Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
123
Chương 4:
CÁC ỨNG DỤNG VÀ CÁC DỊCH VỤ NỔI TRỘI
DỰA TRÊN CÔNG NGHỆ ADSL
4.1 DSL – công nghệ truy xuất của thế kỷ mới
Khi các ứng dụng dung lượng thông tin lớn không ngừng phát triển và gây khủng
hoảng cho cả hạ tầng cơ sở mạng công cộng cũng như nội bộ thì phần nội hạt trở nên
thách thức chính cho các nhà cung cấp dòch vụ. Làm thế nào để có thể cung cấp tốc độ
cao mà không phải đầu tư nhiều cho việc nâng cấp vòng thuê bao nội hạt. Trong nhiều
trường hợp, công nghệ DSL là một câu trả lời.
Hình 4.1 Mô hình chuẩn chung cho các dòch vụ triển khai trên công nghệ DSL
Như đã nói, DSL không phải là một dòch vụ mà chỉ là công nghệ cung cấp một
phương pháp kinh tế cho truyền dẫn nội hạt tốc độ cao trái ngược với các kênh T1/E1
cũng như các mạch 56/64 kbps truyền thống. Lý do làm cho thò trường DSL tăng trưởng
nhanh chóng là do các dòch vụ dựa trên DSL không bắt buộc phải thay đổi dòch vụ đang
sử dụng mà lại cho phép cung cấp chúng với tốc độ nhanh hơn, giá thành rẻ hơn và với
chất lượng từ bằng tới tốt hơn nhiều so với trước đó.
Để minh hoạ thêm quan điểm này hãy xét 4 dòch vụ truyền thống và cách sử dụng
chúng dựa trên công nghệ DSL, đó là:
- Dòch vụ kênh T1/E1,
- Dòch vụ Internet,
- Dòch vụ Frame Relay cùng với khả năng quản lý dòch vụ đầy đủ,
- Dòch vụ ATM với loại có chất lượng dòch vụ tốt nhất.
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
124
Hơn nữa, hãy xét các ứng dụng của các dòch vụ dựa trên DSL trong các môi
trường mạng nội bộ và mạng công sở. Ở đây, mạng công sở là mạng có khả năng quản
lý hạ tầng cơ sở cáp đồng của chính mình. Nó có thể gồm các cao ốc văn phòng và các
chúng cư, các trường đại học, các tập đoàn cũng như các công sở của chính phủ.
Cuối cùng, ta sẽ đề cập đến một dòch vụ nổi trội là thoại qua DSL (Voice over
DSL). Như đã nói trước đây, các phiên bản của DSL (như ADSL, RADSL, ReachDSL)
cho phép sử dụng đồng thời các dòch vụ POTS truyền thống với DSL trên cùng một
đường dây thuê bao. Hơn nữa, các hệ thống mới đang được sử dụng có thể phục vụ dòch
vụ VoDSL hay ATM PVC trên các kết nối DSL.
4.2 Dòch vụ kênh truyền T1/E1
Dòch vụ truyền thống T1/E1 có thể được cung cấp với giá cả rẻ hơn khi dùng hạ
tầng cơ sở cáp đồng hiện tại. Các nhà cung cấp dòch vụ có thể giảm giá cung cấp dòch vụ
T1/E1 với công nghệ HDSL bằng cách loại bỏ những yêu cầu kỹ thuật đặc biệt như các
trạm tiếp vận và công lao động nhân công khi dùng T1/E1 truyền thống. Hình 4.2 minh
hoạ một vài công dụng chung của HDSL trong việc cung cấp dòch vụ.
Việc mở rộng dòch vụ T1/E1 từ tổng đài nội hạt tới người sử dụng dòch vụ đem lại
phương tiện chuyển vận trong suốt cho các dòch vụ như IP, frame relay, N×64 và ATM.
Hình 4.2 Mở rộng dòch vụ về phía người sử dụng
Trong phương án thay thế T1/E1, tổng đài nội hạt làm chủ mạng
HDSL/HDSL2 giữ các card giao tiếp đường dây HDSL/HDSL2. Mỗi card giao
tiếp đường dây này làm việc với 2 đường dây HDSL/HDSL2, mỗi đường
truyền tải 784 kbps cho đường truyền T1 hay 1,168 kbps cho đường truyền
E1. Sau đó 2 đường dây này được kết hợp lại để chuyển thành giao diện
G.703 (E1) hay giao diện DSX-1 (T1) để kết nối với các thiết bò khác trong
tổng đài, chẳng hạn như một DACS (Digital Access and Cross-Connect
System) là thiết bò để đònh tuyến và xử lý các kênh DS0. Phía khách hàng
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
125
được trang bò một bộ giao tiếp đường dây độc lập HDSL/HDSL2 được cấu
hình với cổng V.35 hay cổng G.703/G.704 đối với E1/DSX-1 đối với T1. Cổng
V.35 được nối đến một bộ đònh tuyến hay các thiết bò số liệu khác có khả
năng sử dụng giao tiếp V.35. Các sản phẩm cổng G.703 hay DSX-1 được nối
đến một tổng đài nội hạt số, một bộ ghép kênh hay các thiết bò tài sản
khách hàng khác có khả năng giao tiếp T1 hay E1.
Một ứng dụng lý thú khác của dòch vụ HDSL là ở hạ tầng cơ sở mạng thông tin di
động phân phối các dòch vụ T1 và E1 từ các MTSO (Mobile Telephone Switching Office)
đến các site tế bào khác nhau như minh hoạ ở hình 4.3. Ứng dụng này đặc biệt quan
trọng đối với các nhà cung cấp dòch vụ vô tuyến phải thuê các đường truyền T1 hay E1 từ
các nhà cung cấp tổng đài nội hạt. Các nhà cung cấp dòch vụ vô tuyến có thể tiết kiệm
được chi phí khá nhiều khi thuê hẳn đường dây điện thoại và sử dụng dòch vụ thay cho
phải thuê hẳn dòch vụ T1 hay E1.
Từ năm 1996, các thiết bò SDSL (single pair symmetric DSL) được rao bán trên thò
trường đã giảm giá mạnh hơn cho việc cung cấp đường dây T1/E1. SDSL cung cấp hầu
hết các lợi ích của HDSL nhưng lại chỉ hoạt động trên 2 dây thay vì 4 dây như đối với
HDSL làm cho giá thành lại được giảm hơn. Tuy nhiên, hầu hết các dòch vụ SDSL sử
dụng ngày nay đều là dòch vụ IP hơn là một thay thế dòch vụ T1/E1 đơn thuần. Những
thay thế dựa trên tiêu chuẩn dành cho HDSL/HDSL2 (ở Bắc Mỹ) và G.shdsl (thế giới) đã
được phê chuẩn và bắt đầu đóng vai trò trong các mạng cung cấp dòch vụ. HDSL2 và
G.shdsl là các công nghệ sử dụng một đôi dây đem lại sự tiết kiệm và giữ gìn mạng cáp
đồng của SDSL bằng cách chỉ sử dụng 2 dây thay cho 4 dây.
Hình 4.3 Môi trường thông tin di động sử dụng T1/E1
Tóm lại, HDSL, HDSL2, G.shdsl hay các ứng dụng dựa trên SDSL cung cấp
đường truyền T1/E1 với cùng chất lượng của các hệ thống AMI/HDB-3 thông thường. Tuy
nhiên, DSL cung cấp việc lắp đặt và bảo dưỡng đònh kỳ đơn giản hơn do giảm được các
yêu cầu kỹ thuật và loại bỏ được các trạm tiếp vận trên vòng thuê bao.
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
126
4.3 Dòch vụ IP – điểm đến của mạng dựa trên Internet
Từ những năm vừa qua, Internet hay nói chính xác hơn là Word Wide Web, đã tác
động sâu sắc đến ý tưởng của chúng ta về lưu lượng thông tin. Ý tưởng về một phương
pháp dễ dàng và rẻ tiền để cung cấp thông tin cập nhật cho các người làm thuê, đồng sự
và khách hàng đã thực sự thu hút các doanh nghiệp. Đây là phương pháp mới và đơn
giản để liên lạc cho phép tự do phát triển nội dung thông tin dữ liệu lớn hơn nhiều so
trước. Nhưng sự tự do mới này lại có giá của nó – bản chất hình ảnh của dung lượng dữ
liệu tạo ra các file lớn cần phải download xuống máy tính cá nhân. Với tốc độ modem
thông thường phải tốn nhiều thời gian để download ngay cả khi dải thông của mạng chính
tăng thì cũng gây ra hiện tượng cổ chai tại vòng thuê bao nội hạt.
Gần đây đã có nhiều xu hướng mới nổi bật trong môi trường Web làm tăng tốc độ
truyền dữ liệu cần thiết:
- Việc thêm môi trường âm thanh, hình ảnh và video vào trang Web bao gồm
dòng dữ liệu như RealAudio và nội dung video cũng như các phương tiện
số khác để phân phối dòch vụ giải trí audio/video như dạng file âm thanh
phổ biến đến kinh ngạc MP3.
- Xu hướng đang tăng của các nhà cung cấp dòch vụ Internet ngày nay là trở
thành các nhà cung cấp dòch vụ ứng dụng (ASP: Application Service
Provider). Với mô hình này, nhiều ứng dụng của người sử dụng (từ ứng
dụng máy tính để bàn và các phần mềm hữu dụng như các trình xử lý văn
bản cho đến các ứng dụng thương mại phức tạp khác như giải pháp thương
mại điện tử, quy hoạch tài nguyên điện tử ERP: Electronic Resource
Planning và quản lý phát minh) được nhà cung cấp dòch vụ từ xa dẫn dắt
và quản lý và người sử dụng tự truy xuất các ứng dụng qua kết nối Internet.
- Hội nghò tương tác hay các ứng dụng cộng tác như hội nghò audio dựa trên
Internet, phân chia tài liệu cũng ngày càng phổ biến. Những ứng dụng này
cho phép người sử dụng từ xa ở cả môi trường doanh nghiệp và môi trường
khách hàng đều có thể liên lạc nhờ mạng Internet.
- Ngay cả trò chơi máy tính cũng từ chỗ là chương trình dành cho máy tính
cá nhân và có tính độc lập cũng chuyển sang dạng mạng. Nhiều trò chơi
trên máy tính cá nhân hàng đầu hiện nay có chức năng mạng. Khả năng
này tận dụng các server từ xa và kết mạng dựa trên Internet cho phép
người sử dụng tham gia vào trò chơi cùng với nhiều đấu thủ khác trên toàn
thế giới.
- Sự tăng trưởng của các máy tính cá nhân tại gia đình và mạng máy tính gia
đình. Các gia đình ngày nay thường có nhiều máy tính cùng lúc: một máy
dành cho trẻ em để chơi trò chơi điện tử và làm bài tập, một máy gia đình
để gửi e-mail, mua sắm và một máy xách tay để làm việc. Tất cả các máy
tính đó được kết nối với nhau để san sẻ file, máy in và truy xuất Internet. Ở
cùng thời điểm đó đã có những thiết bò đầu cuối truy xuất Internet độc lập
không dùng máy tính cá nhân cũng được phát triển như WebTV. Một
modem tương tự sẽ nhanh chóng tràn tốc độ và không thể cung cấp các
kết nối đa dòch vụ được trong cùng một thời điểm được.
Liên quan đến Internet là các ứng dụng Intranet và Extranet là các mạng cộng tác
nội bộ và bán nội bộ. Mạng Intranet dùng cho một công ty hay một tổ chức còn mạng
Extranet lại dùng cho mạng bao gồm nhiều công ty. Các mạng Intranet nội bộ đang được
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
127
cải thiện để cung cấp cho các khách hàng doanh nghiệp các dòch vụ Internet. Sự phát
triển nhanh chóng của các mạng phối hợp này đem lại lòng tin về giá trò của công nghệ
Web và dựa trên Web đối với thương mại. Intranet và Extranet đem đến cho thương mại
một phương pháp hiệu quả về kinh tế để cung cấp thông tin chi tiết dung lượng cao.
Khái niệm truy xuất mạng LAN từ xa không phải là một khái niệm mới nhưng nó
đã phải trải qua nhiều thay đổi lớn. Trong nhiều trường hợp, nhân viên từ xa ngày nay
vẫn phải liên hệ đều với công ty. Để cho hiệu quả, nhân viên có thể xuất hiện trên mạng
ở một user khác của mạng LAN. Vấn đề là các phương pháp truy xuất mạng LAN truyền
thống không đáp ứng được các nhu cầu hiện nay. Nhân viên sử dụng modem tương tự
hay ISDN để truy xuất mạng. Vì những phương pháp này đều chuyển qua mạng công
cộng nên phải bố trí thiết bò an toàn và kiểm tra quyền truy xuất tại văn phòng chi nhánh
cùng với modem. Những phương pháp truy xuất này quá chậm chạp đối một mạng
Intranet đa phương tiện và quá đắt đối với một văn phòng chi nhánh của nhân viên từ xa.
Hình 4.4 Ứng dụng văn phòng từ xa/nhân viên từ xa
Ở đây, DSL lại có thể đáp ứng được nhu cầu, cung cấp truy xuất tốc độ cao, kinh
tế cho các mạng cộng tác. Tốc độ DSL hàng megabit đem lại cho LAN sự thực hiện cần
thiết để đáp ứng cho nhu cầu lưu lượng thông tin đa phương tiện. Khi số người đăng ký
mạng quá tải cho phép nhà cung cấp dòch vụ mạng dựa trên DSL đem đến việc truy xuất
tốc độ cao với giá rất hấp dẫn. Truy xuất từ xa bằng công nghệ DSl vẫn đòi hỏi phải có
an toàn và kiểm tra quyền truy xuất. Điều này không thay đổi với dòch vụ dựa trên DSL.
Điều thay đổi là bây giờ thiết bò đầu cuối đặt ở tổng đài nội hạt chứ không phải là ở văn
phòng cộng tác. Vì vậy, tốc độ DSL mở rộng cho các nhân viên từ xa không đơn thuần
chỉ là thay thế modem ở server cộng tác hiện tại.
Dòch vụ mạng nội bộ ảo có thể đem lại cho các nhân viên từ xa được trang bò DSL
một phương tiện rất kinh tế để truy xuất mạng cộng tác hay Intranet bằng cách tận dụng
ưu điểm của IP đối với chuyển vận đường dài. Khi kết hợp chất lượng dòch vụ đang được
đem lại bởi các giải pháp DSL đời mới các nhân viên từ xa sẽ có cảm giác như đang
được kết nối trực tiếp tới văn phòng của mình cho dù họ đang ở xa hàng ngàn dặm. Dòch
vụ VoDSL có thể được kết hợp để nhân viên từ xa có cảm giác hoàn toàn đang ở trong
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
128
hãng của mình. Hình 4.4 minh hoạ truy xuất từ xa dành cho các văn phòng chi nhánh và
các nhân viên từ xa.
4.4 Dòch vụ frame relay
Frame relay là dòch vụ kiểu gói đem lại sự tiết kiệm khi sử dụng mạng đường dây
thuê hẳn. Frame relay tận dụng ưu điểm của các khái niệm về dung lượng chia xẻ, mẫu
lưu lượng và quá tải cho phép các nhà cung cấp dòch vụ đem lại tốc độ cao hơn với tài
nguyên mạng đường dây thuê hẳn ít hơn.
Mạng frame relay có thể xem như một nhóm các xa lộ tốc độ cao cùng đi đến
những điểm truy xuất cố đònh. Những điểm truy xuất này là các chuyển mạch frame
relay. Nối với các điểm truy xuất này là các đường dây truy xuất của người sử dụng dòch
vụ gọi là on-ramps (chỗ vào xa lộ). Một cách điển hình, một số lớn các on-ramps này
được đem đến mỗi điểm truy xuất. Về thực chất, xa lộ là một nguồn tài nguyên phân chia
cho nhiều người sử dụng. Các làn đường của xa lộ biểu thò dải thông của nó. Càng nhiều
làn, dải thông càng lớn. Hệ thống xa lộ liên bang giống như mạng trục frame relay là một
phương pháp hiệu quả về thời gian và kinh tế để nâng cao lưu lượng trong hầu hết thời
gian.
Các nhà cung cấp dòch vụ frame relay sử dụng phương pháp kỹ thuật lưu lượng để
xác đònh dung lượng cần thiết để xử lý lưu lượng trong hầu hết thời gian. Việc quá tải lưu
lượng phải được xét theo quan điểm kinh tế.
Hình 4.5 DSL và Frame Relay
Frame relay sử dụng mạng chuyển mạch để tập trung lưu lượng từ nhiều người sử
dụng vào mạng trục tài nguyên chung. Những điểm chuyển mạch này cũng được cung
cấp khả năng chống tắc nghẽn để tránh tắc nghẽn trầm trọng trong những giờ cao điểm
(có lưu lượng lớn). Manïg frame relay được thiết kế để giảm giá thành toàn bộ mạng WAN
bằng cách tạo ra một dải thông chia xẻ được. Các điểm chuyển mạch frame relay được
các nhà thiết kế mạng bố trí tại những đòa điểm kinh tế nhất.
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
129
Người sử dụng thường truy xuất frame relay qua các đường dây thuê hẳn từ phía
khách hàng đến các nhà cung cấp dòch vụ. Giá cả của các đường dây truy xuất frame
truyền thống (56/64bps hay T1/E1) là tùy thuộc và khoảng cách. Khoảng cách càng lớn
giá càng cao. Một lónh vực khác đang gây sự chú ý là sự phổ biến của frame relay gây ra
vấn đề hợp nhất các loại lưu lượng dòch vụ khác nhau, điều này gây ra hiệu ứng cổ chai
nghiêm trọng trên vòng thuê bao nội hạt và cần phải có công nghệ DSL.
Dùng công nghệ DSL thay cho các kết nối 56/64 kbps hay T1/E1 dễ, linh động và
kinh tề hơn. FRoDSL đem lại 3 lợi ích đáng kể cho nhà cung cấp truy xuất mạng, nhà
cung cấp dòch vụ Frame relay và ngời sử dụng dòch vụ frame relay:
- DSL có thể giảm phần giá thành truy xuất nội hạt cthuê bao mà theo một
vài phân tích cho thấy lên đến trên 38%. Như dã đề cập trước đây công
nghệ DSL loại trừ các kỹ thuật đắt tiền và các trạm tiếp vận vốn rất cần
thết trong công nghệ truy xuất kiểu cũ.
- Việc sử dụng SLM-DSL như minh hoạ ở hình 4.5 cho phép các ứng dụng
DSL loại doanh nghiệp có thể hỗ trợ việc thực hiện dòch vụ đầy đủ và cung
cấp chức năng SLA end-to-end.
- DSL có thể đem lại một cách có hiệu quả các điểm truy xuất đến gần các
thuê bao hơn. Việc phân chia dòch vụ thông minh hỗ trợ cả hai chế độ của
giao thức FRF.8 gồm trong suốt (transparent: frame relay kết thúc ở frame
relay RFC 1490) và chuyển dòch (translation: frame relay kết thúc ở ATM
RFC 1483).
Như đã nói đến ở các chương trước, công nghệ DSL là công nghệ vòng thuê bao.
Điều này có nghóa là thiết bò DSL không chỉ được lắp đặt ở phía khách hàng mà còn được
lắp đặt ở tổng đài nội hạt, tức là đầu bên kia của đường dây cáp đồng. Từ tổng đài nội hạt
công nghệ DSL không những chỉ hỗ trợ vò trí khách hàng mà còn hỗ trợ vò trí của các thuê
bao Frame Relay khác ngoài tổng đài đó. Lúc đó tổng đài nội hạt trở thành một NSP
(Network Service Provider: nhà cung cấp dòch vụ mạng) thực sự.
Một bộ DSLAM có thể tập trung tất cả các lưu lượng từ các thuê bao Frame Relay
nội hạt trong tổng đài nội hạt. Nhà cung cấp dòch vụ Frame Relay sử dụng truy xuất dựa
trên DSL có thể lấy lưu lượng Frame Relay đã tập trung này và gửi qua liên kết tốc độ
cao đến điểm chuyển mạch Frame Relay. Kết quả là nhà cung cấp dòch vụ Frame Relay
có thể di chuyển điểm tập trung lưu lượng và quản lý tắc nghẽn lại gần thuê bao hơn.
4.5 Dòch vụ ATM
Có nhiều điểm khác nhau giữa ATM và Frame Relay:
- Tế bào ATM có độ dài cố đònh trong khi khung Frame Relay có độ dài
không cố đònh.
- ATM có nhiều báo hiệu và tham số mạng nên đạt được điều khiển chất
lượng dòch vụ nhiều hơn cũng như hỗ trợ nhiều loại lưu lượng hơn.
ATM trong mạng trục cùng với các hệ thống DSL thích hợp sẽ đem lại một
phương pháp hiệu quả cao để thực hiện các mạng WAN. Đây là nhân tố quan trọng về
mặt kinh tế của việc thiết kế toàn bộ mạng và cho phép các nhà cung cấp dòch vụ khai
thác hết các khả năng của các bộ DSLAM đời mới có sẵn cả khả năng chuyển mạch
ATM. Ví dụ, các bộ DSLAM đa dòch vụ có thể tập hợp để chia xẻ một giao tiếp WAN để
đạt được mạch ảo PVC có các lợi ích sau:
- Cung cấp hiệu quả và đơn giản lên mạng trục ATM.
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
130
- Cho phép nhà cung cấp dòch vụ đầu tư thêm khi mạng phát triển.
Tóm lại, ATM nội trội trong truyền dẫn truy xuất nội hạt cũng như chuyển vận trục
mạng tổng đài.
4.6 VoDSL
4.6.1 Các yêu cầu của thò trường dành cho hệ thống VoDSL
Để VoDSL thực sự hấp dẫn được khách hàng và trở thành giải pháp tốt cho các
mạng thuê bao trong tương lai thì VoDSL phải thoả mãn được các yêu cầu của thò trường.
Chính yêu cầu của thò trường đã đònh hình cho các đặc tính kỹ thuật của giải pháp
VoDSL.
- VoDSL phải là một dòch vụ điện thoại thực sự về:
+ chất lượng: rõ ràng, tiếng dội và độ trễ không nhận biết được.
+ kết nối được mọi loại thiết bò POTS như các máy điện thoại quay số
bằng Pulse, Tone, các loại máy fax, modem, …
- Ghép tối thiểu 4 đến 12 kênh thoại hỗ trợ từng mạch DSL để đáp ứng nhu
cầu của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các chi nhánh của
các doanh nghiệp lớn.
- Thực hiện trong suốt các CLASS feature (Customer Local Area Signaling
Service) như caller ID, selective call forwarding, automatic callback,
selective call rejection, caller ID when waiting, who call me, … hay Custom
calling service như call waiting, call forwarding (busy line, no answer), teen
service, call transfer, three-way calling, …
- Xác đònh dải tần động cho âm thoại, với sự ưu tiên cho âm thoại để bảo
đảm chất lượng dòch vụ đồng thời phải thực hiện nén thoại, bỏ qua các
khoảng yên lặng để tận dụng tối đa dải tần cho thoại.
- Phải có độ tin cậy và ổn đònh “five nine reliable”: 99,999%: mặc dù được
xây dựng dựa trên công nghệ mạng số dữ liệu gọi là computer based
solution, giải pháp VoDSL cũng phải đạt độ ổn đònh cao như dòch vụ điện
thoại thông thường được các công ty điện thoại thực hiện.
- Dễ cung cấp và quản lý: giải pháp VoDSL phải tương hợp với các hệ thống
quản lý, điều hành, bảo dưỡng mạng điện thoại và số liệu hiện tại mà
không làm ngưng trệ chúng.
4.6.2 Các thành phần chính trong một hệ thống VoDSL
Có 3 thành phần chính trong một hệ thống VoDSL:
- Thiết bò truy xuất tích hợp VoDSL (IAD: Integrated Access Device) dùng để
gói hoá âm thoại và sắp xếp tín hiệu vào các tế bào ATM hay gói IP và
chuyển vận chúng qua các liên kết DSL (và chuyển đổi ngược lại các gói
âm thoại thành các tín hiệu kênh thoại). Ngoài nhiều port thoại để nối với
các máy điện thoại, IAD còn bao gồm các port số liệu để kết nối máy tính,
hub LAN và các bộ đònh tuyến.
- DSLAM có khả năng VoDSL là DSLAM đa dòch vụ có khả năng dẫn đường
cho các gói dữ liệu Internet hay các mạng số liệu khác trong khi đồng thời
Dòch vụ trên ADSL Đặng Quốc Anh
131
dẫn đường các gói hay tế bào dữ liệu thoại qua voice gateway để đến
PSTN.
- Voice gateway chuyển thoại được gói hoá thành lưu thoại dựa trên mạch
(và ngược lại đối với lưu thoại chuyển xuống từ IAD) và sau đó chuyển tiếp
các tín hiệu mạch này cho các bộ chuyển mạch Class 5 của PSTN bằng
chuẩn giao tiếp công nghiệp GR-303, TR-008 (ở Bắc Mỹ) hay V5 (ở châu
Âu).
Hình 4.6 Cấu hình VoDSL tiêu biểu
Ngoài ra, trong cấu hình mạng VoDSL tiêu biểu còn có:
- CPE (Customer Premises Equipment): thiết bò tài sản của khách hàng như:
điện thoại, PABX, fax, modem, …
- DSL line: vận chuyển dữ liệu và thoại đã được gói hoá qua đường dây điện
thoại.
- Class 5 switch: chuyển mạch nội hạt trong các tổng đài nội hạt.
4.6.3 Kiến trúc mạng của hệ thống VoDSL
Kiến trúc mạng VoDSL được minh họa ở hình 4.9. Với những thuê bao chỉ sử dụng
dòch vụ thoại qua DSL vòng thuê bao kết thúc ở phía khách hàng bằng một modem DSL
hay một bộ đònh tuyến. Với các thuê bao sử dụng cả dòch vụ thoại và số liệu thì vòng thuê
bao DSL kết thúc tại thiết bò truy xuất tích hợp IAD.
IAD
Data Voice
DSLAM
Access
Data
Voice
Gateway
PSTN
Packet
Backbone
Network
Class 5
Swith
CPE
xDSL
Đặng Quốc Anh ADSL – Thực tiễn, giải pháp và triển khai
132
4.6.3.1 Kiến trúc tập trung
Hình 4.7 Hệ thống VoDSL theo kiến trúc tập trung
Kiến trúc mạng tập trung minh hoạ ở hình 4.7 đáp ứng nhu cầu của các nhà cung
cấp dòch vụ muốn phân phối dòch vụ thoại từ một tổng đài nội hạt (class 5 switch) có
voice gateway qua nhiều DSLAM ở các tổng đài nội hạt khác không có voice gateway.
Đây là trường hợp các CLEC cung cấp dòch vụ DSL qua các bộ DSLAM đặt tại các tủ
trong các tổng đài ILEC. Trong trường hợp này mạng thông tin gói tập trung lưu lượng từ
các bộ DSLAM được dùng cho cả thoại và số liệu để kết nối với PSTN hay Internet.
Lợi ích của kiến trúc này là chỉ một tổng đài loại 5 có thể phục vụ nhu cầu thoại
của các khách hàng trải trên một diện tích điạ lý rộng. Mạng thông tin gói tập trung lưu
lượng thoại từ các bộ DSLAM khác nhau vào một voice gateway nối với PSTN cho phép
nhà cung cấp dòch vụ đưa dòch vụ thoại tới những vùng xa mà sự đầu tư còn khiêm tốn,
ngay cả trong giai đoạn đầu khi sự thâm nhập thò trường còn thấp.
4.6.3.2 Kiến trúc phân bố
Kiến trúc phân bố đáp ứng nhu cầu của các nhà cung cấp dòch vụ sở hữu cả các
bộ DSLAM và chuyển mạch loại 5 trong cùng một tổng đài và muốn đưa lưu lượng thoại
từ mạng DSL xuống tại mỗi tổng đài nội hạt. Kiến trúc này thích hợp với các ILEC muốn
phục vụ các khách hàng VoDSL của mình từ cùng một tổng đài loại 5 mà họ đã cung cấp
cho khách hàng các dòch vụ POTS.
Trong kiến trúc phân bố cần phải tách lưu thoại và lưu lượng số liệu giữa DSLAM
và mạng thông tin số liệu. Lưu lượng số liệu được chuyển qua mạng thông tin gói đến
một điểm tập trung để kết nối Internet trong khi lưu thoại lại được chuyển ngay tại chỗ
sang bộ chuyển mạch loại 5. Việc tách rời các gói thoại và số liệu đòi hỏi chức năng
chuyển mạch gói. Tuy nhiên, việc lắp đặt một thiết bò chuyển mạch gói riêng cho mỗi
tổng đài nội hạt để thực hiện mạng phân bố là không kinh tế.