I. MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài:
"Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo
dục chủ yếu từ trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm
chất người học; học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn. Phát triển giáo
dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học - công nghệ, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
và thị trường lao động."[1]. Để góp phần vào sự phát triển đó, bộ môn Lịch sử
đã không ngừng đổi mới về phương pháp giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu thực
tiễn của đất nước.
Lịch sử là những sự việc đã diễn ra, có thật và tồn tại khách quan trong quá
khứ, không thể phán đoán, suy luận hay tưởng tượng để nhận thức lịch sử mà
cần phải thông qua những dấu tích của quá khứ, những chứng cứ về sự tồn tại
của các sự việc đã diễn ra.
Sử dụng ca dao và đồ dùng trực quan giúp học sinh dễ hình dung về quá khứ,
làm cho học sinh giống như đang “chứng kiến” các sự kiện, hiện tượng lịch sử
xảy ra trước mắt, đánh giá khách quan chính xác bản chất sự kiện lịch sử.
Học tập Lịch sử theo quan niệm hiện đại không phải là sự học thuộc, nạp vào
trí nhớ của người học theo lối thầy đọc trò chép, thầy giảng trò nghe, học sinh
học thuộc lòng theo thầy, theo sách giáo khoa mà là: học sinh thông qua quá
trình làm việc với nguồn tư liệu, ca dao, đồ dùng trực quan để tự tạo cho mình
các hình ảnh lịch sử, tự hình dung về lịch sử đã diễn ra trong quá khứ.
Ca dao là một bộ phận của văn học. Nó không chỉ là một sản phẩm nghệ
thuật dân gian mà còn tâm thức của dân gian về những hiện tượng lịch sử, xã hội
nhất định. Ca dao phản ánh lịch sử trực tiếp hoặc gián tiếp, ở những góc độ,
những cung bậc khác nhau. Kí ức dân gian về các sự kiện, hiện tượng lịch sử
trong ca dao thì thường không được ghi rõ về mốc thời gian, nhưng nó rất dễ
nhớ bởi nó thường được diễn đạt bởi thể thơ lục bát, bằng những hình ảnh sinh
động và phản ánh rất chân thực cái nhìn của dân gian về các sự kiện, hiện tượng
lịch sử mà nhân dân quan tâm. Vì vậy, ca dao như là một nguồn tư liệu bổ ích
phục vụ cho các bài giảng lịch sử.
Đồ dùng trực quan huy động được sự tham gia của nhiều giác quan của
người học, tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, nhớ lâu, phát triển
năng lực chú ý, quan sát, góp phần tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa
các sự kiện lịch sử, hiện tượng lịch sử, qua đó phát huy được tính tích cực chủ
động học tập cho học sinh và nâng cao được hiệu quả bài học.
Sử dụng ca dao và đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch bài “Tình hình xã
hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân” sẽ góp phần
làm cụ thể hóa sự kiện lịch sử, gây hứng thú học tập, sáng tạo, tìm tòi, hợp tác
nhóm tích cực, phát huy các năng lực học sinh và nâng cao hiệu quả bài học.
I.1. Đoạn trích "Giáo dục...thị trường lao động" trích nguyên văn TLTK số 1.
1
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài này làm sáng kiến kinh nghiệm
của mình.
I.2. Mục đích nghiên cứu:
Khi nghiên cứu đề tài, tôi hướng tới mục đích nghiên cứu cơ bản sau:
- Đề ra những phương pháp tối ưu cho việc sử dụng ca dao và đồ dùng trực
quan nhằm nâng cao hiệu quả dạy- học lịch “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ
XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”.
- Phát huy tính tích cực, chủ động, óc quan sát, sáng tạo của học sinh.
- Phát huy năng lực làm việc nhóm đạt hiệu quả cao, tăng khả năng giao tiếp,
tính mạnh dạn học sinh trong giải quyết các tình huống gắn liền với đời sống
hằng ngày.
- Qua đồ dùng trực quan rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo về “đọc” nội dung tranh
ảnh, rèn luyện ngôn ngữ diễn đạt cho học sinh.
- Phát huy năng khiếu hội họa, thẫm mĩ cho học sinh thông qua tranh ảnh. Hình
thành, bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp.
- Bồi dưỡng kiến thức sâu rộng giữa các môn học có sự liên kết chặt chẽ, song
vẫn độc lập khoa học về môn học của Lịch sử.
- Giáo dục học sinh chăm chỉ, cần cù, sáng tạo trong lao động. Nêu lên trách
nhiệm của học sinh trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.
- Góp phần làm cho học sinh trân trọng, giữ gìn nền văn học dân gian, hiểu rõ
về cội nguồn lịch sử dân tộc cũng như lối sống, phong tục, tập quán, đạo đức,
phẩm chất của con người Việt Nam.
I.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Là các em học sinh lớp 10 ở trường THPT Thọ Xuân 5.
Đặc điểm về năng lực nhận thức và tiếp thu tri thức: Trường Thọ Xuân 5 có
đầu vào thấp, nên khả năng tiếp thu và chiếm lĩnh tri thức thấp, chậm.
Đặc điểm tâm sinh lí: Các em mới từ cấp hai lên, nên sự bỡ ngỡ môi trường
mới trong học tập, trong giao tiếp bạn bè có nhiều thay đổi và các em cũng bắt
đầu thể hiện là những “người lớn”, nên sự chủ động sáng tạo của các em là
nhạy bén, các em thích thú với thế giới tri thức mới, muốn thể hiện khả năng
của mình, đây là thuận lợi để giáo viên sử dụng phương pháp dạy-học đa dạng,
tạo sự húng thú và niềm đam mê cho các em.
I.4. Phương pháp nghiên cứu:
I.4.1. Nghiên cứu lý thuyết:
- Các tài liệu về tâm lí học, giáo dục học.
- Các công trình về lý luận dạy học chung và lý luận dạy học môn lịch sử.
- Sách giáo khoa lịch sử lớp 10, sách đại cương lịch sử Việt Nam tập 1, tập 2,
sách giáo viên lịch sử 10, các tài liệu lịch sử có liên quân
- Sách hướng dẫn sử dụng đồ dùng trực quan, kênh hình dạy học lịch sử trong
trường THPT.
2
- Sách văn học lớp 10, ca dao, tục ngữ Việt Nam, ca dao trong sự phát triển
lịch sử dân tộc.
I.4.2. Nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra thực tế dạy- học lịch sử ở trường THPT bằng các hình thức: Dự giờ,
quan sát, kiểm tra, phát phiếu thăm dò ý kiến về thực trạng dạy- học lịch sử
hiện nay cho học sinh và giáo viên, tổng kết đánh giá rút ra kinh nghiệm sư
phạm cho bản thân.
- Tiến hành dạy học đối chứng và thực nghiệm bài học cụ thể ở lớp 10C2,
10C4 tại trường THPT Thọ Xuân 5.
3
II. NỘI DUNG.
II.1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Đồ dùng trực gồm có bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, bảng thống kê(bảng niên
biểu), phòng trưng bày hiện vật, bảo tàng...góp phần tạo hình ảnh, biểu tượng,
làm cụ thể hóa về sự kiện, hiện tượng lịch sử, giúp học sinh nhớ kỹ, nhớ lâu
về sự kiện, hiện tượng lịch sử. K.Đ.U.Sin-xki đã nhận xét “Hình ảnh được giữ
lại đặc biệt vững chắc trong trí nhớ chúng ta, là hình ảnh mà chúng ta thu
nhận được bằng trực quan và những hình ảnh nào khắc sâu vào trí nhớ chúng
ta, thì cũng được chúng ta nhớ kỹ, hiểu sâu những tư tưởng của nó”. [3]
Ca dao (tiếng Pháp: chanson populaire), hay còn gọi là phong dao, đây là
một thuật ngữ được dùng với nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo nghĩa
gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát không có khúc điệu. Ca dao
là danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có
hoặc không có khúc điệu. [7]
Ca dao là bộ bách khoa vĩ đại, là nơi kết tinh rực rỡ những tri thức, tài
năng nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của nhân dân, ca dao là nguồn tư liệu lịch
sử quí giá, nó phản ánh “trần trụi” hiện thực xã hội đương thời, do đó ca dao
cung cấp một tính khách quan cho sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Ca dao kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch sử bài
“Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân
dân” không chỉ làm cho học sinh nắm vững, hiểu sâu kiến thức lịch sử của bài
học mà còn tác động đến tư tưởng, tình cảm, lối sống, thái độ của học sinh về
sự kiện, hiện tượng lịch sử cụ thể, góp phần hình thành cho học sinh những
phẩm chất đạo đức cần thiết như yêu mến lao động, quý trọng người lao
động, lên án sâu sắc đối với bọn áp bức, bóc lột vua quan của nhà Nguyễn,
đồng tình với những cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân lao động, có
lòng yêu quê hương đất nước, có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với tổ quốc. Từ
đó dạy-học lịch sử sẽ đạt được hiệu quả cao.
II.2. Thực trạng vấn đề dạy-học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
Qua điều tra thực tế dạy- học lịch sử ở trường THPT bằng các hình thức: Dự
giờ, quan sát, kiểm tra, phát phiếu thăm dò ý kiến, tôi nhận thấy trong dạy-học
lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của
nhân dân” còn nhiều bất cập. Chẳng hạn, giáo viên dạy bài này chủ yếu kể
chuyện đời tư các vua chúa, quan lại nhà Nguyễn cho học sinh nghe hoặc chủ
yếu kể chuyện tiếu lâm, truyện cười ở thời kỳ này mà không có hoạt động học gì
hay có giáo viên nặng về phương pháp thuyết trình các chính sách chính trị cai
trị hà khắc, bóc lột, vơ vét tàn bạo của vua quan mà quên mất dạy-học phần đấu
tranh của nông dân, binh lính, các đồng bào dân tộc thiểu số.
II.1. Đoạn " Hình ảnh...tư tưởng của nó" trích nguyên văn TLTK số 3. Đoạn " Ca dao...có khúc điệu" trích tham
khảo TLTK số 7.
4
Với cách dạy-học này làm cho học sinh chỉ ngồi nghe mà không hiểu bài,
không nắm được kiến thức trọng tâm của bài học, học xong học sinh không hiểu
gì, không nhớ gì, không biết vận dụng kiến thức bài học vào thực tiễn.
Sự bùng nổ cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ đã góp phần thay đổi
phương pháp dạy học như ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy-học lịch sử,
ứng dụng đa dạng, hiệu quả các phương pháp dạy-học, nâng cao hiệu quả bài
học. Song không phải giáo viên nào cũng biết sử dụng công nghệ thông tin trên
tinh thần phát huy ưu điểm của nó, mà ngược lại có giáo viên dùng cả bài giảng
điện tử bao gồm bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, bảng biểu, nội dung bài học, câu
hỏi, trình chiếu cho học sinh xem, học sinh chỉ làm một việc là nhìn lên máy
chiếu chép nội dung bài học.
Nhiều giáo viên sử dụng giáo án điện tử như một hằng đẳng thức, soạn một
lần hoặc đao từ trên mạng về một lần, sử dụng giáo án trong nhiều năm chỉ bằng
cách thay đổi ngày tháng năm của bài soạn mà không có sự đầu tư về phương
pháp dạy-học cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh ở từng trường, từng
vùng miền.
Mặt khác, trên thực tế theo kế hoạch của Bộ Giáo dục và Đào tạo về kỳ thi
tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia môn lịch sử nằm trong bài thi khoa học
xã hội và đến năm 2019 lịch sử sẽ thi cả ba khối, gồm lịch sử lớp 10, lớp 11, lớp
12. Do đó bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh
của nhân dân” nằm trong khung ôn tập và đề thi của Bộ Giáo dục-Đào tạo. Vì
vậy sử dụng cao dao và đồ dùng dạy-học lịch sử không chỉ nâng cao hiệu quả
bài học mà còn đáp ứng yêu cầu nguyện vọng học tập của học sinh, “học gì thi
nấy”.
Tại trường THPT Thọ Xuân 5 chất lượng đầu vào của học sinh đang còn
thấp, năng lực tiếp thu tri thức lịch sử, năng lực sáng tạo, hoạt động tích cực, tự
chủ, năng lực thực hành bộ môn, năng lực hoạt động nhóm rất hạn chế, các em
chọn học môn lịch sử để tham gia kỳ thi trung học phổ thông quốc gia, vì các em
cho rằng môn lịch sử dễ học, dễ lấy điểm hơn các môn tự nhiên hoặc có học sinh
học lịch sử chỉ vì muốn điểm tổng kết cao, làm cho điểm thi tốt nghiệp trung học
phổ thông thấp đi, dễ đậu tốt nghiệp.
Đứng trước thực trạng đó, tôi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp dạy-học sử
dụng ca dao kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch sử bài
“Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân”
nhằm thu hút sự chú ý, tạo sự yêu thích, sự đam mê, đặc biệt tạo ra năng lực chủ
động khám phá, làm chủ tri thức lịch sử của các em học sinh và hiệu quả bài học
sẽ được nâng cao.
II.3. Phương pháp sử dụng ca dao và đồ dùng trực quan nhằm nâng cao
hiệu quả dạy-học lịch sử bài “Tình hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và
phong trào đấu tranh của nhân dân”
II.3.1. Sử dụng ca dao, lược dồ tạo sự chú ý, hứng thú và khám phá bài học
cho học sinh.
Giáo viên sử dụng ca dao sau.
5
“Từ ngày Tự Đức lên ngôi
Cơm chẳng đầy nồi trẻ khóc như ri.
Bao giờ Tự Đức chết đi,
Thiên hạ thái bình mới dễ làm ăn.”[7]
Lược đồ hành chính nước ta nữa đầu thế kỷ XIX [4]
Em hãy cho biết những câu ca dao trên nói về ông vua nào và triều đại nào?
Lược đồ hành chính nước ta dưới triều đại nào? Em có nhận xét gì về cách phân
chia đơn vị hành chính này? Bên cạnh sự phân chia hành chính như vậy thì xã
hội thời Nguyễn như thế nào, được phân chia mấy giai cấp, tầng lớp, đời sống
nhân dân ra sao? Những người nông dân đã làm gì để giành quyền sống dưới
thời Nguyễn? Các cuộc đấu tranh đó mang đặc điểm gì, kết quả ra sao? So với
các triều đại trước các cuộc đấu tranh có gì khác, ý nghĩa của nó ra sao?
Phương pháp này kích thích sự chú ý ngay từ đầu bài học cho học sinh, lôi
cuốn các em vào nội dung bài học. Từ những câu ca dao trên các em trả lời, đó
là vua Tự Đức. Qua lược đồ các em biết rằng đó là lược đồ phân chia đơn vị
hành chính thời vua Minh Mạng.
Trang này ca dao " Từ ngày...làm ăn" trích nguyên văn TLTK số 7. Lược đồ tham khảo TLTK số 4.
6
Với sự thích khám phá, thích tìm cái mới, thích chiếm lĩnh toàn bộ tri thức
lịch sử trong bài học nên các em đã bị hấp dẫn bởi câu hỏi về xã hội, về đời sống
các giai cấp, tầng lớp và các cuộc đấu tranh của nhân dân, do đó các em rất hăng
say, nhiệt tình tham gia vào hoạt động học của mình.
II.3.2. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và kỹ thuật dạy học mảnh ghép vào
mục 1. “Tình hình xã hội và đời sống nhân dân”
Ở mục này giáo viên sử dụng ca dao.
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan.”
“Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình cướp gạo con tôi.”[7]
Cho bảng thống kê.
Thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX
Thời Lê sơ ở thế kỷ XV
“Bắt dân đào kênh
Đo đất đếm người
Một suất đinh hai thước
“Đứng mãi nào hay ngày đã
….Chồng lại phải phu phen”
tận
“Cơm thì chẳng có
Khắp đồng lúa tốt tựa mây
Rau cháo cũng không
xanh”[7]
Đất trắng xóa ngoài đồng
Nhà giàu niêm kín cổng
Còn một bộ xương sống
Vất vơ đi ăn mày
“Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
…Xác đầy nghĩa địa
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng
Thây thối bên cầu
thèm ăn”[2]
Trời ảm đạm u sầu
Cảnh hoang tàn đói rét..”.[2], [7]
Hình ảnh địa chủ, cường hào
Hình ảnh người nông dân [6]
II.3.2. Các câu ca dao trích nguyên văn TLTK số 2, số 7. Tranh ảnh tham khảo TLTK số 6.
7
Cho học sinh xem thêm tư liệu sau.
“Cái hại quan lại là một, hai phần, còn cái hại cường hào đến 8, 9 phần. Cái hại
cường hào nó làm con cái người ta thành mồ côi, vợ người ta thành góa bụa, giết
cả tính mạng người ta… cứ công nhiên mà không sợ gì.”[2]
“Trong một cuộc tuần du ra Bắc Kì của Thiệu Trị năm 1842 số quân lính và
người theo hầu lên đến 17.500 người với 44 con voi, 172 con ngựa. Nhân dân
dọc đường phải xây dựng 44 hành cung cho vua nghỉ.” [2]
“Thời Minh Mạng, Thanh Hoá đói to, Lê Đăng Doanh được vua sai đến phát
chẩn đến nơi, dân đói đến lãnh chẩn ngày càng nhiều…có người chưa đến nơi đã
chết, có nơi tranh nhau sang đò chết đuối đến 600 người, có người phơi nắng
dầm sương, ngồi chờ mà chết” [2]
Đám cưới chuột- Tranh Đông Hồ
Đàn lợn- Tranh Đông Hồ [6]
Giáo viên sử dụng máy chiếu cho học sinh đọc những câu ca dao, nội dung
trong bảng thống kê, tranh ảnh và chia hoạt động học thành 2 vòng.
Vòng 1: Hoạt động học chia làm 4 nhóm
Nhóm 1: Xã hội Việt Nam dưới thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX được
chia làm mấy giai cấp? Đó là những giai cấp nào? Nêu đời sống của từng giai
cấp?
Nhóm 2: Hoàn thiện bảng thống kê so sánh đời sống nông dân ở thời Nguyễn
nữa đầu thế kỷ XIX với đời sống nông dân thời Lê sơ ở thế kỷ XV theo các tiêu
chí: Ruộng đất; Nộp tô thuế; Đi lính, đi phu, đi lao dịch; Hậu quả.
Nhóm 3: Nguyên nhân gây nên tình trạng khổ cực của nông dân? Tranh “Đám
cưới chuột” và tranh “Đàn lợn” phản ánh nội dung gì? Ước mơ của nông dân lúc
bấy giờ là gì?
Nhóm 4: Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội thời Nguyễn lúc bấy giờ? Theo em để
giải quyết mâu thuẫn đó, nông dân đã làm gì?
8
Trang này. Đoạn "Cái hại...sợ gì"; "Trong một ...vua nghỉ"; "Thời Minh Mạng...chờ mà chết" trích nguyên văn
TLTK số 2. Tranh ảnh TLTK số 6.
Vòng 2: Trộn các nhóm vòng 1 lại với nhau theo công thức 1, 2,3, 4 thành
1 nhóm mới,5, 6, 7, 8 thành 1 nhóm mới và như vậy nhóm mới làm việc
chung với một câu hỏi sau.
Em có nhận xét gì về đời sống nông dân dưới thời Nguyễn?
Qua ca dao, bảng thống kê, tranh ảnh, nhóm 1 trả lời rất tốt, xã hội Việt Nam
thời Nguyễn nữa đầu thế kỷ XIX chia làm thành 2 giai cấp:
+ Thống trị: vua, quan, địa chủ, cường hào. Sống sung sướng, hưởng bổng lộc,
không phải làm các nghĩa vụ nhà nước, nắm quyền lực, bóc lột nông dân nặng
nề bằng tô thuế, sở hữu ruộng đất trong tay.
+ Bị trị: nhân dân lao động (chủ yếu là nông dân), bị bóc lột, phải làm nghĩa vụ
nhà nước nặng nề như nộp thuế, đi lính, đi phu, đi lao dịch.
Đối với nhóm 2 các em lập được bảng so sánh với các tiêu chí rõ ràng.
Tiêu chí
Ruộng đất
Nộp tô thuế
Đời sống nông dân ở thời
Nguyễn nữa đầu thế kỷ
XIX
Thực hiện chính sách quân
điền nhưng chỉ chiếm 20%
duện tích. Ruộng đất ngày
càng tập trung trong tay địa
chủ, cường hào.
Sưu cao, thuế nặng, chia
vùng đánh thuế…
“Gia Long bóp nặn dân
chúng bằng đủ mọi cách…
thuế khóa và lao dịch thì
tăng lên gấp 3 ”.
Đời sống nông dân thời Lê sơ
ở thế kỷ XV
Đặt phép quân điền, chia ruộng
công làng xã cho nông dân cày
cấy.
Nộp tô thuế theo nghĩa vụ nhà
nước, khuyến khích nhân dân
cày cấy, khai hoang.
Đi lính, đi
phu, đi lao
dịch
Tập trung sức dân, của cải
xây dựng kinh thành. Mỗi
năm người dân đinh phải
chịu 60 ngày lao dịch
Tập trung sức dân phát triển
kinh tế nông nghiệp, thủ công
nghiệp, đặc biệt làng nghề, mở
mang thương nghiệp thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Hậu quả.
Thiên tai mất mùa, đói kém, Đời sống nhân dân ấm no, trật
đời sống nông dân khổ cực, tự xã hội ổn định, đất nước
dẫn tới bùng nổ các cuộc cường thịnh.
đấu tranh.
9
Học sinh nhóm 3 chỉ ra nguyên nhân gây nên tình trạng khổ cực của nông
dân, không ai khác đó là giai cấp thống trị, gồm có vua, quan, địa chủ, cường
hào chỉ lo xây dựng lăng tẩm, thành quách, ăn chơi xa xỉ, bóc lột nhân dân tàn
bạo với sưu cao thuế nặng, nạn tham ô, tham nhũng phát triển, nhà nước không
có chính sách hay việc làm gì để hạn chế nạn đục khoét vơ vết của cải nhân dân
của bọn quan lại, cường hào.
Tranh “ Đám cưới chuột”, học sinh sẽ nêu được ý nghĩa bức tranh, đó là:
Nhân vật mèo cường hào ác bá, họ hàng nhà chuột thấp cổ bé họng cả đời không
được sống yên thân vì lo sợ sẽ bị mèo ăn thịt. Bức tranh đã phản đúng thực trạng
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, nhân vật “Mèo” đại diện cho địa chủ, cường hào,
nhân vật “Chuột” đại diện cho nông dân. Nông dân muốn yên ổn phải nộp cống
phẩm cho quan lại( đó là hình chuột cầm chim, cá giao nộp cho mèo).
Tranh “ Đàn lợn” lại được khắc họa trên mỗi con lợn đều có hai cái khoáy
được thể hiện bằng biểu tượng âm dương. Bên con lợn nái béo đẫy đà là đàn
lợn con béo tròn. Bức tranh biểu hiện sự sinh sôi nảy nở, nói lên ước mơ của
nhân dân là có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, sum vầy, đủ đầy. Ước mơ đó
giản dị nhưng là một khát vọng sống cháy mỏng và xa sỉ đối với người nông
dân trong xã hội thời Nguyễn bấy giờ.
Nhóm 4 cũng đạt kết quả hoạt động học của mình: Mâu thuẫn chủ yếu xã hội
lúc bấy giờ là mâu thuẫn giữa vua, quan, địa chủ, cường hào với nông dân. Để
giải quyết mâu thuẫn đó nông dân đã nổi dạy đấu tranh giành lấy quyền sống
của mình.
Phương pháp dạy - học trên đã tạo ra không khí học sôi nổi khi mà học sinh ở
tất cả các nhóm đều xung phong phát biểu ý kiến và đưa nhận xét tổng quát về
đời sống nhân dân là phải chịu sưu cao thuế nặng, chế độ lao dịch nặng nề.
Thiên tai, mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra. Đời sống nhân dân cực khổ.
Quan lại từ trung ương đến địa phương ra sức bóc lột nhân dân. Chế độ phong
kiến thời Nguyễn thể hiện đặc điểm với bộ máy chính quyền gia tăng tính
chuyên chế, độc đoán, rơi vào sự khủng hoảng, bất ổn, loạn lạc không còn kỷ
cương phép nước.
Sau các hoạt động học của học sinh, giáo viên khái quát nội dung mục 1
“Tình hình xã hội và đời sống nhân dân” bằng sơ đồ sau.
10
Xã hội thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX.
Thống trị
Vua, quan lại,
địa chủ, cường hào
Quan
lại
tham
ô
Cường
hào
ức
hiếp
dân
Bóc lột
tô thuế,
lao
dịch
nặng nề
—
><
Bị trị
Nhân dân lao
động (nông dân)
Khổ cực
Thiên tai mất mùa,
bảo lụt, đói kém
Giáo viên đặt câu hỏi mở cho các nhóm học sinh: Nhìn vào sơ đồ hãy rút ra bài
học cho công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay là gì?
Sau khi chiếm lĩnh toàn bộ tri thức lịch sự, hiểu được bản chất sự kiện lịch
sử, hiện tượng lịch sử mục này, học sinh đã rút ra bài học thực tiễn:
- Đảng, Nhà nước, Chính Phủ chăm lo đời sống nhân dân, lấy dân làm gốc dễ,
mọi chính sách phát triển đều xuất phát và gắn quyền lợi với nhân dân.
- Xây dựng và phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc. Phát huy tính dân chủ nhân
dân, xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, dân làm chủ.
- Chống tham nhũng, tham ô, giải quyết khiếu nại của nhân dân kịp thời. Xây
dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, liêm khiết, chí, công, vô tư.
Phương pháp dạy-học trên sẽ phát huy năng lực nhận thức, thực hành bộ môn,
sáng tạo như xác định, làm rõ thông tin, phân tích các kiến thức lịch sử độc lập,
phát hiện các hạn chế trong tri thức lịch sử của các bạn khác đưa ra còn sai lệch,
hoặc thiếu thông tin so với bạn trong nhóm. Đây chính là yếu tố kết dính các
thành viên trong nhóm hoạt động hợp tác hiệu quả cao nhất, loại bỏ ý kiến chủ
quan không hiệu quả của cá nhân, tạo cho các em môi trường làm việc nhóm,
hợp tác nhóm chuyên nghiệp nhất, xử lý tình huống thực tiễn nhanh nhất và tính
ứng dụng cao nhất và đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn thị trường nhân lực hiện
nay cho đất nước, xuất khẩu lao động, bởi vì môi trường làm việc của các doanh
nghiệp, các công ty là môi trường làm việc nhóm chuyên nghiệp.
II.3.3. Sử dụng ca dao, đồ dùng trực quan và dạy học theo góc vào dạy-học
mục 2 “Phong trào đấu tranh của nông dân và binh lính” và mục 3 “Đấu
11
Tranh của các dân tộc ít người”.
Trong sách giáo khoa tách làm hai mục, tuy nhiên để tránh lặp lại hoạt động
dạy- học nhàm nhán, giáo viên kết hợp mục 2 và mục 3 vào một hoạt động dạyhọc chung. Giáo viên sử dụng ca dao.
"Khi nào dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”
“ Mười lăm năm đức chính có chi !
Kho hình luật vẽ nên hùm có cánh
Ba mươi tỉnh nhân dân đều oán
Tiếng oan hào kêu dậy đất không lung.”
“ Trên trời có ông sao Tua
Ở làng Nguyệt (Minh) Giám có vua Ba Vành
Phương Đông quật lũ hung tinh
Làm cho bảy viện tan tành ra tro.”[2], [7]
Lược đồ những nơi bùng nổ cuộc nổi dậy của nhân dân chống triều
Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.[4]
Trang này. Ca dao " Khi nào...ra tro" trích nguyên văn TLTK số 2, số 7. Lược đồ trích TLTK số 4.
12
Cao Bá Quát
Ảnh vẽ. Phan Bá Vành [6]
Để thực hiện hoạt động dạy-học, giáo viên chia cả lớp làm 2 góc chính và 4
góc nhỏ. Mỗi góc chính sẽ có 2 góc nhỏ cùng chung một hoạt động học. Sau đó
học sinh giữa các góc đổi vị góc của mình sang góc mới theo vòng tròn lần lượt
1->2->1. Các góc chính làm theo nhiệm vụ học tập như sau.
- Góc 1-Góc phân tích(gồm góc 1a và góc 1b). Sử dụng sách giáo khoa lịch sử
10 và học liệu “Ca dao trong lịch sử dân tộc."
+ Mục tiêu: Kể tên các cuộc đấu tranh, thời gian, hiểu biết các em về người lãnh
đạo các cuộc đấu tranh như Phan Bá Vành, Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát, Nông
Văn Vân, họ Quách, người Khơ Me, lực lượng tham gia, kết quả các cuộc đấu
tranh.
+ Nhiệm vụ: Đọc sách giáo khoa, các học liệu, hoàn thiện phiếu học tập.
Phiếu số 1.
Người lãnh đạo-lực Địa bàn hoạt
Tên khởi
Thời gian
Kết quả
lượng
tham
gia
nghĩa
động
13
- Góc 2- Góc Quan sát( gồm góc 2a và góc 2b)
+ Mục tiêu: Thông qua quan sát, đọc ca dao, lược đồ, tranh ảnh trên máy chiếu
nêu được vì sao các cuộc đấu tranh bùng nổ, nhận xét về địa bàn
các cuộc đấu tranh, nguyên nhân thất bại, ý nghĩa lịch sử các cuộc đấu tranh.
+ Nhiệm vụ: Quan sát, hoàn thiện phiếu học tập theo mẫu sau.
Trang này tranh ảnh tham khảo TLTK số 6
Phiếu số 2.
Nguyên nhân
bùng nổ
Nhận xét về địa
bàn
Nguyên nhân thất
bại
Ý nghĩa lịch sử
Các góc hoạt động học rất sôi nổi, các em rất hăng say làm việc và sẵn sàng
trao đổi thông tin với các bạn, khi một học sinh nào đó trình bày vấn đề của
mình còn thiếu sót, các em bổ sung kiến thức rất nhanh, nhận xét cách trình bày
rất mạch lạc, không khí học sôi động, thoải mái.
Phiếu số 1.
Tên khởi
nghĩa
Thời gian
Phan Bá 1
Vành 821- 1827
Xuất thân của Địa bàn hoạt động Kết quả
người lãnh đạolực lượng tham
gia
Nông dân
Nam Định, Thái
Bình, Hải Dương Thất bại
Cao Bá 1854- 1855
Quát
Nhà nho
Nông dân
Hà Tây, Hà Nội,Thất bại
Hưng Yên
Lê Văn
Khôi 1833- 1835
Quan lại
Binh lính
Phiên An
Gia Định
Thất bại
Cao Bằng
Thất bại
Nông Văn 1833 - 1835 Tù trưởng
Vân
Người Tày
Họ Quách 832 - 1838
Tù trưởng
Hòa Bình,
Người Mường Thanh Hóa
TâyThất bại
14
Người 1840 - 1848 Người Khơ me Tây Nam Kì
Khơ-me
Thất bại
Phiếu số 2.
Nguyên nhân
bùng nổ
Nhân dân căm
phẫn, bất bình, đời
sống
khốn khổ.
Nhận xét về địa
bàn
Nhỏ, lẻ, trãi khắc
cả nước, từ miền
núi đến đồng
bằng.
Nguyên nhân
thất bại
- Phân tán,
thiếu sự liên kết
lực lượng.
- Nhà Nguyễn
đàn áp.
Ý nghĩa lịch sử
-Thể hiện tinh
thần đấu tranh
anh dũng của
nhân dân chống
lại nhà Nguyễn.
- Báo trước sự
sụp đổ của nhà
Nguyễn.
Qua phiếu học tập của học sinh, giáo viên đặt câu hỏi cho tất cả các học sinh
ở góc phân tích và góc trải nghiệm cùng chung một câu hỏi:
Các cuộc đấu tranh có điểm gì giống và khác nhau, đặc điểm các cuộc đấu
tranh dưới thời Nguyễn ở nữa đầu thế kỷ XIX? Sau thảo luận, đại diện các góc
trả lời được câu hỏi.
Giống nhau: Nổ ra rầm rộ rộng khắp, tinh thần đấu tranh anh dũng của các
tầng lớp chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn, kết quả thất bại.
Khác nhau: Khởi nghĩa Phan Bá Vành là đại diện nông dân. Khởi nghĩa
Nông Văn Vân là đại diện dân tộc ít người. Cao Bá Quát: Nho sĩ. Lê Văn Khôi:
Thổ hào. Thời gian cách xa nhau. Địa bàn đồng bằng, miền núi.
Đặc điểm các cuộc đấu tranh: Phong trào bùng nổ sớm ngay khi nhà Nguyễn
lên cần quyền. Nổ ra liên tục, số lượng lớn, thời gian kéo dài, thu hút đông đảo
nhân dân tham gia, đều thất bại.
Học theo góc người học được lựa chọn hoạt động và phong cách học với cơ
hội khám phá, mở rộng, phát triển, sáng tạo, tự áp dụng và trải nghiệm, nâng cao
hứng thú, cảm giác thoải mái, đảm bảo học sâu, hiệu quả bền vững, tương tác
mang tính cá nhân cao giữa giáo viên và học sinh, tránh tình trạng người học
phải chờ đợi. Do đó các em đã nhanh chóng hoàn thiện phiếu học tập của mình.
[5]
Như vậy với phương pháp dạy-học này đã chú trọng phát huy tính tính cực,
chủ động, sáng tạo của người học, theo đó người học thực hiện các nhiệm vụ
khác nhau tại vị trí cụ thể trong không gian lớp học, đáp ứng nhiều phong cách
học khác nhau, phù hợp đặc trưng bộ môn, đặc điểm tâm sinh lí, năng lực tiếp
thu tri thức của học sinh. Đồng thời thể hiện năng lực nhận xét, đánh giá của học
sinh từ bài học, phát huy hết sở trường, sở đoạn, biết lựa chọn vấn đề để giải
15
quyết tình huống thực tiễn trong cuộc sống một cách độc lập, sáng tạo. Từ
những yếu tố trên đã nâng cao được hiệu quả bài học.
II.3.4. Phần sơ kết bài học, giáo viên sử dụng câu hỏi mở, phát huy năng lực
vận dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống, giải quyết tình huống thực tiễn.
Sau khi học bài này, các em có ước mơ làm những người “ Đầy tớ của nhân
dân không”? Nếu là người tham gia vào bộ máy chính quyền nhà nước với tư
cách một cán bộ của tổ chức Đoàn thể, tổ chức xã hội, tổ chức chính quyền, em
sẽ làm gì để đảm bảo đời sống nhân dân ấm no, hạnh phúc, dân chủ, bình đẳng?
Trang này đoạn " Học theo góc... của mình" tham khảo TLTK số 5.
Với câu hỏi này các em thấy khá thú vị, vì các em lâu nay mơ ước với nhiều
nghành nghề khác nhau, nhưng ước mơ làm người “ Đầy tớ của nhân dân” các
em đã mơ ước nhưng không có cơ hội nói lên và thể hiện ước mơ của mình và
đây chính là cơ hội các em thể hiện tâm tư, nguyện vọng, ước mơ của mình, do
đó các em rất tự tin nêu lên chính kiến của mình và điểm chung của các em đều
thể hiện được đó là: Đưa ra các giải pháp xóa đói giảm nghèo, không tham ô,
không tham nhũng, sống liêm khiết, tận tụy sẵn sàng giúp dân khi người dân gặp
khó khăn, phải thăm dò ý kiến của dân chúng, phải lấy dân làm gốc để hoạch
định chính sách phát triển mọi mặt của đất nước.
II.4. Hiệu quả của phương pháp sử dụng.
Để xác định tính hiệu quả của phương pháp dạy-học, tôi đã tiến hành dạy-học
đối chứng và thực nghiệm tại các lớp 10C4, 10C2 Trường THPT Thọ Xuân 5.
Đối với lớp 10C4(lớp đối chứng) tôi dạy theo các phương pháp sử dụng máy
chiếu thay cho bảng đen, cho học sinh câu hỏi theo trình tự nội dung, học sinh
trả lời, giáo viên nhận xét, chốt ý sau đó cho học sinh nhìn máy chiếu chép nội
dung bài học. Cách dạy học này chỉ thay thế “đọc-chép” sang “nhìn- chép”. Vì
thế không tạo hứng thú, không gây chú ý bài học cho học sinh, gây nên hiện
tượng chán học lịch sử cho học sinh và hiệu quả bài học không cao.
Đối với lớp 10 C2( lớp thực nghiệm) tôi sử dụng phương pháp dạy ở trên.
Qua thực nghiệm tôi nhận thấy rằng: Sử dụng ca dao và đồ dùng trực quan vào
dạy-học lịch sử đáp ứng được yêu cầu trong dạy-học lịch sử hiện nay là đào tạo
ra con người có năng lực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, có trí tuệ, có tay nghề
cao, năng động, nhạy bén, có phẩm chất, hội tụ đủ yếu tố chân-thiện-mĩ, thực
tiễn cao, phát triển óc sáng tạo, năng lực hợp tác nhóm, năng lực giao tiếp, năng
lực xã hội, năng lực tay nghề, không khí học tập thoải mái, học sinh lựa chọn
góc học tập phù hợp với năng lực của mình mà còn tạo sự hợp tác tương tác giữa
người dạy với người học, nâng cao hiệu quả bài học.
Sau khi dạy-học đối chứng và thực nghiệm, tôi có: Bảng phân loại theo chất
lượng dạy-học, kết quả học sinh đạt được như sau.
Phân loại
Lớp 10C4(Đối chứng)
36 học sinh
Lớp 10C2(Thực nghiệm)
36 học sinh
16
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
0
4
12
20
%
0
11
33
56
Số lượng
12
14
10
0
%
33
39
28
0
Nhìn vào bảng phân loại theo chất lượng dạy-học, kết quả học sinh đạt được,
ta thấy ở lớp 10C4(lớp đối chứng) học sinh giỏi không đạt em nào, chỉ chiếm
0%, học sinh khá chỉ có 04 em, chiếm có 11% trong khi đó ở lớp 10C2( lớp đối
chứng) học sinh khá, giỏi chiếm số lượng lớn là 72%, gấp hơn 6, 5 lần so với
10C4( lớp đối chứng). Học sinh yếu, kém lớp 10C2 không có học sinh nào trong
khi đó lớp 10C4 có 20 học sinh, chiếm 56% chiếm hơn nữa lớp.
Như vậy bảng phân loại chất lượng dạy-học đã chứng minh: Sử dụng ca dao
và đồ dùng trực quan vào dạy-học sẽ đem lại hiệu quả bài học rất cao, phát huy
tính tích cực, chủ động tự học, sáng tạo của học sinh, tăng thêm kỹ năng, kỹ xảo
về khả năng thực hành bộ môn, bồi dưỡng phát huy năng lực hội họa, diễn đạt,
bình luận, thuyết trình, năng lực giao tiếp, hợp tác có hiệu quả trong hoạt động
nhóm. Đồng thời giáo dục học sinh biết yêu gia đình, quê hương đất nước, nhân
ái khoan dung, trung thực, tự trọng, chí công, vô tư, biết tự lập, tự tin, tự chủ,
luôn luôn có trách nhiệm với bản thân, cộng đồng, hoàn thành nghĩa vụ của
người học sinh.
17
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
III.1. Kết luận.
Ca dao kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy- học lịch sử không
chỉ góp phần tạo biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngoài sự
kiện, mà còn đi sâu vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự
kiện, tạo sự chú ý, hứng thú cho học sinh, tiếp thu kiến thức, giảm tính trừu
tượng của nội dung bài học, hình thành, rèn luyện phát triển các năng lực
của học sinh.
Qua sáng kiến kinh nghiệm và tiến hành thực nghiệm dạy-học, bài học
cần rút ra đó là:
- Sử dụng máy chiếu đa năng chỉ là phương tiện hỗ trợ dạy-học.
- Biết chọn lựa ca dao phù hợp nội dung dạy học lịch sử, phản ánh đúng lịch
sử, tránh những câu không liên quan đến nội dung dạy-học, mang tính sáo
rỗng hay thiếu tính khánh quan, chân xác lịch sử.
- Giáo viên biết sử dụng câu hỏi mở, liên hệ thực tiễn để học sinh vận dụng
vào giải quyết tình huống trong đời sống hằng ngày.
- Vận dụng phương pháp dạy học tích cực , kỹ thuật dạy học tích cực hợp lí
từng bài, từng mục sẽ đem lại hiệu quả cho bài học.
Do đó sử dụng Ca dao kết hợp với đồ dùng trực quan vào dạy- học bài “Tình
hình xã hội ở nữa đầu thế kỷ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân” là
phương pháp có tính thực tiễn cao, phương pháp này không đòi hỏi về điều
kiện cơ sở vật chất, sự khác biệt giữa các vùng miền, vì vậy dễ triển khai, ứng
dụng dạy-học trong tất cả các trường, lớp THPT và phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí học sinh ở tất cả các vùng miền khác nhau trên cả nước.
III.2. Kiến nghị.
Sau khi làm đề tài này, tôi xin được phép mạnh dạn đề xuất với những nhà
làm giáo dục, cần đầu tư trang thiết bị dạy học hơn nữa cho các trường THPT,
đặc biệt các máy chiếu đa năng phục vụ cho công tác dạy-học và kèm theo đó là
hướng dẫn cụ thể chi tiết hơn về nghiệp vụ, kỹ năng sử dụng máy chiếu đa năng
với chức năng làm phương tiện hỗ trợ dạy học.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
2. Phan Ngọc Liên(chủ biên), Sách giáo khoa Lịch sử 10-chương trình cơ bản,
NXB Giáo dục, 2006.
3. K.Đ.U. Sin-xki, Bản dịch tiếng Pháp, tập 6, trang 265-266.
4. Trịnh Tiến Thuận-Nguyễn Xuân Trường-Nguyễn Nam Phóng-Lê Hiến
Chương-Phan Ngọc Huyền, Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong sách giáo
khoa Lịch sử 10, NXB Hà Nội, 2007.
5. Tài liệu tập huấn Bộ GD-ĐT, Phương pháp dạy học và các kỹ thuật dạy học
tích cực.
6. Nguồn tham khảo trên Google. .
7. Tài liệu, Ca dao trong các bài giảng lịch sử dân tộc.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 5 năm 2017
CAM KẾT KHÔNG COPY
Lê Thị Xuân
19
20