Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và nhân giống tràm có hàm lượng và chất lượng tinh dầu cao tại ba vì hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 70 trang )

Bộ Giáo dục và Đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

Trường đại học lâm nghiệp
-------------------------------

Nguyễn thị thanh hường

Khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và nhân giống
tràm có hàm lượng và chất lượng tinh dầu cao tại
ba vì- hà nội

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Hà Tây - 2008


Bộ Giáo dục và Đào tạo

bộ nông nghiệp và ptnt

Trường đại học lâm nghiệp
------------------------------

Nguyễn thị thanh hường

Khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và nhân giống
tràm có hàm lượng và chất lượng tinh dầu cao tại
ba vì- hà nội


Chuyên ngành Lâm học
Mã số: 60. 62. 60

luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp

Người hướng dẫn khoa học:
GS.ts. lê đình khả

Hà Tây - 2008


Lời cảm ơn
Khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và nhân giống tràm có hàm lượng
và chất lượng tinh dầu cao tại Ba Vì- Hà Tây được thực hiện để hoàn thành
chương trình đào tạo thạc sỹ của Trường đại học lâm nghiệp. Đây cũng là một
nội dung trong đề tài cấp bộ Nghiên cứu chọn giống, kỹ thuật gây trồng và
chế biến tràm có năng suất và chất lượng tinh dầu cao do GS.TS Lê Đình
Khả là chủ nhiệm.
Trong quá trình thực hiện luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu
của Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản, Trung tâm nghiên cứu giống
cây rừng (Viện lâm nghiệp Việt Nam), của thầy hướng dẫn khoa học, cùng
các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới ban lãnh đạo, cùng tập thể cán bộ
công nhân viên Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản, Trung tâm Nghiên
cứu giống cây rừng (Viện Lâm nghiệp Việt Nam) đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ cho tôi trong quá trình thực hiện thí nghiệm, thu thập tài liệu, số liệu,
xin cảm ơn GS.TS Lê Đình Khả người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin cảm ơn Th.S Nguyễn Đình Hải, Th.S Mai
Trung Kiên về những ý kiến góp ý quý báu, Th.S Nghiêm Quỳnh Chi đã
hướng dẫn tôi phương pháp xác định hàm lượng tinh dầu trong những ngày

đầu thực hiện.
Tôi cũng xin cảm ơn T.S Nguyễn Văn Thuận Viện phó viện Dược liệu
kiêm trạm trưởng Trạm cây thuốc Văn Điển đã tạo điều kiện cho tôi thu thập
mẫu lá. Cảm ơn Viện hoá học các hợp chất thiên nhiên cùng Viện Dược liệu
đã cung cấp cho tôi số liệu phân tích thành phần hoá học trong tinh dầu, đồng
thời xin cảm ơn các thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ tôi trong
quá trình suốt quá trình thực hiện luận văn.


Mặc dù rất cố gắng song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong các thầy cô giáo, các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp giúp đỡ.
Hà Nội, ngày 12 tháng 9 năm 2008

Nguyễn Thị Thanh Hường


Mục Lục
Trang
Lời cảm ơn
Danh mục bảng
Danh mục hình
Đặt vấn đề

1

Chương I- Tổng quan vấn đề ngiên cứu

3

1.1. Cơ sở khoa học và ý nghĩa của khảo nghiệm xuất xứ, chọn


3

giống và nhân giống bằng hom
1.2. Các loài tràm sản xuất tinh dầu

6

1.3. Khảo nghiệm, chọn giống và nhân giống tràm

10

1.3.1. Trên thế giới

10

1.3.1. ở Việt Nam

13

1.4. Nghiên cứu nhân giống tràm bằng hom ở Việt Nam

19

Chương II- Mục tiêu, nội dung, vật liệu, địa điểm

21

và phương pháp nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu


21

2.2. Nội dung nghiên cứu

21

2.3.Vật liệu nghiên cứu

21

2.4. Địa điểm nghiên cứu

22

2.5. Phương pháp nghiên cứu

23

2.5.1 Phương pháp luận

23

2.5.2. Bố trí thí nghiệm

24

2.5.3 Thu thập số liệu

25


2.5.4. Xác định khối lượng lá, hàm lượng và thànhphần tinh dầu

26

2.5.5. Chọn giống tràm có triển vọng cho sản xuất tinh dầu

29

2.5.6. Tạo chồi và giâm hom

29


2.5.7. Xử lý số liệu

30

Chương III- Kết quả nghiên cứu và thảo luận

32

3.1. Sinh trưởng và chất lượng cây của các xuất xứ tràm

32

3.2. Khối lượng lá tươi của các xuất xứ tràm

34


3.3. Tương quan giữa sinh trưởng đường kính gốc

36

và khối lượng lá của các xuất xứ
3.4. Hàm lượng tinh dầu của các xuất xứ tràm

37

3.5. Chất lượng tinh dầu của các xuất xứ

39

3.6. Đánh giá xuất xứ theo các chỉ tiêu tổng hợp

41

3.7. Hàm lượng và chất lượng tinh dầu của

42

một số mẫu tràm ở các nơi khác nhau
3.8. Chọn lọc cây trội

43

3.8.1. Chọn lọc cây trội trong xuất xứ Q4

44


3.8.2. Chọn lọc cây trội trong xuất xứ Q11 tại khu khảo nghiệm

47

3.8.3. Chọn lọc cây trội Tràm trà

48

3.9. Nghiên cứu giâm hom

51

3.9.1. ảnh hưởng của hormon và nồng độ hormon đến

51

khả năng ra rễ của Tràm năm gân
3.9.2. Khả năng ra rễ ở các xuất xứ Tràm năm gân

53

Chương IV- Kết luận, tồn tại

56

4.1. Kết luận

56

4.2. Tồn tại


58

Tài liệu tham khảo

59

Phụ lục


Danh mục bảng
Bảng
Tên bảng
Trang
2.1. Số hiệu, vị trí địa lý của các xuất xứ tràm trong khảo nghiệm
22
tại Ba Vì và ở một số nơi
3.1. Sinh trưởng và chất lượng thân cây của các xuất xứ tràm tại
32
khu khảo nghiệm
3.2. Khối lượng lá tươi của các xuất xứ tràm tại Ba Vì
35
3.3. Hệ số tương quan giữa Do và khối lượng lá tươi
37
3.4. Hàm lượng tinh dầu của các xuất xứ tràm ở khu khảo
38
nghiệm tại Ba Vì
3.5. Tỷ lệ một số chất trong tinh dầu của các xuất xứ tràm ở khu
40
khảo nghiệm tại Ba Vì

3.6. Bảng tổng hợp các chỉ tiêu tinh dầu tràm tại Ba Vì
41
3.7. Hàm lượng, chất lượng tinh dầu của một số mẫu tràm ở các
43
nơi khác nhau
3.8. Khối lượng, chất lượng tinh dầu của 17 cây cá thể được chọn
45
thuộc xuất xứ Q4 ở vườn ươm Ba Vì
3.9. Khối lượng, chất lượng tinh dầu của 15 cây cá thể được chọn
46
thuộc xuất xứ Q4 tại khu khảo nghiệm Ba Vì
3.10. Khối lượng, chất lượng tinh dầu của 9 cây cá thể được chọn
48
thuộc xuất xứ Q11 tại khu khảo nghiệm Ba Vì
3.11. Khối lượng, chất lượng tinh dầu các cây cá thể được chọn
49
thuộc xuất xứ Al1 ở vườn ươm Ba Vì
3.12. Hàm lượng, chất lượng tinh dầu của 12 cá thể Tràm trà ở
50
Văn Điển
3.13. Khả năng ra rễ của Tràm năm gân ở các công thức xử lý
52
khác nhau
3.14. Khả năng ra rễ của các xuất xứ Tràm năm gân
54


Danh mục hình
Hình


Tên hình

Trang

2.1.

Chưng cất tinh dầu tràm tại Ba Vì

28

3.1.

Xuất xứ Q11 (trái) và xuất xứ Q3 (phải) của Tràm năm gân ở

34

khu khảo nghiệm tại Ba Vì
3.2.

Tái sinh chồi ở Tràm năm gân sau một tháng tuổi (trái) và bốn

36

tháng tuổi (phải)
3.3.

Khu quần thể nền chọn giống Tràm trà ở Ba Vì

51


3.4.

Giâm hom Tràm năm gân

53

3.5.

Cây hom Tràm năm gân

53

3.6.

Giâm hom xuất xứ Tràm năm gân

55

3.7.

Cây hom các xuất xứ Tràm năm gân

55


1

Đặt vấn đề
Tinh dầu tràm là một sản phẩm hiện đang có giá trị thương mại trên thị
trường thế giới và được coi là sản phẩm tự nhiên không độc và an toàn trong

công nghiệp dược cũng như công nghiệp thực phẩm. Tinh dầu tràm là chất sát
trùng mạnh, chữa cảm cúm, hen suyễn, đau bụng, co thắt dạ dày và còn dùng
làm thuốc bôi chống viêm, chữa vết bỏng, xoa bóp trị đau nhức khớp xương và
thần kinh (Võ Văn Chi, 1997, Lã Đình Mỡi, 2003).
Hai thành phần có tác dụng chữa bệnh và hương liệu cao nhất của tinh dầu
tràm là 1,8-cineole và terpinel-4-ol. Ngoài ra, trong tinh dầu tràm còn hàng chục
hợp chất khác có giá trị dược liệu và mỹ phẩm như linalool, citronellol...
Trong các loài tràm có khả năng cho sản xuất tinh dầu thì Tràm năm gân (M.
quinquenervia), Tràm trà (M. alternifolia) và Tràm cajuputi (M. cajuputi) đang
được chú ý nhất. Theo giới thiệu của hãng R&Ks Cosmatic ở ấn độ (2006) và
hãng Nature's Gift Aromatherapy Products (2007) thì tinh dầu Tràm năm gân là
một trong những loại tinh dầu có giá cao tương đương tinh dầu Tràm trà và có thể
cao gấp 4 lần tinh dầu sả.
Một số nước trên thế giới như Australia, Indonesia, Papua New Guinea việc
trồng, khai thác chế biến tinh dầu tràm đã rất phát triển. Nhờ chọn lọc những
giống tràm có khả năng cung cấp tinh dầu với năng suất và chất lượng cao đã
góp phần to lớn đem lại hiệu quả kinh tế. ở Australia, đến năm 2001, chỉ riêng
Tràm trà đã có diện tích trồng đến vài nghìn ha và giá trị sản lượng của nó đã lên
đến hơn 16 triệu đô la Mỹ hàng năm (Doran et al., 2002) [21]. Indonesia là một
trong những nước chính cung cấp tinh dầu tràm và mỗi năm nước này có thể sản
xuất gần 400 tấn tinh dầu tràm (Susanto et.al., 2003) [30]...
ở nước ta, hiện nay, việc trồng và kinh doanh tràm lấy gỗ cũng như lấy tinh
dầu hiệu quả kinh tế còn thấp. Rừng tràm trước đây đã từng chiếm một diện tích
241000 ha tập trung chủ yếu ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (Nguyễn Bội Quỳnh,
2000)[2]. Nhưng trong vài năm gần đây diện tích rừng tràm ở nước ta liên tục


2

giảm mạnh do một số nguyên nhân mà một trong những nguyên nhân đó là do

nhu cầu cọc cừ ngày càng giảm dẫn đến Tràm cừ liên tục mất giá. Vì vậy, việc
kinh doanh Tràm cừ hiện nay chủ yếu được dùng để làm gỗ nguyên liệu giấy.
Bên cạnh đó, sản phẩm tinh dầu là một thế mạnh để phát triển rừng tràm lại chưa
được chú ý khai thác. Một số nơi ở nước ta như ở Phú Lộc (Thừa Thiên Huế) lâu
nay đã có nghề chưng cất tinh dầu từ Tràm cajuputi, nhưng giá trị kinh tế thấp do
hàm lượng và chất lượng tinh dầu chưa cao (Phùng Cẩm Thạch, 2005) [16].
Do đó, để phát triển rừng tràm và việc kinh doanh tinh dầu tràm có hiệu quả
kinh tế cần phải nghiên cứu chọn lọc những giống tràm có năng suất, chất lượng
tinh dầu cao cho từng vùng, đáp ứng yêu cầu của thị trường để đưa vào sản xuất.
Năm 2005, Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản phối hợp với Trung
tâm giống cây rừng (Viện Lâm nghiệp Việt Nam) đã tiến hành xây dựng một
khảo nghiệm xuất xứ tràm tại Cẩm Quỳ (Ba Vì, Hà Nội). Có thể nói đây là bộ
giống đầy đủ nhất các xuất xứ của loài Tràm năm gân từ trước tới nay được khảo
nghiệm cho mục đích lấy tinh dầu.
Đề tài Khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và nhân giống tràm có hàm
lượng và chất lượng tinh dầu cao tại Ba Vì-Hà Nội được thực hiện là cơ sở
ban đầu cho việc chọn lọc và nhân giống những giống tràm có năng suất và chất
lượng tinh dầu cao ở các nơi khác.


3

Chương I

tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở khoa học và ý nghĩa của khảo nghiệm xuất xứ, chọn giống và
nhân giống bằng hom.
Khả năng cung cấp tinh dầu của mỗi giống tràm phụ thuộc vào yếu tố di
truyền và điều kiện hoàn cảnh cũng như biện pháp thâm canh. Nghiên cứu khảo
sát về hàm lượng và chất lượng tinh dầu tràm cho thấy không những các loài

tràm có hàm lượng và chất lượng tinh dầu khác nhau mà ngay trong một loài
tràm các xuất xứ và các cá thể khác nhau cũng có hàm lượng và chất lượng chất
lượng tinh dầu khác nhau (Brophy và Doran ,1996) [20]. Vì thế nghiên cứu
nghiên cứu khả năng cung cấp tinh dầu của từng giống tràm để chọn lọc giống là
một việc làm cần thiết.
Các loài cây rừng trải qua hàng ngàn năm sinh sống ở các vùng khác nhau,
trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên và tiến hoá lâu dài đã phát triển một vốn biến
dị vô cùng phong phú. Nhiệm vụ của các nhà chọn giống là biết đánh giá, chọn
lọc trong đó những dạng biến dị di truyền thích hợp với điều kiện sinh thái của
mỗi vùng. Loài có phạm vi phân bố càng rộng trên nhiều điều kiện địa lý- sinh
thái khác nhau thì càng có nhiều biến dị di truyền và do đó càng có nhiều khả
năng để lựa chọn những biến dị di truyền phù hợp với mục tiêu chọn giống ở
từng khu vực (Lê Đình Khả, Dương Mộng Hùng, 2003).
Chỉ thông qua khảo nghiệm nhà chọn giống mới biết được một cách chắc
chắn xuất xứ thích hợp nhất để sử dụng cho một chương trình trồng rừng trên
một vùng sinh thái nhất định, đặc biệt là khi đưa cây từ nơi khác đến.
Khảo nghiệm loài và xuất xứ là cách lợi dụng các biến dị di truyền ở mức độ
loài và dưới loài sẵn có trong tự nhiên một cách có cơ sở khoa học, thông qua
thực nghiệm gây trồng trong những điều kiện mới. Đây là phương pháp chọn
giống nhanh nhất và rẻ nhất. Chình vì thế mà Zobel và Talbert (1984) đã cho
rằng bất luận kỹ thuật chọn giống tinh vi như thế nào, tăng thu lớn nhất, nhanh


4

nhất và rẻ nhất trong các chương trình cải thiện giống cây rừng là sự đảm bảo sử
dụng nguồn hạt thích hợp nhất cho trồng rừng, đặc biệt là khi gây trồng cây
ngoại lai, Sử dụng xuất xứ thích hợp là chìa khoá cho sự thành công của một
chương trình trồng rừng cây ngoại lai. Anderson (1966) cho rằng một xuất xứ
đáng tin cậy sẽ sản xuất ra một giống cây rừng với 90% khả năng chắc chắn hơn

là một xuất xứ xuất sắc song chỉ có 50% khả năng.
Theo Willan (1988) thì việc chọn xuất xứ trong các loài có biến dị lớn có thể
cho tăng thu 15-30 %, trong các loài có biến dị trung bình là 5-15%, còn trong
các loài có ít biến dị là 1-5%. Vì vậy, điều quan trọng khi bắt đầu khảo nghiệm
xuất xứ là phải nghiên cứu kỹ khả năng biến dị và đặc điểm phân bố của loài.
Những loài có phạm vi phân bố hẹp thì rất ít có khả năng chọn được những xuất
xứ có giá trị.
Mục tiêu của các chương trình cải thiện giống là thu nhận được một lượng
đáng kể tăng thu di truyền càng nhanh và càng rẻ càng tốt, đồng thời duy trì
được một vốn di truyền phong phú để bảo đảm tăng thu trong tương lai. Để nhận
được những tăng thu như vậy phải dựa trên các phương pháp chọn lọc nhằm chọn
ra những cá thể đáp ứng tốt nhất những yêu cầu của nhà chọn giống để dùng như
những cây bố mẹ trong các chương trình chọn giống và sản xuất hạt.
Sau khi đã chọn được loài và xuất xứ đáp ứng mục tiêu kinh tế và phù hợp
với mỗi vùng thì chọn lọc cây trội là phần then chốt của bất kỳ một chương trình
nào về cải thiện giống cây rừng. Có cây trội được chọn lọc cẩn thận, được khảo
nghiệm hậu thế để đánh giá từ đó xây dựng các vườn giống để cung cấp giống
thì năng suất rừng mới từng bước được nâng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng
tăng của sản xuất xã hội. Cây trội là nền tảng của một chương trình chọn giống.
Chọn lọc cây trội là phương pháp lợi dụng biến dị cá thể tự nhiên trong quần
thể để nâng cao sản lượng đời sau so với giống đại trà. Tăng thu di truyền khi
chọn lọc cá thể có thể đạt 25-50%, mức độ biến động giữa các cá thể trong quần
thể càng lớn thì tăng thu di truyền đạt được sẽ càng cao.


5

Các cây trội đã chọn có thể được dùng để lấy giống phát triển trực tiếp vào
sản xuất. Còn nếu biết phối hợp với các phương pháp chọn giống khác như lai
giống, gây đột biến sẽ mang lại hiệu quả cao hơn.

Quá trình phát triển cá thể của mỗi sinh vật do sự tác động qua lại giữa kiểu
gen và điều kiện sống. Không phải tất cả các gen có trên bộ gen của tế bào hoạt
động đồng thời và liên tục mà vào từng thời gian nhất định sẽ có những gen hoạt
động trong những điều kiện môi trường nhất định và được điều khiển theo một
chương trình phù hợp với sự phát triển cá thể đặc trưng cho từng loài. Cây rừng
là cây lâu năm, quá trình phát triển cá thể của được thể hiện trong các giai đoạn
khác nhau và có liên quan chặt chẽ với nhau. Vì thế, việc chọn giống cây rừng có
thể tiến hành ở giai đoạn tuổi non. Đây là phương pháp chọn lọc sớm đang được
một số nước trên thế giới áp dụng trong chọn giống cây rừng.
Chaperon (1984) cho rằng chiến lược cải thiện giống cây rừng phải tính tới
việc sử dụng thành thạo nhân giống hom mà ảnh hưởng của nó sẽ thay đổi theo
mức độ cải tiến kỹ thuật giâm hom.
Nhân giống bằng hom là một phương thức nhân giống dựa trên cơ sở của
phân bào nguyên nhiễm, lối phân bào về cơ bản không có sự tổ hợp lại của thể
nhiễm sắc trong quá trình phân chia vì thế đây là phương thức nhân giống truyền
đạt các biến dị di truyền của cây mẹ cho cây hom. Cây hom không những giữ
được các hình thái giải phẫu của cây mẹ, giữ được các biến di truyền mong muốn
mà còn giữ được các biến dị di truyền về sinh trưởng nhanh và cho năng suất cao
của chúng. Nhân giống bằng hom là phương thức giữ được ưu thế lai đời F1 và
khắc phục được hiện tượng phân ly đời F2, nhân giống hom làm rút ngắn chu kỳ
sinh sản, rút ngắn thời gian thực hiện chương trình cải thiện giống cây rừng và là
một phương thức nhân nhanh các loài cây quý hiếm đang bị khai thác cạn kiệt.
Đây cũng là phương thức góp phần bảo tồn nguồn gen cây rừng và nhân giống
bổ sung cho các loài cây khó thu hái và bảo quản hạt (Lê Đình Khả, Dương
Mộng Hùng, 2003).


6

Vì thế, nhân giống bằng hom là một trong những công cụ có hiệu quả nhất

cho chọn giống cây rừng, là phương thức đang được áp dụng phổ biến để nhân
giống các dòng vô tính có năng suất cao.
1.2. Các loài tràm sản xuất tinh dầu
Tràm (Melaleuca sp.) là chi thực vật có đến 230 loài, phân bố chủ yếu ở
Australia, Papua New Guinea, Indonesia, Việt Nam và một số nước Đông Nam
á. Đây là chi có phân bố rộng, có thể gặp trên nhiều loại đất ở vùng nhiệt đới và
cận nhiệt đới.
Tràm là một chi thực vật có tính thích ứng cao với điều kiện đất đai đa dạng,
có thể sinh trưởng trên đất nghèo dinh dưỡng, đặc biệt là trên các vùng bán ngập.
Rừng tràm là hệ sinh thái có giá trị cao cả về kinh tế và môi sinh ở các vùng đất
ngập phèn ven biển, ven các cửa sông và cả trên các đồi đất lateritic cằn cỗi (Lã
Đình Mỡi, 2003) [4].
Nhiều loài tràm là cây đa tác dụng từ lấy gỗ đến tinh dầu, vỏ và hoa, cũng như
làm cây cảnh ven đường. Trong đó tinh dầu tràm là sản phẩm có giá trị dược phẩm
và mỹ phẩm được chú ý khai thác.
Tinh dầu tràm được chứa chủ yếu trong lá. Hàm lượng tinh dầu trong lá cũng
như thành phần hoá học của tinh dầu biến động trong giới hạn rất rộng. Chúng
phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố di truyền, điều kiện sinh thái và thời vụ thu hái [4].
Các loài tràm được dùng chủ yếu hiện nay là Tràm trà, Tràm năm gân và Tràm
cajuputi. Đây là những loài có hàm lượng tinh dầu cao nhất và đang được trồng
như những loài cây sản xuất tinh dầu chủ yếu.
Tràm trà (M. alternifonia) có phân bố tự nhiên ở vùng bờ biển phía Bắc New
South Wales, là loại cây nhỏ cao không quá 6m, vỏ bong ra từng lớp mỏng, là hẹp
hình lông chim, có màu xanh sáng. Nhiệt độ trung bình thích hợp 17-31oC, mùa
đông 6-21oC, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1000-1600 mm, chúng là cây
chịu được với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau, kể cả những vùng có điều kiện
khắc nghiệt. Chúng có thể sinh trưởng trên đất sét, đất mặn ven biển, đất ngập


7


nước và đất đồi núi... Có độ pH từ 4,5-7 và ở độ cao từ 0 đến 300m so với mặt biển
[15].
Wiliam (1988) so sánh các loại tinh dầu của Tràm trà và chia chúng thành 3
kiểu có thành phần chính khác nhau. Kiểu 1 có thành phần 1.8-cineole thấp (37%) và terpinen-4-ol cao (38,2-52,9%), kiểu 2 có

1.8-cineole trung bình

(30,3%) và terpinen-4-ol trung bình (18%), kiểu 3 thành phần 1.8-cineole cao
(64,1%) và terpinen-4-ol thấp (1,7)% [10].
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Nghi (2000) về tinh dầu trong lá Tràm trà tại
một số điểm ở miền Bắc nước ta cho thấy sau 3 năm hàm lượng tinh dầu đã khá
ổn định, tỷ lệ terpinel-4-ol có thể đạt 33-43%. Hàm lượng tinh dầu có thể đạt
1,75-2,20% và thay đổi theo mùa, theo tuổi cây và theo điều kiện sinh thái nơi
gây trồng [10]. Kết quả phân tích năm 2004 cho mẫu tinh dầu chưng cất từ lá
Tràm trà khác, trồng tại Việt Nam, do Viện Hoá học các hợp chất thiên nhiên
tiến hành, lại thấy tỷ lệ terpinel-4-ol chỉ đạt 11,9%, trong khi tỷ lệ 1,8-cineole lại
đến 40,7% (Lê Đình Khả, Nghiêm Quỳnh Chi, 2004).
Tràm trà được dùng chủ yếu để sản xuất tinh dầu có tỷ lệ terpinel 4-ol cao
nhất và được coi là loài cây thuộc nhóm bí mật quốc gia của Australia. 97% tinh
dầu thương phẩm của nước này được sản xuất từ các khu trồng Tràm trà ở vùng
ven biển New South Wales và Atherton của Queensland.
Tràm năm gân (M. quinquenervia) là cây gỗ có kích thước từ nhỏ đến trung
bình, thường cao 8m-12m, nhưng khoảng biến động là 4m-25m tuỳ thuộc vào
điều kiện sinh trưởng của địa phương. Thân thẳng vừa đến cong, tán cây nhỏ và
thưa hay rậm vừa. Vỏ cây dày, có màu nhạt và có từng lớp như giấy dính liền nhau
hoặc thành từng mảng. Trên những thân lớn vỏ cây thường bị xù xì. Lá có màu
xanh sậm, cứng, hẹp ở hai đầu của lá. Đây là loài cây mọc nhanh trung bình, chịu
được cháy rừng và phát triển ở những nơi đất nghèo chất dinh dưỡng, bị ngập nước
liên tục hay gián đoạn ở vùng cận nhiệt đới. Loài này có thể chịu được mặn vừa.

Hầu hết những loài này được sử dụng để làm củi, cung cấp gỗ làm cừ, cọc, nó
cũng là nguồn cung cấp mật ong và tinh dầu tốt [15].


8

Tràm năm gân có phân bố tự nhiên ở vùng duyên hải miền Đông Australia,
Papua New Guinea và Irian Jaya ở Indonexia, cũng như ở New Caledonia.
ở Australia và Papua New Guinea loài này chỉ xuất hiện ở những vùng đất
thấp có độ cao dưới 100m nhưng ở New Caledonia thì nó hình thành những quần
thụ ở độ cao 900-1000m, phần bố ở Vĩ độ 8-34o Nam, độ cao thường tập trung ở
những nơi gần mực nước biển đến 100m, giới hạn gần mực nước biển đến 1000m.
Nhiệt độ trung bình tối cao của tháng nóng nhất là 26oC ở phía Nam và 34oC ở
phía Bắc. Nhiệt độ trung bình tối thấp của tháng lạnh nhất là 4-20oC khu vực
duyên hải có vài ngày nhiệt độ lên tới trên 38oC. Lượng mưa trung bình hàng năm
là 900-1250 mm/năm, song có thể sống ở nơi có lượng mưa trung bình 400-650
mm/năm.
ở Papua New Guinea Tràm năm gân thường xuất hiện trên đất sét phù sa giàu
hữu cơ, không ngập triều duyên hải kém thoát nước và nghèo dinh dưỡng. Vào
mùa ẩm những đồng bằng này thường bị ngập lũ sâu hơn 1m, còn ở New
Caledonia thường xuất hiện trên những đồi dốc và các mỏm núi ở vùng cao. Loài
tràm này phát triển ở hầu hết các loại đất nhưng ít khi xuất hiện trên những loại
đất hình thành từ đá siêu bazơ .
Trong hơn 30 loài tràm được nghiên cứu về đặc điểm tinh dầu cho thấy Tràm
năm gân cũng là một trong số những loài có hàm lượng và chất lượng tinh dầu
cao nhất. Trong khi Tràm cajuputi hàm lượng tinh dầu trong lá tươi dao động
trong khoảng 0,1-1,2%, thành phần 1.8-cineole chiếm từ 0,1% đến 60% còn
terpinen-4-ol chỉ từ 0% đến 5%, Tràm lá dài (M. leucadendra) có hàm lượng tinh
dầu trong lá tươi dao động từ 0,1% đến 4%, nhưng thành phần 1,8-cineole chỉ
chiếm từ 10% đến 45% thì Tràm năm gân có hàm lượng tinh dầu trong lá có thể

đạt từ 1,3% đến 2,4%, thành phần 1,8-cineole dao động từ 0,2% đến 65%
(Brophy et al., 1996) [20].
Nghiên cứu tinh dầu trong lá Tràm năm gân ở các vị trí địa lý khác nhau ở
Australia và Papua New Guinea đã chỉ ra sự biến đổi rộng trong thành phần hoá


9

học nhưng chỉ có 2 nhóm chính. Nhóm I gồm có thành phần E-nerolidol (7495%) và linalool (14-30%) và có phân bố từ Sydney ở bang New South Wales
đến Marybourough ở Queesland. Nhóm II gồm có thành phần 1,8-cineole (1075%), viridiflorol (13-66%), -terponeol (0.5-14%) và -caryophyllene (0.528%). Nhóm này được tìm thấy ở khắp các vùng phân bố của loài từ Sydney đến
Papua New Guinea và New Caledonia. Phân tích cũng chỉ ra rằng Tràm năm gân
xuất hiện ở vĩ độ 25o Nam bao gồm cả nhóm I và nhóm II có hàm lượng tinh dầu
trong lá cao (chiếm1-3% khối lượng lá tươi). Phía Bắc của vĩ độ 25o Nam không
xuất hiện nhóm I và hàm lượng tinh dầu trong là thấp (chỉ chiếm 0,1-0,2% khối
lượng lá tươi) (Ireland et al., 2002) [24].
Tràm cajuputi (M. cajuputi) gồm có 3 phân loài là Melaleuca cajuputi subsp.
cajuputi Power, phân bố ở Indonesia, Australia; Melaleuca cajuputi subsp.
cumingiana Barlow, phân bố ở Myanma, Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Việt
Nam: và Melaleuca cajuputi subsp. platyphylla Barlow, phân bố nhiều ở
Indonesia, Papua New Guinea, Australia (Brophy et al., 1996) [20]. Tràm
cajuputi phân bố chủ yếu trên các bãi cửa sông, các bãi ven bờ biển trong vùng
nhiệt đới nóng ẩm, sinh trưởng tối thích ở những khu vực có nhiệt độ tối cao
trung bình của tháng nóng nhất là 31-33oC, kể cả các khu vực có tới 230 ngày
nóng trên 32oC trong năm (trong đó có một số ít ngày mà nhiệt độ vượt quá
38oC), và tối thấp trung bình của tháng lạnh nhất là 17-22oC, không chịu được
băng giá (Lã Đình Mỡi, 2003) [4]. Ngoài ra, Tràm cajuputi thường ở vùng khí
hậu nóng ẩm, có lượng mưa 1300- 1750mm/năm (thấp nhất 600mm) khoảng vĩ
độ 12o-18o Nam và ở độ cao 5-400m so với mực nước biển. Cây có thể cao đến
46m với đường kính 120cm như ở phía Bắc Australia.
ở Việt Nam, Tràm cajuputi phân bố khá rộng. Tràm có mặt từ huyện Phổ

Yên (Thái Nguyên), ven hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc), suốt dọc miền duyên hải từ
Bắc tới Nam, xa nhất là Phú Quốc. Kích cỡ cây trưởng thành biến động, chiều
cao 0,8-1,2m ở miền Bắc đến 22-25m ở Đà Lạt và Bình Châu- Phước Bửu của Bà


10

Rịa- Vũng Tàu, đường kính thân cây có thể đạt 40-50cm (Nguyễn Việt Cường và
cộng sự, 2004) [11].
1.3. Khảo nghiệm, chọn giống và nhân giống tràm
1.3.1 Trên thế giới
Trên 95% loài tràm là đặc hữu ở Australia. Nhiều nghiên cứu về điều kiện
sinh khí hậu trên 600 địa điểm có phân bố của nhiều loài tràm đã được tiến hành
ở Australia, nhằm giúp mở rộng vùng khảo nghiệm hoặc vùng định trồng rừng
tràm trên nhiều nước [25].
Trong những năm cuối thế kỷ 20 các nghiên cứu về xuất xứ tràm chủ yếu tập
trung với mục tiêu lấy gỗ. Tại Australia năm 1984-1987, tràm và một số loài cây
khác đã được khảo nghiệm ở Wongi và Toolara, Queensland. Khảo nghiệm
nhằm đánh giá tiềm năng sử dụng gỗ, củi và vai trò sinh thái của chúng trong
cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong giai đoạn 2,5-3,5 năm sau khi
trồng Tràm lá dài là loài có sinh trưởng tốt nhất, tỉ lệ sống cao, trong đó xuất xứ
Weipa (Qld) có sinh trưởng nhanh nhất. Loài có sinh trưởng cao kế tiếp là M.
viridiflora. Các loài còn lại đều có sinh trưởng kém hơn Tràm lá dài và M.
viridiflora. Như vậy, tại nơi nguyên sản (Qld, Australia) Tràm lá dài là loài có
sinh trưởng nhanh hơn các loài tràm khác [29].
Khảo nghiệm loài và xuất xứ tràm ở một số nước châu Phi như Kenya (19861988). Năm loài tràm được khảo nghiệm ở vùng nhiệt đới có độ cao trên 40m và
lượng mưa bình quân năm 988 mm. Tuy nhiên, trong giai đoạn vườn ươm cây
con sức sống yếu, nảy mầm rất kém, lại bị mối tấn công, tràm sinh trưởng kém,
khả năng gây trồng thành rừng ở Kenya cũng gặp không ít hạn chế vì mối hại và
môi trường khô hạn [26].

ở Zimbabwe năm 1986 đã khảo nghiệm một số loài tràm và loài cây khác
trên vùng đất cát nghèo dinh dưỡng, xói mòn mạnh, lượng mưa thấp
(400mm/năm) tại các vùng sinh thái đặc trưng của Zimbabwe, như Kadoma. Số
liệu đo đếm ở giai đoạn 1,5 năm tuổi cho thấy tràm là nhóm có tỉ lệ sống thấp,


11

trong đó M. symphyocarpa (Weipa, Qld) là loài có tỉ lệ sống cao nhất (57-92%).
M. Stenostachya (Weipa, Qld) là loài có tỉ lệ sống 52-65%, còn Tràm lá dài (M.
leucadendra) (Weipa, Qld) có tỉ lệ sống kém là 36-57%. Điều này chứng tỏ tràm
sinh trưởng kém thuận lợi ở Zimbabwe [23].
Bên cạnh nghiên cứu khảo nghiệm và chọn giống theo sinh trưởng, trong
những năm gần đây, chọn giống tràm theo hướng lấy tinh dầu đang được chú ý.
ở một số nước trên thế giới việc trồng Tràm trà làm nguyên liệu công
nghiệp để sản xuất tinh dầu với quy mô lớn đã được thực hiện như ở Indonesia,
Australia, Trung Quốc và công tác cải thiện giống cũng được chú trọng ngay từ
đầu. Các nghiên cứu thường tập trung vào việc tìm ra những xuất xứ, dòng có
năng suất và chất lượng tốt.
Australia cũng là nước có nhiều công trình nghiên cứu về cải thiện giống
cho loài cây Tràm trà. Sản xuất tinh dầu đã có lịch sử hơn 60 năm, tiêu chuẩn
tinh dầu Tràm trà từ năm 1990 đã yêu cầu có tỷ lệ terpinen-4-ol ít nhất 30% và
1,8-cineole dưới 15%, đồng thời đã có sách giới thiệu về kỹ thuật trồng, chăm
sóc cây trồng, thu hoạch lá, chưng cất tinh dầu cho loài cây này (Colton,
Mugtagh, 1990). Trong các năm 1998-2003 đã có chương trình công nghệ về
tràm trà gồm các nghiên cứu về thị trường, cải thiện giống, sinh thái và gây
trồng, cũng như nghiên cứu cải tiến công nghệ chế biến tinh dầu.
Australia đã thực hiện dự án cho chọn lọc và cải thiện giống Tràm trà bắt đầu
từ năm 1993. Sau giai đoạn 1 (1993-1996) thông qua việc chọn lọc xuất xứ đã
góp phần đưa sản lượng tinh dầu Tràm trà của Australia tăng lên 20%, hàm

lượng 1,8-cineole chỉ còn 2-3% (đây là phẩm cấp tinh dầu đang được thị trường
ưa chuộng). Giai đoạn 2 của dự án được tiếp tục 1996-2001. Tiêu chuẩn chọn lựa
giống là có sinh khối lá lớn, hàm lượng tinh dầu trong lá cao, chất lượng tinh dầu
phù hợp với yêu cầu thị trường (1,8-cineole nhỏ hơn 4% và terpinen-4-ol lớn hơn
36%) và có khả năng thích nghi rộng với điều kiện sống khác nhau, có sức đề
kháng với sâu bệnh. Tháng 1/1994, 3 khảo nghiệm hậu thế đã được xây dựng tại


12

Wyrallah và Teven gồm 2 khảo nghiệm chồi và một vườn giống hữu tính thế hệ
1, vật liệu nghiên cứu là 199 lô hạt Tràm trà từ những cây đơn lẻ được chọn lọc
từ 26 xuất xứ thuộc nhóm có giá trị thương mại, tiêu biểu cho 13 vùng lãnh thổ
và 2 xuất xứ tràm M. linariifolia (gồm18 gia đình) có trong khảo nghiệm chồi.
Kết quả 2 khảo nghiệm tại Wyrallah (khảo nghiệm chồi được 19 tháng tuổi và
vườn giống hữu tính thế hệ 1 là 25 tháng tuổi) cho thấy hàm lượng tinh dầu trung
bình của Tràm trà là 45,2 mg/g, thành phần 1,8-cineole là 4,3%, terpinen-4-ol là
35,6%. Trong đó 2 xuất xứ vượt trội cả về hàm lượng và chất lượng tinh dầu là
xuất xứ Candole (hàm lượng trung bình cả ở 2 khảo nghiệm là 51,1 mg/g, 1,8cineole là 3,2%, terpinen-4-ol là 36,7%) và Devils (hàm lượng trung bình là 52,0
mg/g, 1,8-cineole là 2,2%, terpinen-4-ol là 36,3%). Còn loài M .linariifolia cả
hàm lượng và chất lượng đều thấp hơn. Nghiên cứu sinh trưởng của Tràm trà ở
Wyllial và Teven cho thấy tỷ lệ sống trung bình ở Teven là 74%,chiều cao trung
bình là 163cm, ở Wyllial tỷ lệ sống là 85%, chiều cao trung bình là 188cm.
Trung bình ở cả 2 khảo nghiệm thì xuất xứ đạt tỷ lệ sống cao nhất đạt 87% và
xuất xứ có sinh trưởng chiều cao lớn nhất đạt 196cm. xuất xứ Candole có tỷ lệ
sống là 80%, chiều cao trung bình là 176cm; xuất xứ Devils tỷ lệ sống cũng đạt
80%, chiều cao trung bình là 179cm. Tổng hợp các chỉ tiêu thì 2 xuất xứ được
chọn là xuất xứ Candole và Devils. Nghiên cứu trên những khảo nghiệm này
còn cho thấy Tràm trà có hệ số di truyền cho hàm lượng tinh dầu là 0,51-0,93%,
1,8-cineole là 0,37-0,43, % terpinen-4-ol 0,81. Hệ số di truyền cho trọng lượng

khô là 0,25. Hệ số tương quan giữa hàm lượng tinh dầu với thành phần 1,8cineole là 0,15, với terpinen-4-ol là -0,14 và hệ số tương quan giữa thành phần
1,8-cineole và terpinen-4-ol là -0,66 (Doran el al., 2002) [21].
Khảo nghiệm tinh dầu Tràm cajuputi được xây dựng tháng 3/1998 tại
Paliyan (Indonesia ) gần Yogyakarta trên nền đất nhiệt đới đỏ và vàng nhiều
mùn. Khảo nghiệm bao gồm 20 lô hạt lấy từ các quần thể tự nhiên trong đó có 4
lô hạt từ Australia. Trong đó 18 lô hạt được lấy từ 18 cây mẹ tiêu biểu khác
nhau. Đây là những gia đình có đặc điểm tinh dầu tốt hơn so với giá trị trung


13

bình ở 6 nhóm cách li về mặt địa lý ở Australia và Indonesia. Số liệu thu thập
được ở 2 tuổi cho thấy tỷ lệ sống của các nhóm là không có sự sai khác rõ rệt,
gia đình 8 (Indonesia) thuộc nhóm 2 có tỷ lệ sống cao nhất 88%. Sinh trưởng về
đường kính và chiều cao giữa các nhóm là có sự khác nhau rõ rệt, gia đình 24
(Indonesia) có sinh trưởng đường kính và chiều cao tốt nhất. Đặc điểm tinh dầu
có sự khác nhau rõ rệt, hàm lượng tinh dầu cao nhất là 2,3% thuộc gia đình 14
(Indonesia) tiếp đến là các gia đình 10, 18 (Idonesia), 21(Australia) đều đạt
2,1%. Thành phần 1,8-ceneole cao nhất là gia đình 2 (Indonesia) đạt 60,2% tiếp
đến là gia đình 11 (Indonesia) đạt 57,6% (Susanto el al., 2003)[30].
Các nghiên cứu về chọn giống cũng thấy M. cajuputi subsp. cajuputi có
biến dị khá lớn về sinh trưởng và đặc điểm tinh dầu ở các quần thể khác nhau.
Nghiên cứu sự biến đổi gen trong tăng trưởng và đặc điểm tinh dầu Tràm
cajuputi trên khảo nghiệm tại Paliyan (Indonesia) cho thấy hệ số di truyền cho
tăng trưởng chiều cao là 0,38 và 0,54 cho tỷ lệ 1,8-cineole, hệ số tương quan di
truyền giữa tăng trưởng chiều cao và đặc điểm tinh dầu là rất thấp chỉ từ -0,07
đến 0,10 [30].
1.3.2. ở Việt Nam
ở nước ta nghiên cứu khảo nghiệm tràm hầu hết là tập trung chủ yếu cho sản
phẩm gỗ, mới có một số ít nghiên cứu chọn lọc giống tràm lấy tinh dầu và hầu

hết là mức độ chọn lọc chưa cao.
Trong các năm 1994, 1995 thông qua dự án ACIAR 9115 (phần thực hiện ở
Việt Nam là Xây dựng các khảo nghiệm loài/ xuất xứ của Melaleuca và
Astermyrtus để sản xuất gỗ và/ hoặc tinh dầu ở Đồng Bằng sông Cửu Long của
Việt Nam) một bộ giống khá hoàn chỉnh của các loài tràm đã được khảo
nghiệm tại Cà Mau và Long An do Phân viện lâm mghiệp Nam Bộ phối hợp với
các nhà khoa học của CSIRO tiến hành. Bộ giống tham gia khảo nghiệm gồm 48
xuất xứ của 12 loài tràm trong đó có 8 xuất xứ của Tràm cajuputi của Việt Nam


14

còn lại là các xuất xứ của Australia và Papua New Guinea (Lê Đình Khả và cộng
sự, 2003) [5].
Các khảo nghiệm được xây dựng ở các vùng có điều kiện lập địa tương đối
khác nhau, đại diện cho một số tỉnh Nam Bộ.
Khảo nghiệm tại Thạnh Hoá (Long An) với 36 xuất xứ của 10 loài tràm.
Khảo nghiệm được xây dựng trên dạng đất phèn tiềm tàng nông, pH=3,5. Số liệu
đo đếm sau 5 năm (1994-1999) cho thấy loài Tràm lá dài có sinh trưởng nhanh
nhất với tỷ lệ sống 97-98,8%, thể tích thân cây 24,0-50,5dm3, các xuất xứ có
triển vọng nhất là Weipa, Cambridge (Australia), Keru, Bensbach (Papua New
Guinea). Tiếp đó là Tràm cajuputi trong đó chỉ có xuất xứ Keru (Papua New
Guinea) và Bensbach (PNG) là tương đối triển vọng. Trong các xuất xứ của Việt
Nam chỉ có xuất xứ Tịnh Biên (An Giang) là có sinh trưởng khá (V=16,0dm3),
song vẫn kém xa hai xuất xứ của PNG. Loài có sinh trưởng kém nhất là M.
stenostachya (tỷ lệ sống=37,5%, V=4,7dm3).
Tháng 2/1997 một khảo nghiệm khác tại Thạnh Hoá (Long An) gồm 10 xuất
xứ của 3 loài (Tràm lá dài, Tràm cajuputi và M. viridiflora) đã được xây dựng
nhằm kết hợp với kỹ thuật làm đất và kỹ thuật lâm sinh. Đo đếm sau 2,5 và 3,5
năm cho thấy Tràm lá dài là loài sinh trưởng nhanh nhất, tiếp đó là M. viridiflora

và cuối cùng là Tràm cajuputi [8].
Khảo nghiệm tại trạm Kinh Đứng huyện Trần Văn Thời (Cà Mau) được xây
dựng tháng 12/1993 với 14 xuất xứ của 9 loài trên vùng đất phèn hoạt động và
phèn than bùn, pH=2,8, ngập nước từ tháng 7 đến tháng 1 năm sau, mức ngập
sâu nhất 0,6m. Sau 6 năm cho thấy các xuất xứ thuộc loài Tràm lá dài cũng có tỷ
lệ sống cao nhất (66,9-80,0%) và sinh trưởng nhanh nhất (V=16-24,4dm3). Các
xuất xứ Việt Nam của loài Tràm cajuputi và tất cả các loài tràm còn lại đều có
sinh trưởng kém [5].
Khảo nghiệm tại khu 48 huyện U Minh, tỉnh Cà Mau với 20 xuất xứ của 10
loài. Khảo nghiệm được xây dựng tháng 12/1993 trên vùng đất phèn than bùn,
pH=3,0, ngập nước từ tháng 6 đến tháng 1 năm sau, mức ngập sâu nhất 0,4m.


15

Kết quả khảo nghiệm sau 6 năm cũng cho thấy loài Tràm lá dài là loài có triển
vọng nhất với tỷ lệ sống 77,3-87,3%, thể tích 35,9-64,6dm3, 3 xuất xứ có sinh
trưởng nhanh nhất của loài này là Rifle Creek, Lawrence và Weipa đều thuộc
bang Queensland với tỷ lệ sống tương ứng là 77,3, 87,3, 87,3 và thể tích là 64,6
dm3, 56,5 dm3, 53,2 dm3. Trong các xuất xứ của Tràm cajuputi thì các xuất xứ tốt
nhất của Việt Nam như Tịnh Biên- An Giang và Vĩnh Hưng- Long An thể tích
thân cây cũng chỉ đạt 14,4dm3 và 11,4dm3. Toàn bộ các loài và xuất xứ còn lại
đều có sinh trưởng kém và tỷ lệ sống rất thấp [5].
Khảo nghiệm tại Hòn Đất- Kiên Giang với 24 xuất xứ của 9 loài. Khảo
nghiệm được xây dựng 6/1993 trên vùng đất phèn nặng, pH=2,2-3, số liệu thu
thập được sau 3 năm cho thấy dù sinh trưởng của các loài và xuất xứ tràm ở Hòn
Đất, nơi có đất phèn nặng, đều kém hơn các nơi khảo nghiệm khác, song hai
xuất xứ Weipa (Qld) và Rifle Creek (Qld) của Tràm lá dài vẫn có sinh trưởng
nhanh hơn rõ rệt so với các loài và xuất xứ còn lại [5].
Khảo nghiệm khác về loài và xuất xứ tràm được thực hiện tại Tri Tôn và Tịnh

Biên- An Giang năm 1993. Sau 8 năm khảo nghiệm (1993-2001), cũng cho thấy
trong 13 xuất xứ của 7 loài tràm được khảo nghiệm tại An Giang thì Tràm lá dài
(xuất xứ Weipa và Rifle Creek) là loài cây có sinh trưởng nhanh nhất (V=72112dm3), tỷ lệ sống cao nhất 93-96%. Tại Tri Tôn xuất xứ Mossman có tỷ lệ
sống 85%, xuất xứ An Giang có tỷ lệ sống tương ứng 71%, tại Tịnh Biên hai
xuất xứ này có tỷ lệ sống tương ứng là 29% và 3%. Trong các loài tràm còn lại
thì M. fluviatilis tuy có tỷ lệ sống 84% song sinh trưởng chậm không thể dùng để
trồng rừng ở An Giang. ở Tri Tôn đất bị ngập nông hơn và thời gian ngập ngắn
hơn nên nhiều loài tràm có tỷ lệ sống cao hơn và sinh trưởng nhanh hơn ở Tịnh
Biên (Nguyễn Thị Bích Thuỷ, 2004) [7].
Tại Trạm thực nghiệm Lâm nghiệp Thạnh Hoá- Long An đã xây dựng khảo
nghiệm xuất xứ với 5 xuất xứ thuộc 2 loài tràm là Tràm lá dài và Tràm
cajuputi. Kết quả cho thấy, sự tăng trưởng chiều cao của xuất xứ 1207 là cao


16

nhất, không có sự khác nhau về tỷ lệ sống giữa 5 xuất xứ tràm thí nghiệm (Hồ
Văn Phúc và cộng sự, 2001) [3].
Khảo nghiệm tràm lai tự nhiên giữa Tràm cajuputi của Việt Nam với Tràm lá
dài của Australia (tổ hợp lai CH1- L1) trên đất rừng ngập nước theo mùa ở Việt
Nam. Khảo nghiệm được xây dựng tháng 11/2000 với các giống tham gia khảo
nghiệm gồm có tổ hợp lai CH1-L1, Tràm lá dài xuất xứ Weipa- 14147 và giống
Tràm cajuputi tại Hòn Đất- Kiên Giang. Theo dõi sinh trưởng sau 2 năm cho
thấy giống lai khi trồng đại trà trên diện hẹp cho sinh trưởng rất có triển vọng so
với hai giống gốc về các chỉ tiêu sinh trưởng chiều cao, đường kính thân cây 1,3
và chất lượng thân cây. Với triển vọng này cho phép có khả năng triển khai trồng
đại trà trên diện rộng đối với đất phèn ngập nước theo mùa ở miền Nam nước ta.
Trữ lượng ban đầu sau 2 năm khảo nghiệm giống CH1-L1 cho sản lượng khá cao
20 m3/ha/năm trong khi loài nhập nội là 12m3/ha/năm và loài cây bản địa chỉ có
8,7 m3/ha/năm (Trần Thị Thu Hằng, Thái Thành Lượm, 2006) [18].

Ngoài ra, Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng tiến hành thử nghiệm trồng
Tràm lá dài và Tràm cajuputi trên đất đồi trọc núi Cẩm Quỳ- Hà Tây(1993) và
trên đất bán ngập theo mùa ở vùng núi đá vôi Ninh Bình (2000). Tại Cẩm Quỳ
(Ba Vì) với 4 xuất xứ của Tràm lá dài tham gia khảo nghiệm sau 11 năm sinh
trưởng cho thấy đây là 4 xuất xứ có triển vọng cho ở vùng đồi núi trọc nghèo
dinh dưỡng, pH axít như ở Cẩm Quỳ- Hà Tây, tylệ sống 85,0-95,2%, thể tích
thân cây 58,8 dm3-79,8 dm3 trong đó xuất xứ Rifle Creek có sinh trưởng tốt nhất.
Còn với 9 xuất xứ của 2 loài tràm trên được khảo nghiệm tại Ninh Bình sau 5
năm sinh trưởng cho thấy 7 xuất xứ Tràm lá dài có sinh trưởng tương đối nhanh,
còn 2 xuất xứ Tràm cajuputi có sinh trưởng chậm hơn. Tuy nhiên, chúng đều phù
hợp với lập địa bán ngập theo mùa và pH trung tính vùng núi đá vôi Ninh Bình,
tỷ lệ sống 92,5-97,5%, thể tích thân cây là 13,19-30,32 dm3 và xuất xứ Weipa
của Tràm lá dài có sinh trưởng tốt nhất (Nguyễn Việt Cường, Phạm Đức
Tuấn,2006) [12].


17

Ngoài những nghiên cứu khảo nghiệm sinh trưởng của các giống tràm ở các
vùng sinh thái khác nhau, chúng ta cũng đã có một số nghiên cứu chọn giống
tràm theo hướng tinh dầu.
Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2007) đã bước đầu chọn giống Tràm gió có
hàm lượng tinh dầu cao phục vụ cho công tác lai tạo giống ở 3 vùng Đại LảiPhúc Yên, Phú Bình- Thái Nguyên và Thạnh Hoá- Long An, kết quả nghiên cứu
cho thấy hàm lượng tinh dầu (trong lá khô tuyệt đối) của mẫu cao nhất đạt
3.60%, mẫu có hàm lượng thấp nhất là 1,15% và phân tích thành phần tinh dầu
của 39 mẫu thì có 17 mẫu có thành phần 1,8-cineole trên 65%. Theo tác giả thì
17 giống tràm có thành phần 1,8-cineole đạt 65,4-69,3% [13].
Nghiên cứu tinh dầu của một số tổ hợp lai giữa các giống Tràm lá dài (L),
Tràm năm gân (Q) và Tràm cajuputi (Ca) cho thấy hầu hết các tổ hợp lai có hàm
lượng tinh dầu ở dạng trung gian của bố mẹ còn thành phần 1,8-cineole cũng ở

dạng trung gian hoặc thấp hơn bố mẹ, như tổ hợp lai Q40Ca61 hàm lượng tinh
dầu chỉ có 1,2% và thành phần 1,8-cineole là 8,80% trong khi ở bố mẹ hàm
lượng tinh dầu lần lượt là Q40 1,6% và Ca61 1,0%, thành phần 1,8-cineole là
Q40 58,30% và Ca61 16,20%; tổ hợp lai Q40Ca33 có hàm lượng tinh dầu là
1,1%, thành phần 1,8-cineole thấp hơn hẳn bố mẹ chỉ 6,8% trong khi bố mẹ có
hàm lượng tinh dầu lần lượt là Q40 1,6% và Ca33 1,2%, thành phần 1,8-cineole
là Q4 50,3% và Ca33 10,3% và ở tổ hợp lai LA18Ca61 cũng vậy. Chỉ có một tổ
hợp lai Ca33L8 có thành phần 1,8-cineole 18,7% cao hơn hẳn bố mẹ, ở bố mẹ
thành phần 1,8-cineole chỉ có L8 5% và Ca33 10,5%, nhưng hàm lượng tinh dầu
của tổ hợp này chỉ có 0,85% lại thấp hơn bố mẹ (ở bố mẹ là L8 2,2% và Ca33
1,2%). Như vậy việc lai giống chưa đạt được hiệu quả rõ ràng [13].
Phùng Cẩm Thạch và các cộng sự (2000) đánh giá giá trị tinh dầu và tiêu
chuẩn gỗ cho các xuất xứ được trồng khảo nghiệm tại Thạnh Hoá (Long An)
năm 1994. Kết quả cho thấy trong 12 xuất xứ thuộc 7 loài tràm có hàm lượng
tinh dầu cao đứng đầu thì một xuất xứ của M. stanostachya có hàm lượng tinh
dầu cao nhất là 1,38%, tiếp đến là M. fluviatitis 1,15%, Tràm năm gân với 3 xuất


×