Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Chọn giống và khảo nghiệm giống tràm trà (melaleuca alternifolia) có năng suất và chất lượng tinh dầu cao tại ba vì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (958.61 KB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN
-------------------

HÀ THỊ KIM THOA

CHỌN GIỐNG VÀ KHẢO NGHIỆM GIỐNG TRÀM CHÀ
(MELALEUCA ALTERNIFOLIA) CÓ NĂNG SUẤT VÀ CHẤT
LƯỢNG TINH DẦU CAO TẠI BA VÌ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành:
Mã số:
Hướng dẫn khoa học:

Lâm nghiệp
60.62.02.01
PGS.TS. Lê Đình Khả
TS. Trần Thu Hà

THÁI NGUYÊN - 2010


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Mục lục ............................................................................................................ i
Lời cảm ơn ...................................................................................................... iii
Danh mục các bảng và các hình ...................................................................... iv
Danh mục các từ viết tắt.................................................................................. v


MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1 ......................................................................................................... 3
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ....................................................... 3
1.1. Cây tràm và ý nghĩa kinh tế ..................................................................... 3
1.2. Nghiên cứu cải thiện giống Tràm trà trên thế giới ................................... 4
1.3. Nghiên cứu cải thiện giống tràm trong nước ........................................... 11
1.3.1. Nghiên cứu cải thiện giống tràm với mục tiêu lấy gỗ ........................... 11
1.3.2. Nghiên cứu về tinh dầu tràm ................................................................. 14
1.3.3. Nghiên cứu về giâm hom tràm .............................................................. 18
Chương 2 ......................................................................................................... 22
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, ĐỊA ĐỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 22
2.1. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................. 22
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 22
2.3. Vật liệu nghiên cứu .................................................................................. 22
2.4. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 24
2.5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 25
2.5.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm.............................................................. 25
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu ................................................................ 26
2.5.3. Phương pháp chọn giống tràm có triển vọng cho sản xuất tinh dầu ..... 29
2.5.4. Phương pháp xử lý số liệu..................................................................... 30
Chương 3 ......................................................................................................... 33
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .............................................. 33


3.1. Chọn giống Tràm trà có tỷ lệ 1,8-cineole cao .......................................... 33
3.1.1. Các chỉ tiêu sinh trưởng của xuất xứ tràm tại Cẩm Quỳ...................... 33
3.1.2. Chọn cây trội có hàm lượng và tỷ lệ 1,8-cineole cao ........................... 36
3.1.3. Khảo nghiệm dòng vô tính từ cây trội được chọn lọc ........................ 41
3.2. Chọn giống Tràm trà có tỷ lệ terpinen-4-ol cao ....................................... 44
3.2.1. Sinh trưởng của các gia đình Tràm trà .................................................. 44

3.2.2. Khối lượng lá, hàm lượng và chất lượng tinh dầu tại khu khảo nghiệm
Đá Chông - Ba Vì ............................................................................................ 47
3.2.3. Chọn lọc cây trội theo hàm lượng và chất lượng tinh dầu trong các gia
đình Tràm trà ................................................................................................... 54
3.2.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ và lượng mưa đến hàm lượng và chất lượng
tinh dầu Tràm trà ............................................................................................. 61
3.3. Ảnh hưởng của chủng loại và nồng độ của hormon đến khả năng ra rễ của
Tràm trà 1 năm tuổi ......................................................................................... 63
Chương 4 ......................................................................................................... 67
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ....................................................... 67
4.1. Kết luận .................................................................................................... 67
4.1.1. Tràm trà theo hướng lấy 1,8-cineole ..................................................... 67
4.1.2. Chọn Tràm trà theo hướng lấy terpinen-4-ol ....................................... 68
4.1.3. Ảnh hưởng của chủng loại và nồng độ của hormon đến khả năng ra rễ
của Tràm trà 1 năm tuổi .................................................................................. 68
4.2. Tồn tại và kiến nghị.................................................................................. 69
4.2.1. Tồn tại .................................................................................................. 69
4.2.2. Kiến nghị .............................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 70
I. TIẾNG VIỆT ............................................................................................... 70
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH ............................................................................. 72


iii

LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản, tôi đã tiến
hành nghiên cứu đề tài luận văn: “Chọn giống và khảo nghiệm giống Tràm trà
(Melaleuca alternifolia) có năng suất và chất lượng tinh dầu cao tại Ba Vì”
theo chương trình đào tạo thạc sỹ của trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.

Đây là một phần trong đề tài “Nghiên cứu chọn giống, kỹ thuật gây trồng và chế
biến tràm có năng suất và chất lượng tinh dầu cao” do GS.TS Lê Đình Khả làm
chủ nhiệm.
Có được kết quả này, trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
và sâu sắc tới GS.TS. Lê Đình Khả và TS. Trần Thị Thu Hà đã tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi có được những kiến thức về chuyên môn trong suốt quá
trình thực hiện luận văn.
Tôi xin cảm ơn Ban chủ nhiệm khoa Sau đại học trường đại học Nông
Lâm Thái Nguyên và các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi trong hơn 2
năm học qua đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới ThS. Nguyễn Thị Thanh Hường, cán bộ
đề tài, cũng như TS. Hà Huy Thịnh, ThS. Nguyễn Đình Hải, ThS. Mai Trung
Kiên, các lãnh đạo và công nhân của Trung tâm nghiên cứu giống cây rừng và
Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản.
Tôi cũng xin cảm ơn các bạn bè đồng nghiệp đã hỗ trợ tôi trong suốt
quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù rất cố gắng song luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả rất mong sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các nhà khoa học và bạn bè
đồng nghiệp.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 9 năm 2010
Học viên

Hà Thị Kim Thoa


iv

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ CÁC HÌNH
Thứ tự


Tên bảng và hình

Trang
23

Bảng 2.1

Các loài tràm dùng chọn giống lấy tinh dầu ở Ba Vì

Bảng 2.2

Hạt Tràm trà xuất xứ Candole ở New South Wales

23

Bảng 3.1

Sinh trưởng của các xuất xứ tràm tại khu khảo nghiệm Ba Vì

33

Hàm lượng tinh dầu cây trội Tràm trà tại khu khảo nghiệm

37

Bảng 3.2

Bảng 3.3

Bảng 3.4


ở Cẩm Quỳ
Một số chỉ tiêu của các dòng vô tính Tràm trà một năm

41

tuổi tại vườn ươm Ba Vì
Hàm lượng, chất lượng tinh dầu một các dòng vô tính của

42

xuất xứ Tràm trà một năm tuổi ở vườn ươm

Bảng 3.5

Sinh trưởng của các gia đình Tràm trà tại Đá Chông - Ba Vì

45

Bảng 3.6

Khối lượng lá và độ ẩm của các gia đình Tràm trà ở Đá Chông

48

Bảng 3.7

Hàm lượng tinh dầu của các gia đình Tràm trà tại Đá Chông

50


Bảng 3.8

Hệ số tương quan giữa Do, Hvn với khối lượng lá tươi

51

Bảng tổng hợp các chỉ tiêu về tinh dầu của các gia đình

53

Bảng 3.9

Bảng 3.10

Bảng 3.11

Tràm trà một năm tuổi ở Cẩm Quỳ
Khối lượng, chất lượng tinh dầu các cây cá thể của các gia

55

đình được chọn ở Đá Chông - Ba Vì
Ảnh hưởng của nhiệt độ và lượng mưa đến hàm lượng

62

và chất lượng tinh dầu Tràm trà tại Đá Chông

Bảng 3.12 Khả năng ra rễ của các gia đình Tràm trà 1 tuổi ở các công

thức xử lý khác nhau
Hình 3.1 Khu khảo nghiệm giống Tràm trà 15 tháng tuổi tại Đá Chông

65
44

Hình 3.2

Tinh dầu Tràm trà

44

Hình 3.3

Cây hom Tràm trà tại vườn ươm Ba Vì

64


v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
M.

Melaleuca

A

Melaleuca alternifolia


Do

Đường kính gốc

H

Chiều cao

Dt

Đường kính tán

X

Chỉ tiêu sinh trưởng trung bình

r

Hệ số tương quan

Hlt

Hàm lượng tinh dầu tính theo lá tươi

Hlk

Hàm lượng tinh dầu tính theo lá khô


MỞ ĐẦU

Tràm trà (Melaleuca alternifolia Cheel) là loài cây nguyên sản và là
một trong những loài cây để sản xuất tinh dầu tràm ở Australia, hiện đang
được Trung Quốc và chính nhiều nước khác trồng để sản xuất tinh dầu.
Tinh dầu Tràm trà chứa nhiều hợp chất hữu cơ có tác dụng sinh học
cao, đặc biệt là tác dụng kháng khuẩn và kháng nấm (với hoạt phổ rộng trên
20 chủng) đồng thời không gây nguy hiểm cho da, thậm chí ở liều lượng cao
không gây phản ứng phụ lên các bộ phận khác của cơ thể. Do đó tinh dầu
Tràm trà còn được dùng để sản xuất dầu gội đầu và sữa tắm, v.v…. Hiện nay,
tinh dầu Tràm trà là loại được sản xuất và tiêu thụ nhiều nhất thế giới đặc biệt
ở Australia đã trồng đến 4500 ha Tràm trà. Trong những năm 2004- 2005, sản
lượng tinh dầu của Australia đã đạt hơn 500 tấn, dự kiến của chương trình
Nghiên cứu và Phát triển Tràm trà giai đoạn 2006- 2011 là nâng tăng thu từ
vườn giống và dòng vô tính lên 50% ở giai đoạn cuối trên cơ sở cung cấp
giống được cải thiện (Australian Government, 2006).
Ở Việt Nam, một số biệt dược như Mecaseptil, Eucaseptil đã được sản
xuất từ tinh dầu tràm có tác dụng tốt và rút ngắn thời gian điều trị. Ngoài ra
tinh dầu tràm còn được sử dụng trong công nghiệp mỹ phẩm và hương liệu
(Nguyễn Văn Nghi, 2000) [18].
Nhiều loài tràm được đưa vào Việt Nam từ đầu những năm 1990 chủ
yếu là để nghiên cứu chọn giống lấy gỗ (Lê Đình Khả và cs., 2003) [12].
Tràm trà được Viện Dược liệu (Bộ Y tế), nhập trồng năm 1986 tại Trạm cây
thuốc Văn Điển và trên đất đồi ở Quảng Bình đã thấy loài cây này có thể sinh
trưởng tốt tại đây. Từ đó đã có nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, tích lũy dầu
và khả năng nhân giống hom cho Tràm trà ở Việt Nam (Nguyễn Văn Nghi,
2000). Tuy vậy đến năm 2008 vẫn chưa có nghiên cứu về chọn giống lấy tinh


2

dầu cho loài cây này. Phùng Cẩm Thạch (2000) dựa trên 12 cây được nhập ở

Phú Yên để trồng tại Thạnh Hóa (Long An) và đã chọn được một dòng vô
tính có tỷ lệ terpinen-4-ol tương đối cao, song hàm lượng và chất lượng tinh
dầu không đạt yêu cầu như ISO 4730- 2004 nên không thể tiếp tục phát triển.
Ở Autralia, Tràm trà trồng chủ yếu theo hướng sản xuất terpinen-4-ol,
song từ các giống Tràm trà được đưa vào trồng ở Việt Nam cho thấy loài này
có cả nhóm giàu 1,8-cineole lẫn nhóm giàu terpinen-4-ol. Hơn nữa, các giống
Tràm trà được nhập vào Việt Nam đều chưa qua chọn giống, hàm lượng và
chất lượng tinh dầu đều thấp, không đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng dầu
quốc tế và yêu cầu xuất khẩu. Vì thế nghiên cứu chọn lọc giống có năng suất
và chất lượng tinh dầu cao, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước
và xuất khẩu là một hướng đi quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế
của trồng tràm.
Trong thời gian qua, Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản đã tiến
hành đề tài "Nghiên cứu chọn giống, kỹ thuật trồng và chế biến tràm có năng
suất và chất lượng tinh dầu cao" do GS.TS. Lê Đình Khả làm chủ nhiệm. Đề
tài đã đi theo hướng chọn giống giàu 1,8-cineol lẫn giàu terpinen-4-ol và đã
có những kết quả bước đầu khả quan. Đề tài luận văn “Chọn giống và khảo
nghiệm giống Tràm trà (Melaleuca alternifolia) có năng suất và chất lượng
tinh dầu cao tại Ba Vì ” là một phần trong đề tài chọn giống tràm nói trên,
được thực hiện tại Trạm Thực nghiệm giống cây rừng Ba Vì thuộc Trung tâm
nghiên cứu giống cây rừng (Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam). Trong
luận văn này, ngoài những số liệu do học viên tự nghiên cứu, còn có các số
liệu do cán bộ đề tài thực hiện và được chủ nhiệm đề tài cho phép sử dụng.


3

Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cây tràm và ý nghĩa kinh tế
Tràm là tên gọi chung của các loài trong chi Melaleuca thuộc họ Sim
(Myrtaceae). Chi Melaleuca có khoảng 250 loài, phân bố chủ yếu ở Australia
và một số nước khu vực Nam Thái Bình Dương. Đây là chi có phân bố rộng,
có khả năng thích ứng cao với nhiều điều kiện lập địa, có thể sinh trưởng trên
đất nghèo dinh dưỡng, đặc biệt là trên các vùng bán ngập. Rừng tràm là hệ
sinh thái có giá trị cao cả về kinh tế và môi sinh ở các vùng đất ngập phèn ven
biển, ven các cửa sông và cả trên các đồi đất lateritic cằn cỗi (Lã Đình Mỡi,
2003) [14].
Cuối thế kỷ XX, các nghiên cứu về chọn giống tràm trên thế giới chủ
yếu tập trung vào mục đích lấy gỗ. Năm 1984-1987, ở Australia các loài tràm
đã được khảo nghiệm ở Wongi và Toolara, Queensland. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trong giai đoạn 2-3 năm sau khi trồng Tràm lá dài (M. leucadendra) là
loài có sinh trưởng nhanh nhất, tỉ lệ sống cao ở tất cả các nơi được khảo
nghiệm. Tại Queensland, nơi nguyên sản của Tràm lá dài những cây to nhất có
thể cao 20- 40m với đường kính có thể đến 1,5m (Broply và Doran, 1996) [30].
Năm 1986 khảo nghiệm một số loài tràm và loài cây khác trên vùng đất
cát nghèo dinh dưỡng, xói mòn mạnh, lượng mưa thấp (400 mm/năm) tại các
vùng sinh thái đặc trưng của Zimbabwe ở giai đoạn 1,5 năm tuổi đã thấy M.
symphyocarpa (Weipa, Qld) là loài có tỉ lệ sống 57-92%, M. stenostachya
(Weipa, Qld) là loài có tỉ lệ sống 52-65%, còn M. leucadendra (Weipa, Qld)
có tỉ lệ sống 36-57% [37].
Nhiều loài tràm là cây đa tác dụng từ lấy gỗ đến tinh dầu, lấy vỏ và hoa
cũng như làm cây cảnh ven đường. Tinh dầu tràm chủ yếu được lấy trong lá là
sản phẩm có giá trị dược phẩm và mỹ phẩm đang được chú ý khai thác. Tinh


4

dầu tràm là chất sát trùng mạnh, chữa cảm cúm, hen suyễn, đau bụng, co thắt

dạ dày. Tinh dầu tràm cũng được dùng làm thuốc bôi chống viêm, chữa vết
bỏng, xoa bóp trị đau nhức khớp xương và thần kinh (Võ Văn Chi, 1997; Lã
Đình Mỡi, 2003) [1], [14].
Nghiên cứu của Brophy và Doran (1996) về hàm lượng và chất lượng
tinh dầu của 42 loài thuộc các chi Asteromyrtus, Callistemon và Melaleuca
(không có Tràm trà vì khi đó loài này được coi bí mật quốc gia) có quan hệ
gần gũi trong họ Myrtaceae cho thấy số loài có hàm lượng tinh dầu và chất
lượng tinh dầu chỉ chiếm khoảng 8-10% trong các loài được nghiên cứu.
Tràm ở nước ta có thể có bốn dạng hoặc ba dạng với kích thước khác
nhau từ cây gỗ nhỏ đến trung bình, phân bố ở nhiều tỉnh trong cả nước từ đảo
Phú Quốc đến Thái Nguyên, ở độ cao trên mặt biển từ 2- 36m, với độ
pH=2,5- 5,5 (Ngô Quế, 2003). Tràm tập trung nhiều nhất ở hai vùng chính là
đồng bằng sông Cửu Long và Duyên hải Bắc Trung Bộ, chủ yếu là phía nam
Thừa Thiên - Huế (Nguyễn Việt Cường, Nguyễn Xuân Quát và cs., 2004) [4].
1.2. Nghiên cứu cải thiện giống Tràm trà trên thế giới
Australia là một trong những nước trồng, khai thác, chế biến tinh dầu
tràm nhiều nhất thế giới, trong đó trên 95% loài tràm là đặc hữu của Australia.
Nhiều nghiên cứu về điều kiện sinh khí hậu trên 600 địa điểm có phân bố của
nhiều loài tràm đã được tiến hành ở Australia, nhằm giúp mở rộng vùng khảo
nghiệm hoặc vùng định trồng rừng tràm trên nhiều nước [38]. Các nghiên cứu
thường tập trung vào việc tìm ra xuất xứ, dòng vô tính có năng suất tinh dầu
cao và chất lượng tốt đáp ứng được yêu cầu thị trường.
Các loài tràm được trồng để sản xuất tinh dầu là Tràm trà (Melaleuca
alternifolia), Tràm năm gân (M. quinquenervia) và Tràm cajuput (M. cajuputi).
Tràm năm gân có phân bố tự nhiên tại Australia và Papua New
Guinea, là một trong những loài có hàm lượng và chất lượng tinh dầu cao


5


nhất trong hơn 42 loài tràm khác được nghiên cứu về tinh dầu. Loài này có
thể đạt hàm lượng tinh dầu trong lá 1,3- 2,4%, thành phần 1,8-cineole dao
động từ 0,2% đến 65% và hơn nữa (Brophy và Doran, 1996). Đây là loài cây
rất có triển vọng trong sản xuất tinh dầu ở Papua New Guinea và đã có dự án
FSP/1998/113 hợp tác giữa Trung tâm giống cây rừng của Australia với một
tổ chức phi chinh phủ là Biological Foundation nghiên cứu về chọn giống và
phát triển sản xuất tinh dầu theo kiểu cộng đồng cho vùng Bensbach trong các
năm 2000- 2002.
Tràm cajuput được nghiên cứu chọn giống lấy tinh dầu từ năm 1998
tại Paliyan (Indonesia). Khảo nghiệm giống cho 20 lô hạt lấy từ các quần thể
tự nhiên trong đó có 4 lô hạt từ Australia. 18 lô hạt được lấy từ 18 cây mẹ tiêu
biểu khác nhau. Đây là những gia đình có đặc điểm tinh dầu tốt hơn so với giá
trị trung bình ở 6 nhóm cách li về mặt địa lý ở Australia và Indonesia. Số liệu
thu thập được ở 2 tuổi cho thấy sinh trưởng của các nhóm có sự sai khác rõ
rệt. Đặc điểm tinh dầu có sự khác nhau rõ rệt, hàm lượng tinh dầu cao nhất là
2,3% thuộc gia đình 14 (Indonesia) tiếp đến là các gia đình 10, 18
(Indonesia), 21(Australia) đều đạt 2,1%. Tỷ lệ 1,8-cineole cao nhất là gia đình 2
(Indonesia) đạt 60,2% tiếp đến là gia đình 11 (Indonesia) đạt 57,6% (Susanto el
al., 2003) [42].
Indonesia cũng có dự án hợp tác với CSIRO của Australia do ACIAR tài
trợ về nghiên cứ chọn giống và sản xuất tinh dầu Tràm cajuput. Indonesia đã
chọn được một số giống để sản xuất tinh dầu tràm như một mặt hàng có tiếng.
Các nghiên cứu về chọn giống cũng cho thấy M. cajuput sub sp có mức biến dị
khá lớn về sinh trưởng và hàm lượng tinh dầu ở các quần thể khác nhau.
Indonesia là một trong những nước chính cung cấp tinh dầu tràm, mỗi năm nước
này có thể sản xuất gần 400 tấn tinh dầu tràm (Susanto et al., 2003) [42].


6


Tràm trà là loài được trồng chủ yếu ở Australia để sản xuất tinh dầu.
Tràm trà có tên khoa học đầy đủ là Melaleuca alternifolia Maiden & E.
Betche & Cheel, thuộc nhóm có quan hệ gần gũi với M. liniariifolia, M.
trichostachya, M. sitiflora và M. linophylla (Boland et al, 2006) [30]. Đây là
loài cây có nguồn gốc từ Australia, mọc hoang ở những nơi thấp vùng duyên
hải từ Darling Downs (Queensland) tới Hunter River (New South Wales).
Năm 1923, các nhà khoa học đã khám phá tinh dầu Tràm trà có tác dụng diệt
khuẩn mạnh gấp 13 lần so với carbolic acid (được xem là tiêu chuẩn quốc tế
đầu thập niên 20 của thế kỉ XX). Năm 1924, E. Cheel đã xác định tên khoa
học của Tràm trà là M. alternifolia. Đến năm 1770, người Anh đã phát hiện ra
công dụng của tinh dầu này khi đun sôi tạo thành một loài trà có mùi thơm.
Tinh dầu Tràm trà có màu vàng chanh hoặc không màu trong suốt, nhẹ có mùi
thơm terpinic myristic dễ chịu, là chất khử trùng không gây độc hại cho sức
khoẻ con người. Tinh dầu Tràm trà được ứng dụng rộng rãi trong sản xuất
kem đánh răng, nước súc miệng, để cầm máu, trị các chứng ngoài da như:
ngứa ngáy, mày đay, gàu, lở loét, mụn trứng cá, rận rệp, đau nhức, nứt nẻ,
viêm lợi.
Tràm trà có phân bố tự nhiên ở ven biển phía Bắc New South Wales, là
loài cây nhỏ 2- 3m, những nơi đất tốt có thể cao tới 14m. Đường kính thân
cây hiếm khi đạt tới 30cm (Boland, 2006), vỏ bong ra từng lớp mỏng, lá hẹp
hình lông chim có màu xanh sáng. Tràm trà có phân bố tự nhiên ở 29- 33 vĩ
độ Nam, song lại có biên độ sinh thái lớn. Nhiệt độ trung bình thích hợp 1731oC nhưng có thể sống ở nơi có nhiệt độ của tháng lạnh nhất 1- 9oC và nhiệt
độ của tháng nóng nhất 25- 30oC, lượng mưa trung bình hàng năm từ 10001600mm. Đây là cây chịu được các điều kiện khí hậu khác nhau kể cả những
điều kiện khắc nghiệt (Boland et al, 2006) [30]. Tràm trà có thể sinh trưởng


7

trên đất sét, đất mặn ven biển, đất ngập nước và đất đồi núi,... và ở độ cao so
với mặt biển gần 950m (Coton, Murtagh,1990) [34].

Cụm hoa dài 3- 5cm, có hơn 30 hoa trên một cụm, hoa màu trắng, cánh
hoa dài 2- 3mm, có 30- 60 nhị hoa trên một cụm hoa, nhị hoa dài 3- 4mm, hoa
thường nở từ tháng 8 đến tháng 11 (Boland et al, 2006). Những cây non trẻ
lần đầu có nụ hoa sau 2 năm, tuy nhiên trong một số dự án cây trồng từ hạt
sau 3,75 năm thì 45% số cây ra hoa. Thời gian từ khi nở hoa tới lúc hạt chín là
18 tháng (Doran et al, 2002) [36]. Hạt Tràm trà có màu vàng sẫm, kích thước
rất nhỏ, hình nón cụt hoặc nhọn đầu. Hạt Tràm trà bắt đầu nảy mầm sau 5
ngày và kết thúc sau 11 ngày. Nhiệt độ thích hợp để hạt nảy mầm là 300C350C và đặc biệt giá thể gieo hạt phải ngập nước, tỷ lệ nảy mầm cao nhất đạt
40,5%. Một ha rừng trồng từ 25.000- 40.000 cây.
Trước năm 2006, Tràm trà được coi là cây thuộc nhóm bí mật quốc gia
của Australia. 97% tinh dầu thương phẩm của nước này được sản xuất từ các
khu trồng Tràm trà ở vùng ven biển phía Bắc New South Wales và Atherton
của Queensland. Australia là một nước có nhiều công trình nghiên cứu về cải
thiện loài cây này và sản xuất tinh dầu Tràm trà có lịch sử hơn 60 năm.
Trong tinh dầu tràm người ta quan tâm chủ yếu hai thành phần có tác
dụng chữa bệnh và làm hương liệu quan trọng nhất là 1,8-cineole và terpinen4-ol. Wiliam và Home (1989) nghiên cứu tinh dầu Tràm trà và chia chúng
thành 3 nhóm có thành phần chính khác nhau. Nhóm 1 có thành phần 1,8cineole thấp (3%) và terpinen-4-ol cao (45,4%), nhóm 2 có thành phần 1,8cineole trung bình (30,3%) và terpinen-4-ol trung bình (18%), nhóm 3 có
thành phần 1,8-cineole cao (64,1%) và terpinen-4-ol thấp (1,7%) [43]. Các tác
giả khác lại cho rằng Tràm trà có 5 dạng tinh dầu đó là 3 dạng có tỷ lệ 1,8cineol thấp, trung bình và cao từ New South Wales và 2 dạng terpinolene từ


8

Queensland (Doran et al, 2002). Tuy nhiên thành phần các hợp chất của các
loài trong chi Melaleuca luôn có sự biến đổi.
Ngoài ra, tinh dầu Tràm trà còn hàng chục các hợp chất khác có giá trị
dược liệu và mỹ phẩm như linalool, citronellol…. Hàm lượng tinh dầu trong
lá tươi của Tràm trà trồng ở vùng Đồng Hới tỉnh Quảng Bình là 2,2% và
thành phần chính trong dầu là terpinen-4-ol. Tràm trà trồng ở Việt Nam và
trồng ở Australia (tiêu chuẩn Australia-A.S.2782) có các chỉ số vật lý tương

đương nhau (Phạm Quốc Bảo, Nguyễn Xuân Dũng, P.A. Leclercq, 1993).
Australia là nước có nhiều công trình nghiên cứu về cải thiện giống cho
Tràm trà. Sản xuất tinh dầu đã có lịch sử hơn 60 năm, với tiêu chuẩn tinh dầu
Tràm trà từ năm 1990 đã yêu cầu có tỷ lệ terpinen-4-ol ít nhất 30% và 1,8cineole dưới 15%. Đồng thời ở Australia cũng đã có sách giới thiệu về kỹ
thuật trồng, chăm sóc cây trồng, thu hoạch lá, chưng cất tinh dầu cho loài cây
này (Colton, Mugtagh, 1990) [34]. Trong các năm 1998- 2003 đã có kế hoạch
nghiên cứu và phát triển công nghiệp tinh dầu Tràm trà gồm các nghiên cứu
về thị trường, cải thiện giống và kỹ thuật gây trồng cũng như các nghiên cứu
cải tiến công nghệ chế biến tinh dầu.
Australia đã thực hiện dự án cải thiện giống Tràm trà bắt đầu từ năm
1993. Sau giai đoạn 1 (1993-1996) thông qua việc chọn lọc xuất xứ đã góp
phần đưa sản lượng tinh dầu Tràm trà của Australia tăng lên 20%, hàm lượng
1,8-cineole thấp ở mức 2- 3% theo yêu cầu thị trường lúc đó. Giai đoạn 2 của
dự án được tiếp tục thực hiện trong 5 năm (1996- 2001). Tiêu chuẩn chọn
giống là có sinh khối lá lớn, hàm lượng tinh dầu trong lá cao, chất lượng tinh
dầu phù hợp với yêu cầu thị trường (tỉ lệ 1,8-cineole nhỏ hơn 4% và tỉ lệ
terpinen-4-ol lớn hơn 36%) và có khả năng thích nghi rộng với điều kiện sống
khác nhau, có sức đề kháng với sâu bệnh. Hiện nay đang ở giai đoạn 3.


9

Trước đây, các nhà chọn giống mới chỉ chú ý tới phát triển tràm theo
hướng lấy gỗ, củi nhưng những năm gần đây chọn giống tràm theo hướng lấy
tinh dầu đã và đang được chú ý.
Penfold và Morison (1946) nhận xét sản lượng tinh dầu có thể thấp ở
những tháng mùa đông nhưng hàm lượng 1,8-cineole của tinh dầu lại tăng về
những tháng này. Năm 1989, Southwell đã thấy có sự biến đổi hàm lượng
monoterpen của tinh dầu trong suốt quá trình sinh trưởng của lá. Hàm lượng
tinh dầu thay đổi phụ thuộc vào thời điểm trong ngày.

Ở Indonesia, Trung Quốc và một số nước khác trên thế giới việc trồng
Tràm trà làm nguyên liệu để sản xuất tinh dầu với quy mô lớn đã được thực hiện
và công tác cải thiện giống đã được chú trọng ngay từ đầu. Các nghiên cứu
thường tập trung vào việc tìm ra các xuất xứ có năng suất và chất lượng tốt.
Viện nghiên cứu Lâm nghiệp Quảng Tây đã nhập giống Tràm trà từ
Australia và đã chọn lọc và nhân giống Tràm trà có hàm lượng và chất lượng
tinh dầu cao. Hàng năm tại Quảng Tây đã sản xuất được 60-80 tấn tinh dầu
Tràm trà, trong đó có 40-50 tấn tinh dầu chất lượng cao với tỷ lệ terpinen-4-ol
40-50% và 1,8-cineole dưới 3% (Chumao, 2005) [33].
Ba khảo nghiệm hậu thế đã được xây dựng tại Wyrallah và Teven ở
New South Wales vào năm 1994. Vật liệu nghiên cứu là 199 lô hạt Tràm trà
từ những cây được chọn từ 26 xuất xứ thuộc nhóm có giá trị thương mại, tiêu
biểu cho 13 vùng lãnh thổ và 2 xuất xứ M. linariifolia (gồm 18 gia đình). Kết
quả 2 khảo nghiệm tại Wyrallah (khảo nghiệm chồi được 19 tháng tuổi và
vườn giống hữu tính thế hệ 1 là 25 tháng tuổi) cho thấy hàm lượng tinh dầu
trung bình tính theo chất khô trong lá của Tràm trà là 45,2 mg/g, tỷ lệ 1,8cineole là 4,3%, terpinen-4-ol là 35,6%. Trong đó 2 xuất xứ vượt trội cả về
hàm lượng và chất lượng tinh dầu là xuất xứ Candole (hàm lượng trung bình


10

cả ở 2 khảo nghiệm là 51,1mg/g, 1,8-cineole là 3,2%, terpinen-4-ol là 36,7%)
và Devils (hàm lượng trung bình là 52mg/g, 1,8-cineole là 2,2%, terpinen-4-ol
là 36,3%). Còn loài M. linariifolia cả hàm lượng và chất lượng đều thấp hơn.
Nghiên cứu trên những khảo nghiệm này còn cho thấy Tràm trà có hệ số di
truyền cho hàm lượng tinh dầu là 0,51-0,93, 1,8-cineole là 0,37-0,43%,
terpinen-4-ol là 0,81%. Hệ số di truyền về khối lượng khô là 0,25. Hệ số
tương quan giữa hàm lượng tinh dầu với tỷ lệ 1,8-cineole là 0,15, với
terpinen-4-ol là -0,14 và hệ số tương quan giữa tỷ lệ 1,8-cineole và terpinen4-ol là -0,66 (Doran el al., 2002). Mục đích phát triển các dòng vô tính Tràm
trà là đạt sản lượng 400 kg dầu/ha/năm từ việc gieo trồng 25.000 cây/ha với

terpinen-4-ol đạt 40% và 1,8-cineole 0,5%.
Australia cũng đề ra chương trình nghiên cứu về tinh dầu tràm giai
đoạn 2006-2011 nhằm tăng cường năng lực sản xuất tinh dầu, xác định thị
trường, tăng cường tính cạnh tranh và xây dựng mô hình giúp cộng đồng phát
triển sản xuất và kinh doanh tinh dầu (Austrilian Rural Industries Research
and Development Corporation, 2006) [29]. Đến năm 2001, Tràm trà đã có
diện tích trồng đến vài nghìn ha và giá trị sản lượng của nó đã lên đến hơn 16
triệu đô la Mỹ hàng năm (Doran et al., 2002) [37].
Năm 2006, Baskorowati giới thiệu các phương pháp lai giống cho
Melaleuca alternifolia để tạo giống có năng suất tinh dầu cao. Trước đó,
nghiên cứu lai khác loài giữa 3 cây đại diện của M. linariifolia là Bulahdelah
(NSW), Telagraph Point (NSW) và Tiaro (Qld) với 3 cây đại diện của M.
alternifolia đã cho thấy trong 8 tổ hợp lai được tạo ra thì 7 tổ hợp có tỷ lệ
1,8-cineole trung gian giữa hai bố mẹ, một tổ hợp có 1,8-cineole chỉ cao hơn
1% so với M. linariifolia (Doran et al, 2002). Lai giống cũng được Shelton và
cộng sự thực hiện để đánh giá mức độ kiểm soát di truyền của thành phần
monoterpene trong tinh dầu ở Tràm trà. Để làm việc này, các tác giả đó chọn


11

các cá thể đại diện có terpinen-4-ol cao, 1,8-cineole cao và terpinolene cao lai
với 3 cây cá thể có terpinen-4-ol cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy các cây lai
tạo ra đều có phổ tinh dầu thể hiện tính trung gian giữa các bố mẹ. Nghiên
cứu trong các quần thể tự nhiên cũng thấy các chemotype trung gian thường
xuất hiện với tỷ lệ cao rõ rệt trong các quần thể chồng lấn. Điều đó chứng tỏ lai
giống không tạo ra ưu thế lai về chất lượng tinh dầu (Shelton et al, 2002) [41].
Sau 5 năm chọn lọc và nhân giống đến năm 1995 ở Australia đã chọn
được Siêu dòng vô tính Tràm trà "88" có tỷ lệ terpinen-4-ol là 42-45%, tỷ lệ
1,8-cineole là 0,5-1,0%, trong lúc tiêu chuẩn tinh dầu Tràm trà là terpinen-4ol 35,5% và 1,8-cineole 5,5% (Burfield, Sheppard-Hanger, 2000) [31]. Còn

tiêu chuẩn ISO 4730- 2004 quy định cho tinh dầu loại I là có tỷ lệ terpinen-4ol cao hơn 40,1%, tỷ lệ 1,8-cineole dưới 5,1% (Carson, Hammer and Riley,
2006) [32]. Năm 1998 dòng vô tính này đã được đưa vào sản xuất trên quy
mô thương mại ở Artheton của Queesland.
1.3. Nghiên cứu cải thiện giống tràm trong nước
1.3.1. Nghiên cứu cải thiện giống tràm với mục tiêu lấy gỗ
Rừng tràm trước đây đã từng chiếm một diện tích 241.000ha, tập trung
chủ yếu ở đồng bằng Sông Cửu Long (Nguyễn Bội Quỳnh, 2000), song gần
đây diện tích rừng tràm ở nước ta đã giảm xuống do nhu cầu tràm để làm cọc
cừ ngày càng giảm, dẫn đến Tràm cừ liên tục mất giá, trong lúc hàm lượng và
chất lượng tinh dầu lại thấp.
Khảo nghiệm xuất xứ tràm được tiến hành lần đầu vào năm 1993 tại
tỉnh Kiên Giang và An Giang thuộc vùng tứ giác Long Xuyên (Thái Thành
Lượm, 1996; Nguyễn Thị Bích Thuỷ, 2003) [26], [25] và tại Ba Vì ở Hà Tây
(Lê Đình Khả, 2003)[14].
Trong các năm 1994, 1995 thông qua dự án ACIAR 9115 (phần thực
hiện ở Việt Nam là “Xây dựng các khảo nghiệm loài/xuất xứ của Melaleuca


12

và Astermyrtus để sản xuất gỗ và/hoặc tinh dầu ở đồng bằng sông Cửu Long
của Việt Nam”) một bộ giống khá hoàn chỉnh của các loài tràm đã được khảo
nghiệm tại Cà Mau và Long An do Phân viện Lâm nghiệp Nam Bộ phối hợp
với các nhà khoa học của CSIRO tiến hành. Bộ giống tham gia khảo nghiệm
gồm 48 xuất xứ của 12 loài tràm, trong đó có 8 xuất xứ Tràm cajuput
(Melaleuca cajuputi) của Việt Nam còn lại các xuất xứ tràm khác là của
Australia và Papua New Guinea (Lê Đình Khả và cs., 2003) [12].
Các khảo nghiệm được xây dựng ở các vùng có điều kiện lập địa tương
đối khác nhau, đại diện cho một số tỉnh Nam Bộ.
Các khảo nghiệm này đã cho thấy Tràm lá dài (M. leucadendra) là loài

có sinh trưởng nhanh nhất, tiếp đó là một số xuất xứ của Tràm lá rộng (M.
viridiflora) và Tràm cajuput (M. cajuputi) [14][12][20][21]. Những xuất xứ
này đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là giống Tiến
bộ kỹ thuật. Khảo nghiệm tại Thạnh Hoá (Long An) với 36 xuất xứ của 10
loài tràm được xây dựng trên dạng đất phèn tiềm tàng nông, pH=3,5. Số liệu
đo đếm sau 5 năm (1994-1999) cho thấy loài Tràm lá dài (M. leucadendra) có
sinh trưởng nhanh nhất với tỷ lệ sống 97- 98,8%, thể tích thân cây 24,050,5dm3. Trong các xuất xứ của Việt Nam chỉ có xuất xứ Tịnh Biên (An
Giang) là có sinh trưởng khá (V đạt 16,0dm3), song vẫn kém hai xuất xứ của
PNG. Loài có sinh trưởng kém nhất là M. stenostachya (tỷ lệ sống là 37,5%,
V đạt 4,7dm3).
Tháng 2/1997 một khảo nghiệm khác tại Thạnh Hoá (Long An) gồm 10
xuất xứ của 3 loài (Tràm lá dài, Tràm cajuput và Tràm lá rộng) đã được xây
dựng nhằm kết hợp với kỹ thuật làm đất và kỹ thuật lâm sinh. Đo đếm sau 2,5
và 3,5 năm cho thấy Tràm lá dài là loài sinh trưởng nhanh nhất, tiếp đó là
Tràm lá rộng và cuối cùng là Tràm cajuput [25].
Khảo nghiệm xuất xứ trồng vào năm 1993, tại trạm Kinh Đứng - huyện
Trần Văn Thời (Cà Mau) được xây dựng khảo nghiệm với 14 xuất xứ của 9


13

loài trên vùng đất phèn hoạt động và phèn than bùn, pH=2,8, ngập nước từ
tháng 7 đến tháng 1 năm sau, mức ngập sâu nhất 0,6m. Kết quả đánh giá vào
năm 1999 cho thấy xuất xứ Tràm lá dài cũng có tỷ lệ sống cao nhất (66,980,0%) và sinh trưởng nhanh nhất (V=16- 24,4dm3). Các xuất xứ Việt Nam
của Tràm cajuput và tất cả các loài tràm còn lại đều có sinh trưởng kém [22].
Khảo nghiệm tại khu 48 huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (1993- 1999) với
20 xuất xứ của 10 loài trên vùng đất phèn than bùn, pH=3,0, ngập nước từ
tháng 6 đến tháng 1 năm sau, mức ngập sâu nhất 0,4m. Kết quả khảo nghiệm
tại đây cho thấy loài Tràm lá dài là loài có triển vọng nhất với tỷ lệ sống 77,387,3%, thể tích 35,9- 64,6dm3. Trong các xuất xứ của Tràm cajuput thì các
xuất xứ tốt nhất của Việt Nam như Tịnh Biên (An Giang) và Vĩnh Hưng

(Long An) thể tích thân cây cũng chỉ đạt 14,4dm3 và 11,4dm3. Toàn bộ các
loài và xuất xứ còn lại đều có sinh trưởng kém và tỷ lệ sống rất thấp [12].
Kết quả khảo nghiệm tại Ba Vì, một số xuất xứ Tràm lá dài từ năm
1993 đến năm 2002 cũng cho thấy tuy cùng trồng trên đất đồi, song một số
cây ở khu vực ngập nước một thời gian trong mùa mưa cũng có các trị số về
đường kính, chiều cao, thể tích thân cây tương ứng là 13,1cm, 10,8m và
73,1dm3 nhanh hơn rõ rệt so với đất trồng ở đồi khô bên cạnh (có chỉ số tương
ứng là 11,9cm, 10,1m và 63,4dm3). Điều này chứng tỏ điều kiện lập địa ảnh
hưởng rõ rệt tới sinh trưởng của cây.
Đầu năm 2000, Trung tâm Nghiên cứu giống cây rừng lại tiến hành
khảo nghiệm một số xuất xứ tràm của Việt Nam và Tràm lá dài tại Gia Viễn
(Ninh Bình) với mục đích đánh giá khả năng sinh trưởng của chúng. Đánh giá
các khảo nghiệm xuất xứ tại Ba Vì và Gia Viễn vào năm 2006 cũng cho thấy
một số xuất xứ của Tràm lá dài có sinh trưởng nhanh nhất và có tiềm năng bột
giấy cao hơn Tràm cajuput (Nguyễn Viết Cường, Phạm Đức Tuấn, 2006)[4].
Trong các năm 2001- 2005 nghiên cứu lai giống tràm cũng được thực
hiện và đã chọn được một số tổ hợp lai có sinh trưởng nhanh. Các tổ hợp lai


14

được tiến hành là: Tràm lá dài x Tràm cajuput, Tràm cajuput x Tràm năm gân,
Tràm năm gân x Tràm lá dài và một số tổ hợp lai trong loài của Tràm lá dài.
Kết quả cho thấy hầu hết các cây lai đều sinh trưởng tốt hơn bố mẹ (Nguyễn
Việt Cường, Phạm Đức Tuấn, và cs, 2007) [5].
Khảo nghiệm tràm lai tự nhiên giữa Tràm cajuput của Việt Nam với
Tràm lá dài của Australia (tổ hợp lai CH1- L1) đã được xây dựng trên đất
rừng ngập nước theo mùa ở Việt Nam. Khảo nghiệm được xây dựng tháng
11/2000 với các giống tham gia khảo nghiệm gồm có tổ hợp lai CH1-L1,
Tràm lá dài xuất xứ Weipa - 14147 và giống Tràm cajuput tại Hòn Đất - Kiên

Giang. Theo dõi sinh trưởng sau 2 năm cho thấy giống lai khi trồng đại trà
trên diện hẹp cho sinh trưởng rất có triển vọng so với hai giống bố mẹ về các
chỉ tiêu sinh trưởng chiều cao, đường kính thân cây 1,3m và chất lượng thân
cây. Với triển vọng này cho phép triển khai trồng đại trà trên diện rộng đối
với đất phèn ngập nước theo mùa ở miền Nam nước ta. Trữ lượng ban đầu
sau 2 năm khảo nghiệm giống lai tự nhiên giữa Tràm lá dài với Tràm cajuput
CH1-L1 cho sản lượng khá cao 20m3/ha/năm trong khi loài nhập nội là
12m3/ha/năm và loài cây bản địa chỉ có 8,7m3/ha/năm (Trần Thị Thu Hằng,
Thái Thành Lượm, 2006) [6].
1.3.2. Nghiên cứu về tinh dầu tràm
Trong những năm gần đây, chúng ta mới tiến hành khảo nghiệm một số
giống tràm với mục đích lấy tinh dầu. Các nghiên cứu mới chỉ chú trọng chọn
giống có thành phần 1,8-cineole cao.
Các nghiên cứu của Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật cho rằng ở
nước ta có hai loại tràm là Tràm gió và Tràm cừ. Tràm gió có tỷ lệ 1,8-cineole
có thể đạt 46,9- 72%, song hàm lượng tinh dầu trong lá tươi chỉ đạt 0,330,78%, nên sản xuất tinh dầu kém hiệu quả. Tràm gió có hàm lượng tinh dầu
và 1,8-cineole tăng dần từ 2 tuổi tới 5 tuổi và ổn định ở các tuổi 6, 7, 8. Quá


15

trình tích luỹ tinh dầu của Tràm gió phụ thuộc vào các điều kiện sinh trưởng
nơi trồng (Đào Trọng Hưng, 1995) [9]. Tràm cừ chỉ có hàm lượng tinh dầu
trong lá tươi 0,2- 0,7%, tỷ lệ 1,8-cineole chỉ ở mức 1,43- 9,49% (Lã Đình
Mỡi, 2003) [17]. Tuy vậy, phân tích của Viện Hoá học các hợp chất thiên
nhiên của các mẫu tinh dầu được bán tại Thừa Thiên - Huế cho thấy tỷ lệ 1,8cineole chỉ đạt 13,16%, mẫu chưng cất lấy trực tiếp từ lá Tràm gió có tỷ lệ
1,8-cineole 60,07%, song hàm lượng tinh dầu tính theo lá tươi chỉ đạt 0,45%
(Lê Đình Khả và cs., 2009) [13].
Trên cơ sở khảo nghiệm được xây dựng năm 1994 trước đây, Phùng
Cẩm Thạch (2000) đã có nghiên cứu đánh giá hàm lượng và thành phần tinh

dầu của các loài tràm được khảo nghiệm tại Long An. Kết quả nghiên cứu đã
cho thấy ở giai đoạn 6 năm tuổi trong 12 xuất xứ của 7 loài được nghiên cứu
chỉ có 3 xuất xứ của Tràm năm gân, 1 xuất xứ của M. stenostachya và 1 xuất
xứ của M. fluviatilis có hàm lượng tinh dầu cao. Các xuất xứ Tràm năm gân
và Tràm lá dài từ Australia đều có hàm lượng tinh dầu thấp. Nghiên cứu của
Phùng Cẩm Thạch (2006) cũng cho thấy 1 trong 3 xuất xứ của Tràm năm gân
có tỷ lệ 1,8-cineole cao nhất (có thể đạt 72%) và hàm lượng tinh dầu tương
đối cao, các xuất xứ của các loài còn lại đều có tỷ lệ 1,8-cineole thấp hơn vì
thế tác giả đã kiến nghị chọn xuất xứ 1302 (Tozer's gap) của Tràm năm gân
làm giống để sản xuất tinh dầu. Theo tác giả Tràm năm gân và Trảm trà là
những loài có triển vọng nhất để sản xuất tinh dầu ở nước ta [23] [24].
Tiêu chuẩn chất lượng tinh dầu được quy định tại Dược điển Việt Nam
là tỷ lệ 1,8-cineol hơn 60% mà không cần tinh chế (Bộ Y tế Việt Nam, 2002)
[2]. Nguyễn Văn Hiền (2003) đã đề xuất đề tài nghiên cứu trồng và phát triển
Tràm năm gân có tỷ lệ 1,8-cineole là 63% ± 2% rồi tinh chế để nâng lên cao
hơn. Song theo các chuyên gia EU dùng phương pháp tinh chế để nâng cao tỷ
lệ 1,8-cineol sẽ làm mất đi sự phối hợp các chất như vốn có trong tự nhiên


16

(Bùi Thị Bằng, 2007) [3]. Vì thế, việc chọn giống phải theo hướng nâng cao
tỷ lệ 1,8-cineole tự nhiên.
Năm 2005, Trung tâm Lâm sản ngoài gỗ (tiền thân của Viện Cải thiện
giống và Phát triển lâm sản) đã xây dựng một khảo nghiệm đồng bộ gồm 14
xuất xứ của Tràm năm gân, có đối chứng với giống Tràm cajuput của Việt
Nam và một lô hạt Tràm trà làm quần thể nền cho chọn giống có hàm lượng
và chất lượng tinh dầu cao tại Ba Vì. Năm 2004, với sự giúp đỡ của CSIRO
một quần thể chọn giống phong phú của Tràm trà cũng được trồng tại Ba Vì
làm cơ sở cho các bước chọn giống tiếp theo. Ngoài ra, Viện Cải thiện giống

và Phát triển lâm sản đã được CSIRO giúp đỡ bộ giống gồm toàn bộ các xuất
xứ hiện có của Tràm năm gân và giống Tràm trà để tiếp tục xây dựng khảo
nghiệm giống và tiến hành chọn giống có hàm lượng và chất lượng tinh dầu
cao tại các nơi khác ở nước ta.
Nguyễn Việt Cường và cộng sự (2007) đã bước đầu chọn giống Tràm gió
có hàm lượng tinh dầu cao phục vụ cho công tác lai tạo giống ở 3 vùng Đại Lải
- Phúc Yên, Phú Bình - Thái Nguyên và Thạnh Hoá - Long An, kết quả nghiên
cứu cho thấy hàm lượng tinh dầu (tính theo lá khô tuyệt đối) của mẫu cao nhất
đạt 3,60%, mẫu có hàm lượng thấp nhất là 1,15% và phân tích thành phần tinh
dầu của 39 mẫu thì có 17 mẫu có thành phần 1,8-cineole trên 65%.
Nguyễn Thị Thanh Hường (2008) đã có nghiên cứu về chọn giống tràm có
năng suất và chất lượng tinh dầu cao tại Ba Vì song chủ yếu là cho Tràm năm
gân [10]. Hoàng Ngọc Thơ (2008) cũng cho nghiên cứu về nhân giống hom và
nảy mầm hạt phấn của Tràm cajuput theo hướng chọn giống lấy tinh dầu.
Năm 2008, Viện Cải thiện giống và Phát triển lâm sản tiếp tục xây dựng
khảo nghiệm xuất xứ mới và khảo nghiệm dòng vô tính tại Ba Vì và đã chọn
được 6 cây trội dự tuyển của xuất xứ Q8 đạt tỷ lệ 1,8 cineole là 66,44-


17

69,08%, cao hơn hẳn chất lượng tiêu chuẩn chất lượng tiêu chuẩn tinh dầu
loại 1 quốc tế (Khuất Thị Hải Ninh, 2009)[22].
Phan Đình Tuấn và cs (năm 2008) trình bày các kết quả nghiên cứu về
đặc tính kháng khuẩn của tinh dầu Tràm trà được nhập từ Australia trồng tại
Đồng Tháp Mười của đồng bằng sông Cửu Long và khả năng sử dụng nó
trong sản xuất các mỹ phẩm. Kết quả nghiên cứu cho thấy không chỉ có
terpinen-4-ol mà các cấu tử khác có mặt trong tinh dầu Tràm trà đều có khả
năng kháng khuẩn. Với hàm lượng sử dụng 0,25%, các phân đoạn khác nhau
của tinh dầu tràm đều có khả năng tiêu diệt các chủng Escherichia coli,

Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa và Candida albacans là các
chủng điển hình đến 90% mà vẫn có mùi dễ chịu. Kết quả này góp phần củng
cố triển vọng ứng dụng của tinh dầu Tràm trà trong việc sản xuất các chất tẩy
rửa, mỹ phẩm và dược phẩm [26].
Nghiên cứu của Lê Đình Khả và cộng sự (2008) cho thấy các xuất xứ
Tràm năm gân có biến dị lớn về chất lượng tinh dầu và được chia thành ba
nhóm là: (i). Nhóm có tỷ lệ 1,8-cineole cao (60- 78%), (ii). Nhóm có tỷ lệ
nerolidol cao (37,1- 82%), và (iii). Nhóm có tỷ lệ linalool cao (58,7%). Tràm
trà trồng ở Việt Nam gồm hai nhóm là nhóm có tỷ lệ terpinen-4-ol cao (3945%) và nhóm có tỷ lệ 1,8-cineole cao (57,1- 66,2%). Tràm cajuput của ta
cũng gồm hai nhóm là nhóm có hàm lượng tinh dầu 0,14- 0,45% với tỷ lệ 1,8cineole ở dạng vết đến 10% và nhóm có hàm lượng tinh dầu 0,68- 0,95% với
tỷ lệ 1,8-cineole 55-70%. Hai nhóm này có thể là hai phân loài Melaleuca
cajuputi subsp. cajuputi (tỷ lệ 1,8-cineole cao) và Melaleuca cajuputi subsp.
cumingiana (tỷ lệ 1,8-cineol thấp) như ở Indonesia.
Nghiên cứu của các tác giả cho thấy không những các loài tràm có hàm
lượng và chất lượng tinh dầu khác nhau mà ngay trong một loài các xuất xứ
và các cá thể khác nhau cũng có hàm lượng và chất lượng tinh dầu khác nhau.


18

Vì thế, nghiên cứu chọn giống trong loài là một việc cần thiết và sẽ mang lại
hiệu quả thiết thực (Lê Đình Khả và cs., 2008).
Tràm trà mới được nhập vào nước ta chưa lâu, mới có một số nghiên
cứu bước đầu về đặc điểm sinh trưởng, tích lũy tinh dầu và khả năng nhân
giống cũng như bước đầu về hàm lượng tinh dầu (Lê Đình Khả và cộng sự
(2008) và chọn hai cây trội từ 12 cây ban đầu (Nguyễn Cẩm Thạch, 2000),
song 2 cây được chọn ban đầu đều không đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn của
ISO- 4730, 2004.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Nghi (2000) về tinh dầu trong lá Trảm trà
tại một số điểm ở miền Bắc nước ta cho thấy sau 3 năm hàm lượng tinh dầu

đã khá ổn định, tỷ lệ terpinen-4-ol có thể đạt 33- 43%, song các phân tích mới
do Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên tiến hành lại thấy những cây này
thuộc nhóm có tỷ lệ 1,8-cineole tương đối cao. Ngoài ra, nghiên cứu nhóm
Tràm trà khác cũng thấy tỷ lệ terpinen-4-ol chỉ đạt 11,9%, trong khi tỷ lệ 1,8cineole lại đến 40,7% (Lê Đình Khả, Nghiêm Quỳnh Chi, 2004) [14]. Sự khác
biệt này có thể cũng là một hướng chọn giống cho loài tràm này (ý kiến của
nhà khoa học quá cố Nguyễn Quang Lộc, 2004).
Vì thế việc chọn giống Tràm trà được đi theo hai hướng giàu terpinen4-ol và giàu 1,8-cineole. Đây cũng là hướng đi cho đề tài luận văn thạc sỹ
của học viên.
1.3.3. Nghiên cứu về giâm hom tràm
Ở Australia, Tràm trà dễ dàng trồng từ hạt thông qua vườn ươm. Những
người sản xuất cổ truyền đã thu nhặt hạt giống từ những vùng hoang để về
gieo trồng nên sản lượng và chất lượng tinh dầu thấp. Các nhà khoa học đã
cho thấy: Tràm trà nhân giống bằng hạt phân ly rất mạnh làm cho năng suất
và chất lượng tinh dầu giảm sút.


19

Tràm trà đã được các nhà khoa học thử nghiệm bằng phương pháp nhân
giống từ hạt với hai loại hạt nhập từ Trung Quốc và Australia, nhưng tỷ lệ nảy
mầm của hạt Tràm trà rất thấp (hơn 0,1%). Có thể khẳng định rằng kết quả
nhân giống bằng phương pháp giâm cành khả quan hơn, cây ra rễ trong thời
gian khoảng 18 đến 20 ngày khi dùng chất kích thích ra rễ (IBA) ở nồng độ
1.500 ppm. Cây giống cao, lá nhiều và phát triển tốt, đạt tỷ lệ sống cao (8590%) (Nguyễn Văn Minh) [17].
Từ những hạn chế của nhân giống hữu tính tác giả tiến hành các thí
nghiệm nhân giống vô tính. Từ những chồi phụ trên rễ, thân, gốc thân phát
triển thành những cây tràm mới. Đối với cây tràm dạng cây bụi, việc nhân
giống vô tính bằng cây con từ rễ đã được áp dụng tại Quảng Bình nhưng việc
nhân giống bằng hom là phổ biến hơn cả.
Nguyễn Thị Hải Hồng (2006) công bố kỹ thuật sản xuất cây tràm giống

trong đó có kỹ thuật giâm hom chung cho cây tràm với hai phương pháp giâm
hom trực tiếp và giâm hom gián tiếp, hormon kích thích ra rễ là IBA hoặc
NAA nồng độ 0,5-1%, giá thể giâm hom là cát. Nhưng tác giả chưa đưa ra tỉ
lệ sống là bao nhiêu [8].
Thái Thành Lượm (2006), Nghiên cứu nhân giống vô tính giống Tràm
lai tự nhiên giữa Tràm lá dài với Tràm cajuput L2- CV1 bằng chất kích thích
sinh trưởng IBA với 5 nồng độ 1%; 1,5%; 2%; 2,5%; 3% cho thấy hỗn hợp
cát và potat tro trấu sau 30 ngày tuổi sẽ hình thành chồi ngọn, ra rễ, nhiều lá
chồi và tỷ lệ sống 80- 90%, nồng độ 2% có tỉ lệ sống cao nhất 95%.
Phạm Đức Tuấn, Hoàng Vũ Thơ (2008) nghiên cứu khả năng ra rễ của
Tràm cajuput ở nước ta với tổng số 8 công thức, trong đó 6 công thức là
hormon NAA và IBA ở 3 nồng độ 500ppm, 1000ppm, 1500ppm, chỉ dùng


×