TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH
TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI 7: LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI
Giảng viên hướng dẫn: ThS. TRƯƠNG MINH TUẤN
Nhóm thực hiện: Nhóm 11
Thành viên: NGUYỄN TRUNG QUÂN
TRẦN VƯƠNG TÀI
Niên khoá: 2016 – 2018
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2016
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: LỊCH SỬ VÀ LUẬN ĐIỂM RA ĐỜI LÝ THUYẾT TÀI
CHÍNH HÀNH VI
1. Lịch sử ra đời lý thuyết tài chính hành vi
Trong vài thập niên gần đây, một khái niệm tài chính mới được nhắc đến
nhiều và quen thuộc với các nhà Kinh tế, đó là Lý thuyết về Tài chính hành vi.
Ngày nay việc nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết tài chính hành vi trở nên khá
phổ biến, giúp cho các nhà đầu tư cải thiện đáng kể chiến lược đầu tư của mình.
Tài chính hành vi là một phần của tài chính, nghiên cứu để hiểu và giải
thích những biểu hiện mang tính tâm lý của con người trên thị trường tài chính,
sử dụng những kiến thức thuộc phạm trù tâm lý học, xã hội học và tài chính học
để lý giải những hành vi bất thường của nhà đầu tư mà chưa được lý giải trong
nền tảng của lý thuyết truyền thống.
Nghiên cứu tài chính hành vi là nghiên cứu ảnh hưởng tâm lý của nhà đầu
tư và những hệ quả theo sau lên thị trường tài chính. Tài chính hành vi đóng vai
trò rất quan trọng trong việc giải thích tại sao và làm thế nào thị trường có thể
không hiệu quả.
Để hiểu sâu hơn về Lý thuyết tài chính hành vi, chúng ta cần tìm hiểu sơ
nét về lịch sử hình thành của lý thuyết này?
Có thể nói ý tưởng về Lý thuyết tài chính hành vi ra đời rất lâu nhưng lại
được ít nhiều người để ý và nghiên cứu. Trước đây, các nhà kinh tế học muốn
tách kinh tế học ra thành một ngành khoa học tự nhiên, mà khoa học tự nhiên thì
được giải thích bằng các quy luật, quy chuẩn có phần khô khan. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính 1987 và khủng hoảng tài chính 2008, dường như người ta đặt
dấu hỏi lên các quy luật mà trước giờ đang được nghiên cứu dựa trên rủi ro và
tỷ suất sinh lợi vốn dĩ khá lạnh lùng.
3
Khi nhắc tới lịch sử của Lý thuyết tài chính hành vi, người ta thường nhắc
tới khởi đầu từ nghiên cứu đầu tay của nhà tâm lý học người Pháp, Jean-Gabriel
De Tarde (1843 – 1904), về ứng dụng tâm lý học vào khoa học kinh tế với tác
phẩm “La psychologie économique” xuất bản năm 1903 và George Charles
Selden với tác phẩm “Psychology of the Stock Market” xuất bản năm 1912. Sau
đó, mãi tới năm 1973, tài chính hành vi mới có những bước tiến đáng kể khi mà
hai nhà tâm lý học tài năng Amos Tversky và Daniel Kahneman đưa ra những
thuật toán sẵn có để ước lượng tần suất nhóm hay xác suất của các sự kiện bằng
thuật toán này[2].
Sang những năm 1980, lý thuyết tài chính hành vi được thảo luận rải rác
trong một số nghiên cứu của các học giả kinh tế nổi tiếng như: Samuelson và
Zeckhauser với sự phát hiện ra hiện tượng “xu hướng lệch lạc” vào năm 1988;
Kahneman, Knetch và Thaler với “tâm lý sợ mất mát” và “hiệu ứng bầy đàn”
năm 1990; “Tính bảo thủ” của Basu vào năm 1997…[2]
Sau cuộc đại khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, mà điển hình là
cuộc khủng hoảng “bong bóng” nhà đất tại Mỹ đã khiến người ta phải quan tâm
nhiều đến lý thuyết này nhằm giải thích những hiện tượng bất thường của kinh
tế mà các lý thuyết trước đây chưa chỉ ra được.
2. Lý thuyết thị trường hiệu quả và nguyên nhân làm nảy sinh LTTCHV
2.1. Lý thuyết Thị trường hiệu quả
Thị trường hiệu quả có thể được hiểu nôm na là nơi mà tại bất kỳ thời điểm
nào, tất cả các thông tin mới đều được những người tham gia thị trường nắm bắt
một cách nhanh chóng, thông tin nhanh chóng được phản ánh vào giá cả thị
trường và các nhà đầu tư phản ứng một cách đúng đắn với tất cả các thông tin
đó.
Theo lý thuyết này thì “giá luôn đúng” và đúng bằng giá trị cơ bản của tài
sản đó. Đây chính là tổng chiết khấu của dòng tiền kỳ vọng trong tương lai, nhà
4
đầu tư phản ánh một cách chính xác với thông tin sẵn có và tỷ suất chiết khấu
phù hợp với các mẫu hình lựa chọn một cách chuẩn tắc.
2.2. Ba trụ cột của LTTTHQ làm nảy sinh LTTCHV
Lý thuyết thị trường hiệu quả có ba giả định chính hay ba trụ cột được kỳ
vọng là không thể phá vỡ nổi.
2.2.1. Trụ cột 1: Nhà đầu tư khôn ngoan hay nhà đầu tư duy lý
Rất khó để có thể đưa ra một khái niệm đầy đủ nhất về nhà đầu tư khôn
ngoan hay nhà đầu tư duy lý. Nhưng ta có thể hiểu nhà đầu tư khôn ngoan là
những nhà đầu tư đánh giá chính xác giá trị cơ bản của chứng khoán và họ cũng
phản ứng hay xử lý một các đúng đắn với tất cả thông tin. Họ là “những con
người hoàn hảo”.
Nhưng thực tế, không phải ai cũng hoàn hảo như vậy, có những nhà đầu tư
phản ứng bất thường trên thị trường và lý thuyết thị trường hiệu quả giả thiết
rằng họ phản ứng không có tương quan hay mối liên hệ nào.
Tuy nhiên, thị trường hiệu quả cũng nhận thấy có một số các nhà đầu tư
bất thường và hành động của họ được giả thiết ở trụ cột 2[2].
2.2.2. Trụ cột 2: Các sai lệch không tương quan
Một vài nhà đầu tư có thể có các hành vi bất thường (còn được gọi là
nhà đầu tư bất thường hay nhà giao dịch gây nhiễu), tuy nhiên nếu những hoạt
động đầu tư này chỉ mang tính ngẫu nhiên, tự phát và không tương quan với
nhau thì liền sau đó giao dịch của họ sẽ bị loại trừ bởi các nhà đầu tư khôn
ngoan và kết quả hoạt động của họ không ảnh hưởng đến giá. Tính logic đằng
sau giả định này là hoạt động giao dịch của nhà đầu tư có tương quan kém với
những người khác.
Nếu hành vi của con người là ngẫu nhiên sẽ không có lo ngại về tính hiệu
quả của thị trường, bởi vì giao dịch của họ có thể bị loại trừ và sẽ không gây ra
5
một ảnh hưởng đáng kể nào đến giá. Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy trong chương
hai của bài, các nhà tâm lý học bằng thực nghiệm đã chỉ ra rằng các nhà đầu tư
bất thường với phán đoán sai thường có xu hướng chung – nghĩa là người ta
thường đi chệch khỏi sự kỳ vọng của mình theo cùng một phương thức tương tự
nhau (hay hành vi bất thường của họ có tính tương quan nhau) thì đây là vấn đế
đáng để bàn! Nó có thể đẩy giá xa hơn nữa so với giá trị cơ bản. Tuy nhiên,
trong thị trường hiệu quả vẫn tồn tại trụ cột 3 có thể “hóa giải” hoặc ngặn chặn
điều này và đưa giá trở về giá trị cơ bản, giá trị thực ban đầu. Đó là nghiệp vụ
kinh doanh chênh lệch giá[2].
2.2.3. Trụ cột 3: Kinh doanh chênh lệch giá không bị giới hạn.
Nếu các nhà đầu tư bất thường có hành vi phi lý và các hoạt động này lại
có tương quan cao với nhau thì theo lý thuyết thị trường hiệu quả, các nhà đầu
tư khôn ngoan nhìn thấy được việc định giá sai này, họ sẽ dùng nghiệp vụ kinh
doanh chênh lệch giá, với giả thiết không bị giới hạn kinh doanh chênh lệch giá,
để điều chỉnh việc định giá sai và xóa bỏ hành động bất thường của nhà đầu tư.
Từ đó, họ vừa tìm được lợi nhận vừa đưa giá chứng khoán bị định giá sai về
trạng thái giá trị thực ban đầu. Bằng cách mua chứng khoán rẻ và bán chứng
khoán mắc. Kết quả là thị trường vẫn giữ nguyên tính hiệu quả. Thị trường hiệu
quả cho rằng việc kinh doanh chênh lệch giá sẽ không tốn chi phí và gánh chịu
rủi ro[2].
Bằng những nghiên cứu thực nghiệm trên thị trường, người ta phát hiện ra
rằng có những thời điểm cả ba trụ cột này đều không thể giải thích được thực tế
thị trường và đôi khi sự định giá sai này vừa không được điều chỉnh về giá trị cơ
bản mà còn bị đẩy đi rất xa.
Qua hàm ý trên, dường như lý thuyết thị trường hiệu quả không đủ để giải
thích kết quả thực nghiệm trên thị trường và dường như “thị trường có thể hiệu
quả nhưng con người thì không hiệu quả”, mà chủ thể tham gia thị trường chính
là con người.
6
Trước thực tế của các cuộc khủng hoảng tài chính và sự “nổi loạn” của thị
trường tài chính, người ta đòi hỏi một lý thuyết hay một công trình nghiên cứu
khác bổ sung cho lý thuyết thị trường hiệu quả và từ đó lý thuyết tài chính hành
vi xuất hiện thường xuyên hơn, giúp giải thích các hiện tượng mà trước đó lý
thuyết thị trường hiệu quả không giải thích được.
3. Định nghĩa tài chính hành vi
3.1. Khái niệm
Lý thuyết tài chính hành vi, hay tài chính hành vi có thể được hiểu một
cách đơn giản là thuyết sử dụng các nghiên cứu về tâm lý và hành vi con người
nhằm lý giải các vấn đề tài chính. Về mặt hàn lâm, tài chính hành vi là một
phạm trù của tài chính, nó nghiên cứu bổ sung cho các lý thuyết tài chính truyền
thống bằng việc giới thiệu hành vi tác động đến tiến trình ra quyết định. Tài
chính hành vi liên quan đến cá nhân và cách thức thu nhận, sử dụng thông tin.
Nghiên cứu lý thuyết tài chính hành vi giúp hiểu và dự báo những liên quan
giữa quá trình ra quyết định mang tính tâm lý với hệ thống tài chính. Có thể
diễn giải tài chính hành vi thông qua các yếu tố chi phối đến nó như sau:
− Tâm lý học: là ngành khoa học nghiên cứu hoạt động, tinh thần và tư
tưởng của con người (cụ thể đó là những cảm xúc, ý chí và hành động).
Tâm lý học cũng chú tâm đến sự ảnh hưởng của hoạt động thể chất, trạng
thái tâm lý và các yếu tố bên ngoài lên hành vi và tinh thần của con
người.
− Xã hội học: là khoa học về các quy luật và tính quy luật xã hội chung với
đặc thù của sự phát triển và vận hành của hệ thống xã hội xác định về mặt
lịch sử; là khoa học về các cơ chế tác động và các hình thức biểu hiện của
các quy luật đó trong các hoạt động của các cá nhân, các nhóm xã hội,
các giai cấp, tôn giáo, văn hóa và các dân tộc.
7
− Tài chính: là phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị, có thể đại diện bằng các mô hình, lý thuyết tài
chính[2].
3.2. Ba điều kiện tồn tại của tài chính hành vi
Lý thuyết thị trường hiệu quả cho rằng bất kỳ sự đánh giá sai nào xảy ra
trên thị trường, thì bằng ba trụ cột trên của thị trường hiệu quả sẽ đưa giá về
đúng giá trị thực của nó. Nhưng nếu điều đó không xảy ra mà xảy ra đồng thời
ba điều kiện sau của tài chính hành vi thì việc định giá sai sẽ trở nên trầm trọng
hơn, thậm chí gây ra khủng hoảng tài chính[1]. Ba điều kiện đó là:
− Tồn tại hành vi không hợp lý.
− Hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống
− Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá
Chính ba điều kiện này đã làm cho lý thuyết tài chính hành vi với nền tảng
cơ bản là “thị trường không luôn luôn đúng”, đã đặt ra một đối trọng lớn đối với
lý thuyết thị trường hiệu quả, cơ sở của các lý thuyết tài chính cơ bản trong suốt
4, 5 thập kỷ gần đây.
8
CHƯƠNG 2: BA LUẬN CỨ VỀ LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH HÀNH VI
1. Hành vi không hợp lý
1.1. Lý thuyết triển vọng
Đây là một lý thuyết mới được Daniel Kahneman và Amos Tversky đưa ra
khi các ông nghiên cứu thực nghiệm bằng các mô hình mô tả về quyết định
được thực hiện trong điều kiện có mức rủi ro và phát triển thành một lý thuyết
mới “lý thuyết triển vọng”. Đây là lý thuyết mở đầu của tài chính hành vi và là
cơ sở cho những lý thuyết sau đó.
Lý thuyết này đã đề ra 3 vấn đề, đó là:
− Con người đôi khi thể hiện sự e ngại rủi ro và đôi khi lại thể hiện sự ưa
thích rủi ro, tùy thuộc vào bản chất của triển vọng mà họ nghĩ tới.
− Thái độ đối với rủi ro không tương đồng với việc được và mất. Khi được
thì người ta e ngại rủi ro hơn, còn khi mất thì người ta thường thích rủi ro
hơn, nghĩa là sự thay đổi của mức tài sản họ thực sự nhận được, chứng
không phải giá trị tài sản (mức giàu có) cuối cùng. Trong khi đó, lý thuyết
hữu dụng kỳ vọng giả định con người đánh giá kết quả dựa trên mức giàu
có cuối cùng.
− Con người e ngại mất mát (thua lỗ) vì tâm lý mất mát thường nặng hơn
cái nhận được.
Ví dụ như tình huống người chơi bài bạc. Khi họ lời, họ thường có khuynh
hướng nghỉ chơi sớm, để chắc chắn có tiền. Khi họ lỗ, họ thường có khuynh
hướng “làm liều” hơn, chơi tiếp và chấp nhận rủi ro lỗ hơn, với hi vọng tìm lại
được vốn.
Lý thuyết triển vọng này có thể dẫn đến một hiệu ứng, đó là sự tính toán
bất hợp lý
− Tính toán bất hợp lý:
9
Tính toán bất hợp lý là một phần trong lý thuyết triển vọng. Nó mô tả
khuynh hướng của mọi người trong việc đặt những sự kiện cụ thể vào những
tính toán bất hợp lý dựa trên thói quen hời hợt, thói quen thiển cận (Shiller,
1998). Ý tưởng chính dưới quan điểm về “sự tính toán bất hợp lý” là người ta có
khuynh hướng phân chia những loại trò chơi khác nhau vào từng mảng/tài
khoản riêng biệt và bỏ qua sự tương tác giữa chúng.
Chẳng hạn như một gia đình phân chia tiền cho ăn uống thành 2 phần riêng
biệt, phần chi tại nhà và phần ăn cuối tuần tại nhà hàng, và không đặt chúng
trong một mối liên hệ. Khi chi tiêu cho đồ ăn tại nhà, họ thường không mua hải
sản cao cấp (tôm hùm chẳng hạn) vì nghĩ rằng nó mắc và chỉ ăn thịt bình
thường; nhưng khi ăn tại nhà hàng, người này lại gọi tôm hùm, thay vì ăn một
bữa thịt bình thường. Ngoài ra, họ kiên quyết tách rời từng khoản riêng biệt,
khoản nào ra khoản đó, không được dùng chéo nhau thậm chí một trong hai cái
âm tiền. Chính điều đó có thể dẫn đến sự tính toán sai lầm. Thay vì nhất quyết
khoản nào ra khoản đấy, không được dùng lẫn lộn, cái nào hết tiền rồi thì thôi,
người chủ nhà có thể dùng đan sen chúng, chẳng hạn khi khoản tiền cho chi tiêu
mua đồ ăn hàng ngày hết, họ có thể dùng tạm khoản tiền từ việc để dành cho đi
nhà hàng sau đó hoàn trả lại phần tiền này, làm cho ông chủ động hơn trong
nguồn tiền.
Sự tính toán bất hợp lý giúp giải thích được rất nhiều hiện tượng như lựa
chọn ngược với sở thích, tâm lý sợ thua lỗ, hiệu ứng phân bổ tài sản. Tính toán
bất hợp lý còn thể hiện rất rõ khi người ta có tâm lý thực hiện lệnh bán ngay khi
mang lại lời nhỏ và trì hoãn bán ngay khi xuất hiện những khoản lỗ nhỏ[1].
Tuy nhiên, nhờ hiệu ứng sau đây mà tâm lý làm liều với rủi ro/mất mát của
con người được hạn chế. Đó là sự tự điều chỉnh.
− Tự điều chỉnh: Sự tự điều chỉnh làm giảm nhẹ tính toán bất hợp lý và tâm
lý chấp nhận hơn trong rủi ro thua lỗ. Như trường hợp người chủ nhà ở
10
trên, họ không chắc được tính toán của mình có hợp lý hay không, họ sẽ
cân nhắc và điều chỉnh lại tổng số tiền họ được và mất.
1.2. Sự trải nghiệm hay thuật toán và xu hướng lệch lạc
1.2.1. Sự quen thuộc và trải nghiệm có liên quan
− Sự quen thuộc: Con người ta thường có khuynh hướng phản ứng lặp lại
với những tình huống mà họ cảm thấy quen thuộc. Bởi vì tâm lý con
người thường cảm thấy an tâm với những điều quen thuộc và ghét sự rủi
ro và mơ hồ. Rủi ro và sự mơ hồ làm cho họ không còn cảm giác an tâm,
và sự ngờ vực bao trùm tâm trí họ. Tất cả những điều trên cho thấy con
người có khuynh hướng tìm kiếm sự an tâm và “mở lòng” với cái gì họ
biết hơn là cái xa lạ[2].
Ở Phần Lan có hai thứ tiếng chính thức là Phần Lan và Thụy Điển, nghiên
cứu chỉ ra rằng, sau khi kiểm soát các yếu tố khác có liên quan, các nhà đầu tư
Phần Lan thích đầu tư vào các công ty ngôn ngữ chung là tiếng Phần Lan, các
nhà đầu tư Thụy Điển thì thích các công ty có ngôn ngữ chung là tiếng Thụy
Điển. Đối với vấn đề ngôn ngữ công ty thì công ty nói tiếng Phần Lan thích
CEO là người Phần Lan, còn với Công ty Thụy Điển thì ngược lại. Đây là xu
hướng chung, các nhà đầu tư tổ chức cũng không thể thoát khỏi xu hướng này.
Đây là một hình thức của sự quen thuộc, đi theo lối mòn, nó tạo nên một
tâm lý sở hữu và cảm thấy được sở hữu, cảm thấy thân thuộc. Nó tạo nên một
lợi thế thông tin, chúng ta có thể trực tiếp giám sát và tiếp cận thông tin nội bộ.
Tuy nhiên, sai lầm ở chỗ là họ bó cụm sự quen thuộc của họ lại trong phạm vi
nhỏ, mà bỏ qua các công ty khác, có thể là mới lạ với họ, nhưng nó tốt hơn
nhiều các công ty quen thuộc của mình[2].
− E ngại sự mơ hồ: Con người thường dễ dàng chấp nhận tham gia một
cuộc chơi nếu họ cảm thấy am hiểu, nghĩa là nếu họ cảm thấy đủ khả
năng chiến thắng và cảm thấy e ngại với sự mơ hồ.
11
Tâm lý e ngại sự mơ hồ là một phần trong sự quen thuộc, người ta sợ sự
mơ hồ không chắc chắn với những cái mới, lạ và không tìm hiểu sâu. Dẫn đến
bỏ qua những cơ hội tốt, mà đôi khi ráng “chịu đựng” với cái sẵn có, quen
thuộc, dù biết rằng nó không còn tốt nữa.
− Trải nghiệm đa dạng hoá: có nghĩa là con người thường ít cố gắng khi
đứng trước các lựa chọn không loại trừ lẫn nhau. Một hành vi thường
thấy ở các bữa tiệc buffet là dùng thử nhiều món ăn khác nhau (hoặc tất
cả), với giả thiết bạn chỉ được chọn 1 lần cho tất cả các món ăn cùng lúc,
nghĩa là có sự giới hạn về thời gian. Việc chỉ chọn một hoặc hai loại món
ăn, tạo nên rủi ro là bạn ăn phải món không thích hoặc bỏ sót món ưa
thích. Và thường người ta chọn mỗi món một chút[2].
− Không thích sự thay đổi: Việc thích giữ nguyên tình trạng hiện tại cũng
xuất phát từ việc tìm kiếm cảm giác an tâm. Con người không thích sự
thay đổi, lo sợ rằng liệu bước đi tiếp theo có tốt hơn so với hiện tại. Do
đó, con người có khuynh hướng tiếp tục nắm giữ cái mà họ đang sở hữu
hơn[2].
1.2.2. Tình huống điển hình và các xu hướng lệch lạc liên quan
− Lệch lạc do tình huống điển hình: Tversky và Kahneman (1974) đưa ra
một định nghĩa cho tình huống này là người ta đánh giá xác suất xảy ra
của những sự kiện trong tương lai dựa vào mức độ “tương tự” với một
tình huống điển hình nào đó đã xảy ra. Điểm quan trọng là người ta
thường chỉ quan tâm đến một tình huống điển hình của một giai đoạn
ngắn thay vì quan tâm đến một mẫu hình điển hình trong một giai đoạn
dài, nghĩa là họ quy kết những mẫu hình hay những sự kiện rất hiếm khi
xảy ra thành những mẫu hình chuẩn cho tất cả và lấy đó làm cơ sở cho họ
đưa ra quyết định.
Chẳng hạn cho rằng điều kiện của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2007
“tương đồng” với giai đoạn năm 2006 hơn là giống với năm 2001 thì đương
12
nhiên sẽ cho rằng xác suất giá cổ phiếu còn lên nữa là cao hơn xác xuất giá cổ
phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu nhìn cho một giai đoạn 2000-2006, người ta sẽ thấy
thị trường lúc lên, lúc xuống, không phải lên mãi không ngừng, thì sẽ có đánh
giá khác về xác suất tăng, giảm[2].
− Sự neo vào: Sự neo vào mô tả trường hợp trong đó người ta sử dụng một
số hoặc giá trị như một điểm khởi đầu, được biết đến như là một điểm
neo, và điều chỉnh thông tin cho đến khi đạt được một giá trị có thể chấp
nhận được (Epley&Gilovich, 2005).
Giá trị ban đầu được tạo ra bằng cách tham gia xây dựng các vấn đề, là kết
quả của việc tính toán một phần, hay có thể được cung cấp bởi một thí nghiệm
hoặc các nguồn khác bên ngoài.
Gregory Northcraft và Magaret Neale đã tiến hành nghiên cứu vào năm
1987 xem hiệu ứng neo vào có thể xảy ra trong quá trình định giá bất động sản
hay không. Hai nhóm chuyên gia bất động sản được lựa chọn ngẫu nhiên và
được dẫn đến một ngôi nhà với yêu cầu định giá ngôi nhà đó. Họ được dẫn đi
xem ngôi nhà và nhận được một lượng thông tin xác định như nhau, gồm có giá
niêm yết của ngôi nhà. Điểm khác nhau duy nhất giữa hai nhóm này là nhóm I
được đưa giá niêm yết vào khoảng $65,900, trong khi nhóm II được đưa giá
niêm yết vào khoảng $83,900. Kết quả là mức định giá trung bình của nhóm I
vào khoảng $67,811, và của nhóm II là khoảng $75,190[2].
Rõ ràng, các chuyên gia niêm yết bất động sản đã bị neo vào giá niêm yết
mà họ đã được đưa ra trước đó.
1.3. Tâm lý con người
Sẽ thật là thiếu xót nếu nghiên cứu về hành vi bất hợp lý của con người mà
chúng ta không nghiên cứu về chính tâm lý con người, bởi lẽ con người là chủ
thể của thị trường. Bên cạnh các yếu tố về tư duy, nhận thức hành vi thì tâm lý
con người ảnh hưởng rất lớn đến quyết định và các vấn đề về tài chính.
13
Dưới đây là những tâm lý chính ảnh hưởng đến việc ra quyết định của con
người:
1.3.1. Lý thuyết tiếc nuối
Tâm lý của con người là cảm thấy đau khổ, hối tiếc vì làm sai, thậm chí là
lỗi sai nhỏ. Họ cảm thấy rất hối hận về quyết định mà nó gây ra kết quả xấu.
Nếu ai đó mong rằng có thể tránh khỏi nỗi đau của sự hối hận, họ có thể thay
đổi hành vi của họ theo cách mà đôi khi là bất hợp lý. Lý thuyết này có thể được
giải thích như việc ám chỉ nhà đầu tư tránh bán chứng khoán đang giảm giá để
không tạo ra lỗi mà họ làm hay là cách mà họ tránh cảm giác hối hận. Họ bán
chứng khoán mà đang lên để không cảm giác hối tiếc vì không bán nó nếu giá
sau này giá lại giảm[2].
1.3.2. Tâm lý sợ mất mát
Sợ mất mát là ám ảnh lớn của con người. Việc thua lỗ sẽ gây hậu quả tâm
lý nặng nề hơn niềm vui mang lại do thành công dù là thua hoặc được cùng một
món tiền. Một nhà đầu tư mua cổ phiếu, bán đi có lời 10 triệu chắc chắn sẽ hạnh
phúc hơn nhà đầu tư khác cũng chơi cổ phiếu, lúc đầu được 50 triệu, sau đó
thua lại 40 triệu dù khi tổng kết cả hai người đều lời một số tiền như nhau.
1.3.3. Quá tự tin và phản ứng thái quá hay bi quan
Chìa khóa quan trọng của nhân tố hành vi và có lẽ là khám phá mạnh mẽ
nhất trong tâm lý học để hiểu thị trường bất hoàn hảo là sự tự tin thái quá. Mọi
người có khuynh hướng thổi phồng tài năng của mình và đánh giá thấp khả
năng xảy ra của một kết quả xấu có thể xảy ra mà họ không kiểm soát được, từ
đó dẫn đến việc giao dịch quá lớn và bong bóng đầu cơ[2].
Quá tự tin được biểu hiện theo nhiều hình thức khác nhau, đó là:
− Sự ước lượng sai: Là một khuynh hướng người ta phóng đại tầm hiểu
biết của bản thân. Ví dụ như, người ta được hỏi một câu hỏi và được cung
cấp các câu trả lời. Đó có thể là lựa chọn đúng sai hoặc dạng nhiều lựa
14
chọn. Tiếp đó họ được hỏi về sự chắc chắn đối với câu trả lời của mình.
Nếu ai đó trả lời rằng mức trung bình về sự chắc chắn trong các câu trả
lời của mình khoảng 70%, trong khi thực tế chỉ đạt 55% thì họ sẽ được
cho là “tự tin quá mức”[2].
− Hiệu ứng tốt hơn trung bình: Trong các câu hỏi khảo sát, rất nhiều người
đánh giá khả năng của họ tốt hơn trung bình. Ví dụ: Một nhà nghiên cứu
khảo sát một mẫu sinh viên, báo cáo rằng 82% sinh viên tự cho là mình
thuộc nhóm 30% những người lái xe an toàn nhất[2].
− Ảo tưởng kiểm soát: người ta tin rằng họ có khả năng kiểm soát tình
huống tốt hơn là thực tế có thể. Hội chứng ảo tưởng về quyền kiểm soát
tình huống này dẫn đến việc nhà đầu tư định giá quá cao những cổ phiếu
đang mất giá trong danh mục đầu tư của mình, hoặc nó cũng làm cho anh
ta nhìn thấy một xu hướng không tồn tại hay chấp nhận mua cổ phiếu vì
dự đoán mức giá của nó sẽ tốt trong tương lai, bất chấp thực tế là giá thay
đổi trong tương lai hoàn toàn khác giá thay đổi trong quá khứ[2].
− Lạc quan quá mức: phản ánh cảm giác tin rằng mọi thứ thì tốt đẹp hơn so
với thực tế vốn có của sự việc. Chẳng hạn như là việc người ta thường
nghĩ họ có thể hoàn thành kế hoạch sớm hơn thực tế với tất cả các chi phí
phát sinh đều đã được tính đến. Nhưng trong thực tế, họ không thể thực
hiện các mục tiêu cơ bản trong ngắn hạn và việc chi vượt kế hoạch luôn
phổ biến. Đây là một dạng sai lầm gọi là sai lầm trong kế hoạch[2].
1.3.4. Tâm lý bảo thủ
Tâm lý bảo thủ ám chỉ một hiện tượng tâm lý mà ở đó người ta ngờ vực
bất kỳ thông tin mới và đưa ra quá nhiều đối trọng đến khả năng xảy ra của các
sự kiện trong một tình huống đã xảy ra trước đó hoặc đã định sẵn mẫu hình. Vì
thế, người ta sẽ mất nhiều thời gian hơn trước khi kết luận về khuynh hướng xảy
ra tiếp theo.
15
Tâm lý bảo thủ giống như một “rào cản vô hình”, ngăn người ta thay đổi
quan điểm/ý kiến của mình trước những cái mới.
Tâm lý bảo thủ thường đi kèm với phản ứng thái quá hay hời hợt là một
trong những nguyên nhân gây ra một xu hướng, động lực và cục bộ nào đó. Khi
điều kiện kinh tế thay đổi, người ta có xu hướng chậm phản ứng với những thay
đổi đó, và gắn nhận định của mình với tình hình chung trong một giai đoạn dài
hơi trước đó. Tức là khi có tin nền kinh tế suy giảm, họ cho rằng kinh tế kém đi
chỉ là tạm thời, dài hạn vẫn là đi lên, mà không nhận thấy có thể tin đó phát đi
tín hiệu một chu kỳ suy thoái nhiều năm đã bắt đầu[1]. Tuy nhiên, khi tình hình
vẫn chưa cho thấy sự cải thiện sau một khoảng thời gian thì mọi người đổ xô đi
bán cổ phiếu. Kết quả, lại dẫn đến phản ứng thái quá.
2. Hành vi không hợp lý mang tính hệ thống
Nếu chỉ một nhà đầu tư đơn lẻ có hành vi không hợp lý, thì ảnh hưởng của
giao dịch của nhà đầu tư này lên giá cổ phiếu trên thị trường là không đáng kể
(cho dù là tổ chức đầu tư lớn thì ảnh hưởng cũng rất hạn chế nếu chỉ đơn độc
một mình). Chỉ khi hành vi không hợp lý là mang tính hệ thống (nghĩa là một
nhóm nhiều nhà đầu tư có cùng một hành vi không hợp lý như nhau) thì khi ấy
việc định giá sai sẽ xuất hiện và có thể bắt đầu kéo dài.
Rủi ro mang tính hệ thống này hàm ý có sự tồn tại của hiệu ứng bầy đàn.
Tuy nhiên hành vi bầy đàn khác với các loại thuật toán hay sự trải nghiệm ở chỗ
nó dẫn dắt người ta lạc hướng khi họ theo khuynh hướng chung của thị trường.
Tức là hành động theo đám đông, khi đó các nhà đầu tư không thật sự “độc lập”
nữa.
Có ba lý do giải thích cho hành vi này của con người:
− Thứ nhất, đó là áp lực tuân theo xã hội. Hầu hết mọi người đều muốn hòa
đồng và được chấp nhận bởi xã hội thay vì bị ruồng bỏ, do đó họ thường
cư xử theo hành vi đám đông. Khi áp lực lớn tới mức buộc phải tuân theo
16
thì một người thay đổi quan điểm riêng không phải chỉ vì anh ta thực sự
tin vào quan điểm đám đông mà chỉ là việc thay đổi quan điểm riêng dễ
hơn việc thoát ra khỏi xã hội.
− Thứ hai đó là trí tuệ đám đông. Ngay cả khi bạn tin rằng hành động của
đám đông là sai, bạn vẫn thực hiện theo họ bởi tin rằng họ có thông tin gì
mà bạn chưa biết. Khi người ta bị đương đầu với những đánh giá của một
nhóm lớn, họ có khuynh hướng thay đổi những câu trả lời “sai” của họ.
Họ nghĩ đơn giản rằng tất cả những người khác không thể sai hay “đám
đông luôn đúng”.
− Thứ ba đó là áp lực từ chính nhà đầu tư. Họ hoài nghi về khả năng của
mình và có phần quá tin vào khả năng của đám đông. Mâu thuẫn trong
lựa chọn của họ là nên theo đám đông hay tách lập với đám đông, kết quả
là họ thiên về đám đông. Họ bám theo tâm lý bầy đàn bởi họ được an ủi
rằng nều họ mất tiền thì những người khác cũng sẽ mất[2].
Hành vi bầy đàn bao gồm hai loại:
− Hành vi “gượng ép”: chẳng hạn mọi người cảm thấy không thể thắng
được đám đông, nên để tránh bị dậm chân mà họ gượng ép theo đám
đông.
− Hành vi “tự nguyện”: thể hiện ở những người khôn ngoan nhất, họ tham
gia vào hành vi bầy đàn chủ yếu với mục đích đầu cơ mang tính cá nhân,
lợi dụng, khi họ đưa vào “tài khoản ảo” trong đầu mình quan điểm/đánh
giá của người khác, và thậm chí họ biết việc hành xử trong bầy đàn là sai
hay không có cơ sở[2].
Hành vi bất hợp lý, dù là hành vi cá nhân hay của nhóm, đều gây ra sự xáo
trộn trong thị trường, người ta gọi hiện tượng này là những “kẻ náo loạn thị
trường” hay “những người giao dịch nhiễu”. Một nhà đầu tư thiếu thông tin nội
bộ, họ thường hành động một cách thiếu lý lẽ dựa trên lời đồn như thể họ đang
nắm bắt thông tin đó.
17
3. Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường tài chính
Như đã trình bày ở phần đầu, một trong những khái niệm nền tảng trong tài
chính là kinh doanh chênh lệch giá, nó được hiểu như là “hoạt động mua và bán
đồng thời một loại tài sản như nhau trên hai thị trường khác nhau nhằm thu lợi
nhuận từ sự khác biệt về giá (Sharpe and Alexander, 1990). Theo lý thuyết thì
những hoạt động như vậy yêu cầu không giới hạn vốn và rủi ro. Khi nhà kinh
doanh chênh lệch giá mua chứng khoán/tài sản giá thấp và bán chính nó ở thị
trường có giá cao hơn, anh ta sẽ nhận ngay lợi nhuận do hoạt động này[1].
Kinh doanh chênh lệch giá đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích thị
trường chứng khoán, bởi vì ảnh hưởng của nó làm cho giá chứng khoán bị định
sai trở về giá trị cơ bản và giữ cho thị trường hiệu quả.
Và tại sao trong thực tế vẫn có những trường hợp định giá sai, mà kinh
doanh chênh lệch giá không thể đưa nó về giá trị cơ bản được?
Một giải thích được chấp nhận rộng rãi trong trường phái tài chính hành vi
là có 2 dạng định giá sai: một dạng là thường xuyên xảy ra và có thể kinh doanh
chênh lệch giá được, một dạng là không thường xảy ra, kéo dài và không thể
kinh doanh chênh lệch giá được (nói một cách khác, khó mà xác định được khi
nào mức định giá sai đã đạt tới giới hạn trên hay dưới và điều chỉnh lại). Nếu
tham gia “chỉnh sửa” kiểu định giá sai dạng 2 thì rất dễ rơi vào trạng thái “tiền
mất, tật mang”.
Chúng ta cùng xem xét ví dụ về giá trị cổ phiếu Ford:
− Giả sử giá trị cơ bản của Ford là $20/cổ phiếu. Tưởng tượng rằng lúc này
những nhà đầu tư không khôn ngoan trở nên quá bi quan về triển vọng
tương lai ảm đạm của Ford, và bán ngay cổ phiếu Ford với giá $15.
− Lúc này, theo lý thuyết thị trường hiệu quả thì những nhà đầu tư khôn
ngoan thấy đây là cơ hội hấp dẫn vì giá thấp hơn giá trị cơ bản ($20) và
mua chúng với mức giá hời. Với áp lực mua cổ phiếu Ford của các nhà
18
đầu tư khôn ngoan sẽ làm cho cổ phiếu Ford trở lại giá trị cơ bản của nó
($20)[2].
Nhưng “tài chính hành vi” không hoàn toàn đồng tình với quan điểm này
bởi lẽ khi những cơ hội đầu tư hấp dẫn xảy ra thì thật khó để tin rằng chúng
không bị lợi dụng một cách nhanh chóng.
Và “tài chính hành vi” cho rằng khi mà sự sai lệch giá một cách dữ dội thì
các chiến lược được thiết kế để điều chỉnh giá có thể phải bao gồm cả rủi ro và
chi phí, chính điều này làm cho kinh doanh chênh lệch giá trở nên kém hấp dẫn
hơn. Do đó, không hẳn mọi lúc thì việc kinh doanh chênh lệch giá là không rủi
ro và không tốn phí như quan điểm của thị trường hiệu quả. Kết quả là việc định
giá sai đã không được điều chỉnh như kỳ vọng ban đầu.
19
CHƯƠNG 3: CÁC BIỂU HIỆN TÀI CHÍNH HÀNH VI TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
1. Sơ nét sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998, Chính phủ đã ký
Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh
cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký
quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà
Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ Ban Chứng khoán Việt Nam
ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996. Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành lập theo Quyết định số
127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào hoạt động thực hiện
phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000. Sau khi TTGDCK TP. Hồ Chí
Minh đi vào hoạt động được khoảng 6 năm, đến năm 2005, TTGDCK Hà Nội
cũng được đưa vào hoạt động. Đến nay, các TTGDCK này đã được chuyển đổi
thành các Sở Giao dịch Chứng khoán: Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí
Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX). Kể từ những ngày
đầu mới đưa vào hoạt động với chỉ vài công ty niêm yết đến nay quy mô thị
trường đã gia tăng vượt bậc.
Có thể tạm chia quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam thành
4 giai đoạn:
− Giai đoạn 1: 2000- 2005 : Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường
chứng khoán.
− Giai đoạn 2: Từ năm 2006 đến cuối năm 2007: Thị trường chứng khoán
Việt Nam trong giai đoạn bong bóng đầu cơ.
− Giai đoạn 3: Từ năm 2008 đến tháng 2 năm 2009: Thực trạng thị trường
sau “bong bóng”.
20
− Giai đoạn 4: Từ tháng 03/2009 đến nay: thị trường có sự phục hồi trong
ngắn hạn sau đó các giao dịch trên thị trường dần trở nên ảm đạm.
2. Các biểu hiện của tài chính hành vi trên thị trường chứng khoán Việt
Nam
2.1. Một số biểu hiện của hành vi không hợp lý
2.1.1. Lý thuyết triển vọng
Nhà đầu tư có khuynh hướng xem khả năng bù đắp một khoản lỗ quan
trọng hơn khả năng kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Khi khoản đầu tư có
khuynh hướng mang lại lợi nhuận, họ thích nắm chắc ngay khoản lợi nhuận
hiện tại hơn là cố gắng tiếp tục đầu tư để thu được nhiều lợi nhuận hơn trong
tương lai. Nhưng ngược lại, khi khoản đầu tư có nguy cơ thua lỗ thì họ lại cố
gắng duy trì với hy vọng tình hình sẽ khá hơn và có thể sinh lời trong tương
lai bất chấp rủi ro thua lỗ nhiều hơn là rất lớn .
Căn cứ vào thông tin có triển vọng trên thị trường, các nhà đầu t ư mua
cổ phiếu và sẽ nhanh chóng tiến hành bán cổ phiếu đó khi giá tăng và đ ạt
được lợi nhuận mong muốn mà không phân tích kh ả năng tăng thêm l ợi
nhuận. Bởi lẽ, họ tin rằng giá cổ phiếu hiện đã ph ản ánh đ ầy đủ thông tin
kỳ vọng[2].
2.1.2. Sự trải nghiệm
Một ví dụ của Benartzi và Thaler (2001) khi họ ghi nhận qua thí nghiệm
khi cho một số người N lựa chọn đầu tư trên số tiền tiết kiệm của họ, kết quả là
ông phát hiện ra rằng người ta phân bổ đều tiền của mình cho N lựa chọn (“quy
tắc 1/N”). Ban đầu, họ thấy rằng việc phân bổ như vậy là đúng, và nhiều người
nhanh chóng áp dụng quy tắc 1/N (đa dạng hoá đầu tư kiểu đơn giản nhất, phân
bổ theo tỷ lệ 1/N số tiền vào N loại hình đầu tư) một cách thụ động, trong khi
nếu phân tích kỹ, họ sẽ đầu tư theo những quy tắc khác (như chia phần nào vào
cổ phiếu, phần nào vào chứng khoán thu nhập cố định, phần nào cho tài sản ít
21
rủi ro, phần nào cho tài sản nhiều rủi ro, tỷ suất sinh lợi hay tuỳ vào điều kiện cụ
thể của thị trường, …)[2].
2.1.3. Không thích sự thay đổi
Thực tế cho thấy, nhà đầu tư có khuynh hướng nhạy cảm với việc giảm giá
hơn là tăng giá chứng khoán, hình thành nên hành vi giữ cổ phiếu thua lỗ quá
lâu của họ. Hành vi này có thể giải thích bằng xu hướng giữ nguyên hiện trạng,
khi trong tình trạng thua lỗ thay vì hiện thực hoá lỗ thì họ chọn không hành
động gì cả, trừ khi có động cơ thúc ép[3].
2.1.4. Lệch lạc do tình huống điển hình
Dùng quá khứ ngắn hạn để dự đoán cho tương lai xa: nhà đầu tư tin tưởng
rằng chiều hướng tăng trưởng mạnh trong năm 2004, 2005 sẽ tiếp tục trong 2
năm tới dù nhiều cảnh báo được đưa ra là giá chứng khoán đã vượt quá xa giá
trị thực. Khi giá cố phiếu bắt đầu tăng liên tục một cách dài hơi thì trong đầu
nhiều người bắt đầu suy nghĩ rằng lợi nhuận cao từ cổ phiếu là việc “bình
thường”. Nhưng nếu xét thị trường trong giai đoạn dài 2000-2005 thì chắc chắn
những ai kinh doanh cổ phiếu niêm yết trong giai đoạn này sẽ thấy sự khác biệt,
một mức lợi nhuận 30%– 50% thời điểm ấy là không bình thường song trong 12 năm này lại trở nên quá bình thường[2].
2.1.5. Hiệu ứng neo vào
Nhìn nhận chỉ số chứng khoán của một số nước trên thế giới như Mỹ,
Trung Quốc... để phán đoán chỉ số chứng khoán trong nước, hành vi phổ biến
này được cho là gắn liền với hành vi neo bám vào giá trị ban đầu – giá trị điểm
tựa khi tính toán.
Với hiệu ứng này, nhà đầu tư chứng khoán quy kết diễn biến của thị trường
chứng khoán quốc tế là một điểm tựa, để từ đó dự đoán tình hình thị trường Việt
Nam qua các điều chỉnh chủ quan này. Nhiều nhà đầu tư cho rằng, nếu chỉ số
chứng khoán ở Mỹ, hay Trung Quốc tăng điểm, thì chứng khoán Việt Nam cũng
22
sẽ phủ “sắc xanh” và họ ồ ạt nhảy vào thị trường, dù rằng không có cơ sở khoa
học nào lý giải cho mối liên hệ giữa các thị trường với nhau[3].
2.1.6. Thiên lệch do ác cảm với hối tiếc:
Chính yếu tố sợ phải cảm thấy hối tiếc, khi những người chơi chứng khoán
xung quanh kiếm tiền một cách dễ dàng, nhanh chóng là một trong những lý do
đã tạo nên một thị hiếu nhất thời, một làn sóng đổ xô vào đầu tư chứng khoán,
một lượng tiền lớn đã chảy vào thị trường chứng khoán góp phần làm chỉ số
VN-Index tăng đột biến. Một vấn đề liên quan đến việc sợ phải hối tiếc nữa đó
là các nhà đầu tư khi thấy giá chứng khoán đã lên quá cao rồi nhưng vẫn không
muốn bán ra vì họ sợ phải tiếc nuối nếu “bán rồi mà giá lại lên nữa thì sao”[2].
2.1.7. Quá tự tin
Nhà đầu tư thường cho rằng, bản thân họ tốt hơn những người khác,
thường phóng đại những hiểu biết của mình, từ đó dẫn tới họ giao dịch nhiều
hơn những người khác. Trạng thái quá tự tin làm tăng các hoạt động giao dịch
bởi vì nó khiến các nhà đầu tư sẵn sàng về quan điểm của họ mà bỏ qua việc
tham khảo thêm từ những nhà đầu tư khác.
Nhà đầu tư quá tự tin luôn quan niệm hành động của họ ít rủi ro hơn những
người khác. Nhiều khi họ quá tự tin nên sẽ hiểu sai giá trị thông tin mà họ nhận
được, không những tính xác thực mà còn sai cả ý nghĩa của thông tin. Tính tự
tin thái quá mà một người có càng lớn thì rủi ro càng cao, danh mục đầu tư ít đa
dạng hóa và chỉ tập trung vào những cổ phiếu mà họ tin tưởng[3].
2.1.8. Quá bảo thủ
Nhà đầu tư quá tin tưởng vào nhận định trước đây của mình và bỏ qua sự
tác động của thông tin mới tới thị trường. Nhiều nhà đầu tư nhìn rõ ràng thị
trường đang tạo đáy, tín hiệu gom hàng, chắc chắn thị trường sẽ tăng trong nay
mai. Họ quá bảo thủ với phân tích của mình mà bỏ qua tác động của các thông
tin mới tới thị trường, kết quả là họ không điều chỉnh gì và quyết tâm giữ
23
nguyên nhận định của mình. Tuy nhiên, việc cân nhắc tác động của thông tin
mới và nghiên cứu thay đổi chiến lược cho phù hợp với từng diễn biến vẫn nên
làm hơn là ngồi im.
2.2. Các hành vi bất hợp lý mang tính hệ thống
Một ví dụ về hành vi này là sự tham gia “chơi” chứng khoán theo kiểu
“mốt” thời thượng. Một bộ phận lớn nhà đầu tư tham gia thị trường với năng lực
và hiểu biết hạn chế về thị trường, bỏ qua các yếu tố cơ bản của cổ phiếu để
chạy theo triển vọng lợi nhuận trước mắt khi đầu tư vào TTCK. Thành phần nhà
đầu tư trên TTCK rất đa dạng, đến từ mọi tầng lớp trong xã hội. Một số lượng
lớn những nhà đầu tư gia nhập mới thị trường, tranh mua cổ phiếu với kỳ vọng
quá lớn đã đẩy giá cổ phiếu tăng mạnh, bong bóng thị trường hình thành, cổ
phiếu được định giá quá cao. Những khoản lợi nhuận lớn đạt được trước đó của
những nhà đầu tư hiện hữu trên TTCK Việt Nam đã lôi kéo ngày càng nhiều nhà
đầu tư gia nhập mới, góp phần gia tăng bong bóng giá cổ phiếu. Những khoản
lợi nhuận mà các nhà đầu tư trước đó đã đạt được có vai trò như một điểm tham
chiếu cho những người gia nhập tiếp theo sau, và họ chạy theo một viễn cảnh
rằng TTCK Việt Nam sẽ còn tiếp tục gia tăng không có điểm dừng[2].
2.3. Giới hạn khả năng kinh doanh chênh lệch giá trên thị trường
Chứng khoán vượt quá giá trị thật, nhưng nhiều nhà đầu tư vẫn mua. Họ
chấp nhận mua với giá cao vì tin chắc rằng nó sẽ tiếp tục tăng, sẽ còn có người
chấp nhận mua lại nó với giá cao hơn nữa. Thực tế cho thấy, mỗi khi thị trường
tăng hoặc giảm, hàng loạt mã chứng khoán sẽ lập tức điều chỉnh tăng, giảm
giống nhau mà ít khi có sự phân biệt cổ phiếu tốt, cổ phiếu xấu. TTCK Việt
Nam đã bị xem là phát triển “quá nóng”, sức mua ngày càng lớn, giá cổ phiếu
ngày càng vượt xa giá trị thực. Thế nhưng rõ ràng không có hề có những điều
chỉnh tức thời theo lý thuyết kinh doanh chênh lệch giá và “bong bóng giá” bị
thổi phồng lên rất to[2].
24
CHƯƠNG 4: ỨNG DỤNG CỦA TÀI CHÍNH HÀNH VI TRONG
QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP
Ứng dụng của tài chính hành vi không chỉ dừng lại trong việc giải thích các
hành vi không hợp lý của nhà đầu tư, mà đi xa hơn, nó có thể điều chỉnh các mô
hình định giá (bao gồm định giá chứng khoán, sản phẩm phái sinh…) cho đến
ứng dụng trong lý thuyết quản trị công ty hay cấu trúc vốn trong tài chính doanh
nghiệp, lẫn giải thích tính tương tác giữa các thị trường khác nhau.
Một vài ví dụ về hoạt động quản lý vận dụng việc định giá sai:
1. Thay đổi tên công ty
Đây là chiến lược đáp ứng đơn giản với chi phí không đáng kể. Những nhà
quản lý trong trường hợp này đóng vai trò như nhà tiếp thị với tên công ty là
nhãn hiệu sản phẩm. Thực tế một số ngành tạo ra sự kích thích cảm xúc hấp dẫn
hơn so với các ngành khác, do đó khuyến khích đầu tư vào ngành này mà không
phải ngành khác. Các nhà quản lý đặt tên công ty liên quan đến ngành được yêu
thích để tạo ra các kích thích cảm xúc mà đôi khi công ty không thực sự hoạt
động trong ngành[2].
2. Phát hành cổ phiếu và mua lại
Khi những cổ phiếu được định giá cao, các cổ đông dài hạn hiện hành được
hưởng lợi khi ban quản lý phát hành cổ phần. Việc phát hành cổ phần tương
đương với việc bán đi một phần công ty ở mức giá cao. Điều này có lợi cho các
cổ đông hiện hữu bằng thiệt hại từ các cổ đông mới. Ngược lại khi cổ phiếu
được định giá thấp, cổ đông đang nắm giữ có lợi khi nhà quản lý mua lại cổ
phần.
Như vậy thời điểm được lựa chọn để phát hành cổ phiếu lần đầu ra công
chúng và phát hành thêm cũng được các nhà quản lý cân nhắc và lựa chọn để
tận dụng việc định giá sai[2].
25