Lê Thị Lan Phương cho biết những nạn
nhân của nạn buôn bán người họ bị buôn bán không biết chính xác những gì họ
nợ, họ trả chủ chứa bao nhiêu trên từng khách hàng họ phục vụ hay bất kỳ đồ
vật mới nào họ mua có thể bị chủ chứa cộng vào khoản nợ chung của họ. Theo
Hughes (2000), phụ nữ làm nghề mại dâm dưới sự kiểm soát của chủ chứa hoặc
ma cô có thể bị bóc lột tối đa để tạo ra lợi nhuận. Ví dụ, phụ nữ bị buôn bán làm
nghề mại dâm ở các thành phố Việt Nam phải phục vụ trung bình 5 đến 7 khách
mỗi ngày với giá chỉ 1 đô la Mỹ mỗi lần có quan hệ tình dục, trong khi đó tú bà
hoặc kẻ dẫn mối (ma cô) nhận được 8 đô la Mỹ cho mỗi lần hành sự từ khách

hàng. Trong khi đó, phụ nữ làm việc trong các nhà thổ khác nhau ở Trung Quốc
và Campuchia, như Derks (1998) và Lê (2005) phát hiện, phải phục vụ từ 2 đến
20 khách hàng một ngày mà không được trả tiền. Không những thế, một khi đã
bị giữ để làm việc với tư cách là gái mại dâm, phụ nữ hiển nhiên bị coi là tài sản
của chủ chứa và có rất ít cơ hội trốn thoát. Họ bị nhốt trong nhà thổ 24 giờ một
ngày, 7 ngày trong tuần dưới sự giám sát chặt chẽ như tù nhân và bị bắt phục vụ
khách hàng chỉ trừ thời gian bị kinh nguỵệt. Việc trừng phạt thể chất được dùng
để răn đe phụ nữ khi họ không tuân theo lệnh của chủ chứa hoặc cố tình trốn. Ở
đa số trường hợp, các cô gái trẻ tường thuật rằng họ bị cưỡng hiếp hoặc bị bắt
quan hệ tình dục và phải “chiều theo” tất cả những ham muốn “quái đản” của
khách hàng, điển hình là quan hệ hậu môn và bạo dâm. Có nhiều bằng chứng
cho rằng các chủ chứa/ma cô cung cấp ma túy cho phụ nữ để giữ họ làm việc.
Sự phụ thuộc hệ quả của phụ nữ vào ma túy được coi là một trong những lý do
khiến họ buộc phải ở lại nhà chứa cho dù có bị lạm dụng đến đâu. Như vậy, phụ
nữ bị buôn bán trở thành gái mại dâm không có quyền được tự do, không có
quyền được quyết định cũng như không có quyền được hưởng đúng những gì
do chính sự lao động cực nhọc và tủi nhục của họ làm ra. Có thể thấy, họ thậm
chí không được đối xử với tư cách là con người và đơn thuần chỉ được coi là
những mặt hàng trao đổi trên thị trường tình dục toàn cầu. (Lê Thị Lan Phương)
Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tài liệu thứ cấp thì thực trạng buôn bán
người làm hủy hoại xã hội, gây tổn thất lớn đến đời sống vật chất và tinh thần
của con người, đặc biệt phụ nữ và trẻ em-nạn nhân chính của nạn buôn bán
người. Từ việc nghiên cứu các tài liệu nhóm chúng tôi thừa hưởng được những
số liệu mà những nghiên cứu trước điều tra một cách cụ thể và chuẩn xác, bên
cạnh đó bài nghiên cứu của nhóm chúng tôi tìm hiểu thêm một số nguyên nhân,
ảnh hưởng của nạn buôn bán người đến xã hội, con người ra sao.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1.
Thực trạng tội phạm buôn bán người


Qua quá trình tìm hiểu các tài liệu nghiên cứu nhóm nhận thấy rằng vấn
nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em ngày một gia tăng.


Theo thống kê của tác giả Lê Thị Quý cho thấy, từ 1994 – 2001 có 3787
các trường hợp buôn bán phụ nữ bị bắt, trong đó 44.5% ở trong nước và 55,5%
là phụ nữ ra nước ngoài. Tại tỉnh Quảng Ninh từ năm 1999 – 2003 có 1.053 phụ
nữ và trẻ em bị buôn bán sang Trung Quốc. Tại đồng bằng sông MêKông đến
năm 2003 có hàng chục nghìn phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan. Năm
2000, theo ước tính có 11.310 cô gái Việt Nam bị buộc phải làm gái điếm ở
Campuchia trong đó 8610 là ở PhNom Pênh” (Lê Thị Quý, 2004)
Trong năm 2002, có 3.781 trường hợp buôn bán phụ nữ và trẻ em với tổng
số 10.218 nạn nhân. Trong đó, 87% nạn nhân bị bán cho các dịch vụ tình dục kể
từ năm 1995. Báo cáo năm 2004 của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội cũng
cho thấy con số trẻ em bị buôn bán trên toàn quốc là 15.000 em (Theo báo cáo
của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội,)
Từ năm 2004 thực hiện chương trình 134, đã bắt đầu có những con số
thống kê chính thức về tình hình buôn bán người ở Việt Nam. Theo báo cáo gần
đây nhất của các địa phương, qua 6 năm thực hiện chương trình 130/CP, từ năm
2004 - 2010 tại Việt Nam đã xảy ra 1949 vụ mua bán người với 3.543 đối
tượng, lừa bán 4.793 nạn nhân.
Một báo cáo của Tổng cục cảnh sát và báo cáo của Công an các địa phương
cũng không có chênh lệch đáng kể. Theo công tác nắm tình hình của cơ quan
này trong 5 năm từ 2004 đến hết 6 tháng đầu năm 2009 đã phát hiện đấu tranh
1.619 với 3.091 đối tượng, xác định 4.140 nạn nhân, số vụ phát hiện và đấu
tranh có xu hướng gia tăng năm sau cao hơn năm trước”. (Ban chỉ đạo 130/CP,
2009:47)
Ở báo cáo của Tòa án nhân dân chỉ ra rằng số vụ phạm tội mua bán trẻ em
mà cơ quan này xét xử có sự gia tăng trong những năm vừa qua (Ban chỉ đạo
130/CP, 2009:66)

Bảng 1: Số vụ phạm tội mua bán phụ nữ trẻ em theo thống kê của Toà án nhân dân (2004 2008)


Nguồn: Tòa án Nhân dân. Kinh nghiệm trong phối hợp truy tố, xét xử các vụ án về mua bán
phụ nữ, trẻ em; kiến nghị và đề xuất của ngành Tòa án nhân dân
Trong Tài liệu Hội nghị Tổng kết 05 chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán
phụ nữ trẻ em (2004-2009)

Theo báo cáo của cơ quan này, trong 5 năm từ 2004 đến năm 2008 có tổng
cộng 748 vụ phạm tội buôn bán phụ nữ và trẻ em với 1367 bị cáo phạm tội. Số
vụ phạm tội gần như gia tăng theo các năm, năm sau cao hơn năm trước. Nếu
năm 2004 chỉ có 79 vụ phạm tội mua bán phụ nữ thì năm 2006 là 121 và đến
năm 2008 là 149. Số vụ phạm tội mua bán trẻ em năm 2004 là 31, đến năm
2006 là 36 và lên 48 vụ năm 2008.
Kết quả công tác phát hiện, đấu tranh tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em của
Cảnh sát nhân dân cho thấy cũng có sự gia tăng đáng kể (lưu ý số liệu trong
năm 2009 không phải là số thực trong tài liệu, tài liệu chỉ thể hiện đến sáu tháng
đầu năm 2009, số liệu trong báo cáo đã được nhân theo hệ số 2)
Bảng 2: Số vụ phạm tội mua bán phụ nữ trẻ em theo thống kê của Cảnh sát
nhân dân (2004 - 2009)

Nguồn: Tổng cục cảnh sát. Thực trạng tình hình, kết quả đạt được trong thực hiện
chương trình 130/CP. Rút ra những bài học kinh nghiệm đấu tranh phòng chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em của lực lượng cảnh sát nhân dân trong Tài liệu Hội
nghị Tổng kết 05 chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ
trẻ em (2004-2009)

Nhìn chung buôn bán phụ nữ và trẻ em không có chiều hướng thuyên giảm,
đang hoạt động ngày phức tạp và tinh vi hơn, số nạn nhân ngày một tăng, những
số phận đang bị đẩy vào vùng lầy bởi những lợi nhuận của việc buôn bán người

mang lại.
4.2.
Nguyên nhân của tình trạng buôn bán người
Nạn buôn người ngày một gia tăng không những do từ phía bị cáo, còn phải
kể đến do tâm lí và sự nhẹ dạ cả tin, cũng như ham muốn cuộc sống giàu sang,
…mà các nạn nhân bị bọn buôn người lợi dụng. Chúng tôi xin liệt kê một trong
vô số nguyên nhân gây ra vấn nạn buôn người như hiện nay:


-

-

-

-

-

-

Do lợi nhuận từ việc buôn người mang lại, theo Liên Hợp Quốc ước tính,
tại mỗi thời điểm có khoảng 2,5 triệu nạn nhân bị buôn bán trên toàn thế
giới, đa phần đến từ Châu Á - Thái Bình Dương. Nạn buôn người rất phổ
biến, là hoạt động thương mại bất hợp pháp và trở thành ngành công nghiệp tội
phạm lớn thứ 3 trên thế giới sau ma túy và mua bán vũ khí, bọn tội phạm buôn
người kiếm được trên 10 tỉ USD mỗi năm, thông qua việc mua và bán người.
Cuộc sống khó khăn là một trong những nguyên nhân trọng yếu nhất. Con
người có nhu cầu lớn về mặt tài chính nhưng không đáp ứng được được từ đó
họ bị lôi kéo theo con đường buôn bán người; họ có thể là nạn nhân và cũng có

thể chính là những tên tội phạm thực hiện hành vi buôn bán người.
Không được đi học, đặc biệt người dân ở vùng sâu vùng xa, khu vực giáp biên
giới…họ chính là đối tượng mà bọn buôn người nhắm tới. Hoàn cảnh gia đình
khó khăn, không hiểu biết thế nào là buôn người, bị dụ dỗ bởi những đồng tiền
hay những lời hứa về một công việc ổn định, cuộc sống giàu sang.
Do sự quản lí của chính quyền địa phương còn lỏng lẻo trong việc tuyên
truyền về buôn bán người, các biện pháp hỗ trợ trong việc tìm hiểu buôn bán
người chưa được đáp ứng.
Công nghiệp hóa phát triển đòi hỏi một lượng lớn nhân công lao động, buôn
bán người đáp ứng một phần nhân công với giá thành rẻ mạt và những kẻ buôn
người hưởng lợi từ hình thức kinh doanh bất hợp pháp này.
Sự mất cân bằng giới. Từ đó, để thỏa mãn nhu cầu tình dục thì các nhà chứa,…
là nơi tụ tập của một số người có nhu cầu về tình dục. Dù là nam giới hay nữ
giới đều có thể bị lạm dụng tình dục, và đặc biệt hơn là phụ nữ và trẻ em gái.
4.3.
Hình thức kẻ buôn người sử dụng
Tình hình buôn bán người vẫn đang trên chiều hướng gia tăng, hình thức
hoạt động ngày càng tinh vi, phức tạp. Những tên tội phạm chúng thường dựa
vào hoàn cảnh, trường hợp cụ thể sau đó mới dùng cách thức áp dụng cho từng
đối tượng hoặc lừa gạt, bắt cóc, lừa dối, ép buộc, cưỡng bức hoặc đe doạ, sử
dụng bạo lực, xin con nuôi, kết hôn chồng ngoại quốc, dùng những lời hứa ngon
ngọt, đưa các chị em đi du lịch, những kẻ buôn người sẽ đóng vai các chàng trai
trẻ dụ dỗ các cô gái trẻ hẹn hò trên mạng, sau khi được nạn nhân tin cậy, chúng
thuyết phục các cô chuyển sang một địa điểm mới, sau đó các cô bị cưỡng ép
lao động hoặc bị buôn bán tình dục…thủ đoạn của bọn buôn người khó lường
trước được, con mồi để chúng hướng đến đa số là chị em phụ nữ và trẻ em gái
do nhóm người này dễ mềm lòng và nhẹ dạ cả tin.
4.4.
Ảnh hưởng của nạn buôn người để lại
Theo báo cáo kết quả của những nghiên cứu trước cho thấy, 38% các nạn

nhân được cứu thoát bị nhiễm HIV/AIDS, cũng như các bệnh lây truyền qua
đường tình dục và bệnh lao, những ảnh hưởng về mặt sức khỏe: những hành
động bạo lực dã man làm gãy xương, mất khả năng nhận thức và hiếp dâm tập
thể. Những biến chứng liên quan đến việc phá thai, các vấn đề về dạ dày, sút
cân, chấy rận, sự phiền muộn dẫn đến muốn tự sát, nghiện rượu và nghiện ma
túy, 95% nạn nhân đã bị tấn công bằng bạo lực hoặc bị cưỡng bức quan hệ tình


dục, và hơn 60% nạn nhân, gặp phải sự mệt mỏi, có các triệu trứng về thần
kinh, các vấn đề về dạ dày, đau lưng, chảy mủ âm đạo, các bệnh truyền nhiễm
phụ khoa. Những hậu quả về mặt sức khỏe ít rõ ràng hơn của tội buôn người vì
mục đích tình dục là ung thư cổ tử cung gây nên bởi virus, là loại bệnh phổ biến
hơn ở những phụ nữ phải quan hệ tình dục với nhiều người đàn ông. Chẳng hạn
như, hai nghiên cứu từ Ấn Độ đã cho thấy tỉ lệ HIV ở những em gái làm nghề
mại dâm cao hơn so với những phụ nữ làm nghề này (12,5% so với 5,4% và
27,7% so với. 8,4%). (Đỗ, Thị Kim Bằng;Hoàng Dương Cẩm Tú, 2010)
Theo nghiên cứu, trẻ em có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn phụ nữ vì trong
những lần quan hệ tình dục khách mua “trinh” của những bé gái, không sử dụng
các biện pháp phòng ngừa trong lúc quan hệ nên dẫn đến tình trạng trẻ em có
khả năng nhiễm HIV cao hơn phụ nữ.
Buôn bán người để lại hậu quả vô cùng lớn không những cho nạn nhân về
mặt tinh thần (ám ảnh, sợ hãi, lo lắng…đến suốt cuộc đời), thể chất (sức khỏe
suy yếu, mắc các căn bệnh hiểm nghèo, bạo lực,…) mà còn ảnh hưởng đến xã
hội, đất nước: nguồn lao động trong nước giảm sút, giá trị đạo đức con người
hủy hoại, việc hòa nhập tái cộng đồng của nạn nhân rất khó khăn đòi hỏi nhà
chức trách-cơ quan chức năng phải xử lí, nạn buôn người còn kéo theo một số
hình thức tội phạm khác như rửa tiền, vận chuyển ma túy, nạn mại dâm,….tệ
nạn xã hội lại tăng cao, phá vỡ cấu trúc xã hội.
5. Kết luận


Nạn buôn người không phải là vấn đề riêng của một quốc gia nào mà là của
toàn xã hội. Hình thức buôn người là đang đi ngược lại với giá trị đạo đức, con
người không phải là một món hàng đem ra mua bán, trao đổi hay lạm dụng.
Nhìn vào thực trạng, tuy các cơ quan chức năng đã có những biện pháp đấu
tranh phòng chống nhưng tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em chưa thuyên
giảm. Những nạn nhân mà những kể buôn người hướng đến chủ yếu là phụ nữ
và trẻ em, vì họ là những người yếu đuối lại nhẹ dạ cả tin. Buôn người đem lại
một nguồn thu nhập lớn cho những kể buôn người.
Các địa phương và nhân dân chưa có tinh thần cảnh giác, biện pháp phòng
chống cụ thể như thực hiện các buổi tập huấn cho cán bộ, công - nhân viên nắm
các cách thức phòng và chống chưa được triển khai tốt nhất. Văn hóa xã hội còn
chưa răn đe và lên án mạnh mẽ các hành vi mua bán người. Còn e ngại bị trả
thù, tâm lý xấu hổ giấu cái xấu đi và do lòng tham của con người quá lớn.
Như vậy, không chỉ tìm cách bắt tội phạm mà còn cần “đánh” mạnh vào
tâm lí của mọi người, không nên vì lợi ích cá nhân mà gây hại đến cho người
khác; cũng như không nên mềm lòng, nhẹ dạ cả tin đối với những đối tượng khi
ta chưa hiểu về họ; đề phòng cảnh giác; mở các lớp học cách phòng vệ; tuyên
truyền thường xuyên cho mọi người hiểu, đặc biệt người dân ở gần khu vực
biên giới, vùng sâu vùng xa,… Một đất nước không có buôn bán phụ nữ và trẻ


em thì mỗi cá nhân trong cộng đồng phải đề cao cảnh giác, cùng nhau hợp tác,
cùng nhau đẩy lùi thực trạng buôn bán người.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Báo cáo buôn bán phụ nữ và tre em ở Việt Nam. (6/2011). Hà Nội.
Báo cáo tình hình buôn bán người. (2014).
Báo cáo tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam. (6/2011). Hà
Nội.
Đỗ, Thị Kim Bằng;Hoàng Dương Cẩm Tú. (2010). Tìm hiểu về nạn buôn

người trong giai đoạn hiện nay, Tuyển tập báo cáo hội sinh viên nghiên cứu
khoa học lần thứ 7. Đà Nẵng.
Lê Thị Lan Phương. Buôn bán phụ nữ và trẻ em gái trở thành gái mại
dâm-sự vi phạm nghiêm trọng về quyền con người. Hà Nội.
Lê Thị Quý. (2004). Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên
giới.
Trần Đức Châm. (2012). Xã hội học tội phạm. Hà Nội: NXB Chính trị
Quốc Gia.



×