Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích điểm hòa vốn và lựa chọn phương án kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.81 KB, 30 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Kế toán nói chung đã ra đời từ rất lâu, nó tồn tại và phát triển qua các hình
thái kinh tế xã hội. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, kế toán
ngày càng hoàn thiện và phát triển cả về nội dung và hình thức, thực sự trở
thành công cụ không thể thiếu được trong quản lý, kiểm tra, kiểm soát và điều
hành các hoạt động kinh tế tài chính ở các đơn vị. Đây là lý do thúc đẩy kế toán
quản trị ra đời . Kế toán quản trị không những cung cấp các thông tin cho các
nhà quản trị cấp cao để ra quyết định kinh doanh, quyết định đầu tư và sử dụng
các nguồn lực mà còn cung cấp cả các thông tin về các mặt kỹ thuật để các nhà
quản lý thừa hành sử dụng thực thi trách nhiệm của mình.
Ở nước ta, kế toán quản trị mới chỉ được đề cập và ứng dụng trong thời
gian gần đây. Do vậy, việc hiểu để vận dụng có hiệu quả kế toán quản trị ở các
doanh nghiệp có ý nghĩa lớn lao để tăng cường khả năng hội nhập, tạo sự an tâm
cho nhà quản trị khi có trong tay một công cụ khoa học hỗ trợ cho quá trình
quản lý điều hành doanh nghiệp. Vì thế kế toánn quản trị là môn học rất quan
trọng đối với sinh viên chuyên ngành kinh tế nói chung và chuyên ngành kế toán
nói riêng. Việc thực hiện đồ án môn học là rất cần thiết để sinh viên có thể tổng
hợp lại kiến thức đó học, đào sâu và nắm vững lý thuyết kế toán và vận dụng các
phương pháp kế toán vào thực hành công tác kế toán trong hoạt động thực tiễn
của doanh nghiệp.
Bằng những kiến thức đã được học, tìm hiểu nội dung, cách tổ chức và
thực hiện công tác quản trị của công ty, đồng thời được sự quan tâm của các thầy
cô giáo bộ môn khoa kinh tế - quản trị kinh doanh và đặc biệt là cô Nguyễn Thị
Minh Thu tạo điều kiện cho em hiểu biết thêm về công tác kế toán quản trị và
hoàn thành đồ án môn học “Kế toán quản trị trong doanh nghiệp”.
Đồ án môn học ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm 3 phần chính :
Phần I : Cơ sở lý luận về kế toán quản trị
Phần II : Phân tích biến động về chi phí sản xuất kinh doanh của công
ty
Phần III: Phân tích điểm hòa vốn và lựa chọn phương án kinh doanh.




Do kiến thức về nghiệp vụ kế toán còn nhiều hạn chế, kinh nghiệm thực tế
chưa có nên trong nội dung và quá trình trình bày đồ án sẽ có nhiều thiếu sót và
khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự chỉ dạy tận\\’’’’’’’’’’’’’’’’’’’\\’ tình của
các thầy cô để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô Phạm Thị Hồng Hạnh cùng các
thầy cô giáo trong bộ môn đó hướng dẫn, chỉ bảo tận tình, cặn kẽ để em có thể
hoàn thành tốt bản đồ án này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 01 tháng 04 năm 2017
Sinh viên thực hiện:
Tô Thị Hương
Kế toán D K59


PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KẾ TOÁN QUẢN
TRỊ
1.1 - Những vấn đề cơ bản về kế toán quản trị
1.1.1. Khái niệm kế toán quản trị
Theo điều 4, luật kế toán của nước CHXHCN Việt Nam ban hành
6/2003: “Kế toán quản trị là việc thu thập, xử lí, phân tích và cung cấp thông tin
kinh tế tài chính theo yêu cầu quản trị và quyết định kinh tế tài chính trong nội
bộ đơn vị kế toán”.
Kế toán quản trị là quy trình định dạng, đo lường, tổng hợp phân tích lập
báo biều, giải trình các số liệu tài chính và phi tài chính cho ban giám đốc để
lập kế hoạch đánh giá, theo dõi việc thực hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ
doanh nghiệp để bảo quản, sử dụng có hiệu quả tài sản của doanh nghiệp.
Kế toán quản trị là một bộ phận của hạch toán kế toán thực hiện cụng việc
xử lý và cung cấp thụng tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

một cách cụ thể dưới dạng các báo cáo chi tiết, phục vụ cho nhà quản lý trong
việc điều hành tổ chức lập kế hoạch quản lý hoạt động kinh tế tài chính trong nội
bộ doanh nghiệp.
Hay kế toán quản trị cũng là tập hợp của một nhóm người, liên kết với
nhau để hành động, nhằm đạt tới một mục đích đúng đắn nhất và lợi nhuận cao
nhất. Các tổ chức thường được chia làm 3 nhóm chính:
- TC doanh nghiệp – HĐSXKD – mục tiêu lợi nhuận
- TC phi kinh doanh – HĐXH – mục đích lợi ích
- TC nhà nước – HĐ mọi lĩnh vực – mục tiêu phát triển chung toàn XH: an
toàn, trật tự an ninh, phát triển phồn vinh, lãnh thổ quốc gia .....
1.1.2. Vai trò, nhiệm vụ, chức năng của kế toán quản trị
1.1.2.1 Vai trò:
a/ Vai trò của kế toán quản trị:
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ chức dù thuộc nhóm nào đều
cần thông tin kế toán quản trị để tồn tại và phát triển. Tổ chức vì mục đích lợi
nhuận cần thông tin kế toán quản trị để xác định lợi nhuận trong một kỳ hoạt
động. Tổ chức không vì mục đích lợi nhuận cần thông tin kế toán để xác định
mức độ phục vụ hội viên trong cộng đồng. Tổ chức nhà nước cần thông tin kế


toán quản trị để đánh giá mức độ cung cấp các dịch vụ về an ninh và phục vụ xã
hội. Tóm lại, thụng tin kế toán là yếu tố có vai trò quan trọng đối với hoạt động
của một tố chức, có ảnh hưởng tới mức độ hoạt động của một tổ chức, có ảnh
hưởng tới mức độ đạt được của các mục tiêu đó đề ra.
b/ Vai trò của kế toán quản trị trong chức năng quản lý doanh nghiệp
Để điều hành các mặt hoạt động của một doanh nghiệp trách nhiệm thuộc
về các nhà quản trị các cấp trong doanh nghiệp đó. Các chức năng cơ bản của
quản lý hoạt động doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu đó đề ra có thể được
khái quát trong sơ đồ sau đây:
Lập kế hoạch


Đánh giá

Ra quyết định

Thực hiện

Kiểm tra

Hình 1.2- Các chức năng cơ bản của quản lí

Qua sơ đồ trên ta thấy sự liên tục của hoạt động quản lý từ khâu lập kế
hoạch đến thực hiện, kiểm tra, đánh giá rồi sau đó quay trở lại khâu lập kế hoạch
cho kỳ sau, tất cả đều xoay quanh trục ra quyết định.
Để làm tốt các chức năng này đòi hỏi các nhà quản trị phải đề ra những
quyết định đúng đắn nhất cho các hoạt động của doanh nghiệp. Muốn có những
quyết định có hiệu quả và hiệu lực, các nhà quản trị có yêu cầu về thông tin rất
lớn. KTQT là nguồn chủ yếu, dù không phải là duy nhất, cung cấp nhu cầu
thông tin đó. Để thấy rõ vai trò của KTQT đối với các chức năng quản lý ta xét
vị trí của nó trong từng khâu của quá trình quản lý.
1. Khâu lập kế hoạch và dự án


Lập kế họach là xây dựng các mục tiêu cần phải đạt và vạch ra các bước
thực hiện để đạt được các mục tiêu đó. Các kế hoạch này có thể dài hạn hay
ngắn hạn.
Dự toán là một dạng của kế hoạch, nó là sự liên kết các mục tiêu lại với
nhau và chỉ rõ cách huy động và sử dụng các nguồn lực sẵn có để đạt được các
mục tiêu đó đề ra.
Để chức năng lập kế hoạch và dự toán của quản lý được thực hiện tốt, để

các kế hoạch cùng các dự toán có tính khoa học và tính khả thi cao thì chúng
phải được lập dựa trên những thông tin hợp lý và có cơ sở. Các thông tin này
chủ yếu do KTQT cung cấp.
Ví dụ: khi xây dựng chỉ tiêu lợi nhuận, doanh nghiệp phải xác định cách
làm cụ thể để đạt được chỉ tiêu này. Kế toán viên quản trị sẽ cung cấp cho các
nhà quản trị số liệu có cơ sở để giúp các nhà quản trị lựa chọn ra phương án tối
ưu để đạt được chỉ tiêu đó, như chọn được sản phẩm sinh lợi cao nhất, huy động
các nguồn lực tiết kiệm nhất và định được giá bán hiệu quả nhất trong điều kiện
cạnh tranh thị trường .
2. Khâu tổ chức thực hiện
Trong khâu tổ chức thực hiện, nhà quản lý phải biết các liên kết tốt nhất các
yếu tố của sản xuất. Có nghĩa là kết hợp tốt nhất các nguồn lực để đạt được mục
tiêu đó đề ra.
Để thực hiện tốt chức năng này, nhà quản trị có nhu cầu rất lớn về thông tin
kế toán, nhất là thông tin kế toán quản trị. Để ra quyết định kinh doanh đúng đắn
trong các hoạt động hàng ngày (quyết định ngắn hạn), hay các quyết định thực
hiện các mục tiêu dài hạn, nhà quản trị đều cần phải được cung cấp các thông
tin từ kế toán.

3. Khâu kiểm tra và đánh giá:
Sau khi đó lập kế hoạch đầy đủ và hợp lý, tổ chức thực hiện kế hoạch đòi
hỏi nhà quản trị phải kiểm tra và đánh giá việc thực hiện nó. Phương pháp
thường dùng là so sánh số liệu kế hoạch hoặc dự toán với số liệu thực hiện, để
từ đó nhận diện các sai biệt giữa kết quả đạt được với mục tiêu đó đề ra. Để làm
được điều này, nhà quản trị cần được cung cấp từ bộ phận kế toán báo cáo thực
hiện để nhận diện những vấn đề còn tồn tại và cần có tác động quản lý.


Kiểm tra và đánh giá là hai chức năng có liên quan chặt chẽ với nhau. Các
nhà quản trị thừa hành thường đánh giá từng phần trong phạm vi kiểm soát của

họ. Còn các nhà quản trị cấp cao hơn, không tham gia trực tiếp vào quá trinh
hoạt động hàng ngày, tiến hành đánh giá dựa vào các báo cáo thực hiện của từng
bộ phận thừa hành mà KTQT cung cấp.
4. Khâu ra quyết định
Phần lớn thông tin do KTQT cung cấp nhằm phục vụ cho chức năng ra
quyết định của nhà quản trị. Đó là một chức năng quan trọng, xuyên suốt các
khâu quản trị doanh nghiệp, từ khâu lập kế hoạch, tổ chức thực hiện cho đến
kiểm tra đánh giá. Chức năng ra quyết định được vận dụng liên tục trong suốt
quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
Để có thông tin thích hợp cho các nhu cầu của quản lý, KTQT sẽ thực hiện
các nghiệp vụ phân tích chuyên môn và những thông tin này thường không có
sẵn. KTQT sẽ chọn lọc những thông tin cần thiết, thích hợp rồi tổng hợp, trình
bày chúng theo một trình tự dễ hiểu nhất và giải thích quá trình phân tích đó cho
nhà quản trị.
KTQT giúp các nhà quản trị trong quá trình ra quyết định không chỉ bằng
cách cung cấp thông tin thích hợp, mà còn cách vận dụng các kỹ thuật phân tích
vào những tình huống khác nhau, để từ đó nhà quản trị lựa chọn ra quyết định
một cách thích hợp nhất.

1.1.2.2. Nhiệm vụ của kế toán quản trị
KTQT cung cấp thông tin thoả mãn nhu cầu cho các nhà QTDN, là những
người mà các quyết định và hành động của họ quyết định sự thành công hay thất
bại của DN đó. Thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn trong
việc quản lý hiệu quả của DN. Nhưng nếu thông tin không chính xác, các nhà
quản trị sẽ đề ra các quyết định kinh doanh sai lầm ảnh hưởng tới quá trình sinh
lợi của DN mình.
- Kế toán quản trị phản ánh đối tượng của kế toán nói chung dưới dạng chi
tiết theo yêu cầu của nhà quản trị doanh nghiệp.



- Kế toán quản trị phản ánh, tính toán giá chi phí của từng loại TSCĐ,
TLLĐ, phản ánh chi tiết từng khoản nợ phải trả đối với từng khoản nợ, từ đó
phản ánh (nguồn vốn chủ sở hữu của DN) dưới dạng chi tiết nhất.
- Kế toán quản trị tính toán xác định doanh thu chi phí của từng sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ, xác định chi phí theo từng địa điểm phát sinh (từng trung tâm
chi phí), cũng như theo từng đối tượng gánh chịu chi phí (từng loại sản phẩm,
hàng hoá, lao vụ...) từ đó nhà quản trị có thể xác định kết quả hoạt động kinh
doanh một cách chi tiết nhất theo yêu cầu của nhà quản lý.
- Kế toán quản trị dựa trên cách thức huy động và sử dụng các nguồn lực vì
vậy nó gắn liền với công tác tổ chức và công nghệ của doanh nghiệp. KTQT xác
định, mô tả hoạt động của các bộ phận tiêu dùng nguồn lực, các bộ phận cung
cấp hoạt động và sản phẩm của việc tiêu dùng nguồn lực.
1.1.2.3. Chức năngcủa kế toán quản trị
Thông tin trong DN phải nhằm phục vụ mục tiêu của DN. Thông tin của
KTQT chủ yếu nhằm phục vụ quá trình ra quyết định của nhà quản trị. Do thông
tin này không có sẵn do vậy KTQT phải vận dụng một số phương pháp nghiệp
vụ để xử lý chúng thành dạng phù hợp với nhu cầu của nhà quản trị.
Chức năng chính của KTQT là cơ sở để ra quyết định hay chính là quy
trình điều hành kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN.
KTQT thực chất là một quy trình định dạng, đo lường, tổng hợp, phân tích,
lập báo biểu, giải trình và thông đạt các số liệu tài chính cũng như phi tài chính
cho nhà QTDN để lập kế hoạch tổ chức thực hiện kiểm tra đánh giá việc thực
hiện kế hoạch trong phạm vi nội bộ DN đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả
các tài sản và quản lý chặt chẽ các tài sản của DN.
1.1.2.4: Nội dung cơ bản của kế toán quản trị
Kế toán quản trị thu nhận, xử lí và cung cấp thông tin về hoạt động kinh
tế tài chính một cách cụ thể, chi tiết theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp, vì vậy
nội dung của kế toán quản trị được quyết định bởi yêu cầu cụ thể trong công tác
quản trị doanh nghiệp và mối tương quan với kế toán tài chính nhằm đảm bảo
tránh trùng lặp với kế toán chi tiết trong kế toán tài chính đồng thời phát huy tác

dụng trong công tác quản trị doanh nghiệp.


Nội dung của kế toán quản trị phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng
doanh nghiệp với qui mô và yêu cầu quản trị khác nhau. Có thể trình bày các
nội dung cơ bản của kế toán quản trị dưới các góc độ tiếp cận như sau:
a/ Nội dung cơ bản của kế toán quản trị xét theo nội dung thông tin mà
kế toán quản trị cung cấp
Nội dung của kế toán quản trị trong doanh nghiệp bao gồm:
- Kế toán quản trị chi phí và giá thành sản phẩm: thông tin về lĩnh vực
này rất quan trọng, là cơ sở cho việc tính toán, thực hiện các mục tiêu dự kiến.
Đồng thời phải chi tiết hoá đến từng khoản mục và đối tượng chi phí để tiến
hành phân loại theo tiêu chuẩn của kế toán quản trị: phân loại theo mối quan hệ
với khối lượng sản phẩm (chi phí bất biến, chi phí khả biến, chi phí hỗn hợp),
phân loại theo mối quan hệ chi phí và các khoản mục trên báo cáo tài chính (chi
phí sản xuất, chi phí thời cơ,..).
- Kế toán quản trị doanh thu và kết quả kinh doanh: nội dung cơ bản của
kế toán quản trị doanh thu và kết quả kinh doanh căn cứ vào yêu cầu cụ thể về
doanh thu và kết quả kinh doanh để phân loại doanh thu theo nhóm, mặt hàng
hoặc theo địa điểm kinh doanh, xác định các chỉ tiêu dự đoán về doanh thu, kết
quả, mở các tài khoản, sổ chi tiết nhằm cung cấp các thông tin một cách cụ thể
về doanh thu, kết quả.
- Kế toán quản trị về các hoạt động đầu tư tài chính: nội dung của kế toán
quản trị về các hoạt động đầu tư tài chính trong doanh nghiệp căn cứ vào các
yêu cầu cụ thể để xác định các chỉ tiêu đầu tư, hiệu quả đầu tư, thời gian đầu tư,
mở các tài khoản, sổ chi tiết nhằm thu thập, quản lí hoạt động đầu tư theo từng
hoạt động đầu tư, từng khoản đầu tư,...
- Kế toán quản trị về các hoạt động khác của doanh nghiệp: nội dung kế
toán quản trị các hoạt động khác trong doanh nghiệp được căn cứ vào yêu cầu cụ
thể quản lí các chỉ tiêu khác như: công nợ, tình hình và khả năng thanh toán, để

mở sổ kế toán theo dõi các khoản này.
b/ Nội dung cơ bản của kế toán quản trị xét trong mối quan hệ với các
chức năng quản lí
Nội dung kế toán quản trị gồm các công việc sau:


- Cụ thể hoá các mục tiêu của doanh nghiệp thành các chỉ tiêu kinh tế: tức
là các mục tiêu của doanh nghiệp được thể hiện cụ thể , rõ ràng dưới dạng con
số, chỉ tiêu kinh tế , kĩ thuật cụ thể.
- Lập dự toán chung và dự toán chi tiết: trong doanh nghiệp lập dự toán là
khâu rất quan trọng, không thể thiếu trong công tác kế hoạch. Việc lập các dự
toán chung và dự toán chi tiết phải dựa trên nhiều căn cứ: số liệu và tài liệu
thống kê thực tế trên cơ sở thu thập được từ hệ thống sổ kế toán phản ánh quá
trình đó thực hiện chỉ tiêu cần lập dự toán, hoặc căn cứ vào tiêu chuẩn , định
mức của nhà nước, của ngành, của đơn vị để lập dự toán theo từng chỉ tiêu,..
- Thu thập và cung cấp thụng tin về kết quả thực hiện các mục tiêu: kế
toán quản trị kết hợp với kế toán tài chính theo dõi và cung cấp thông tin về các
hoạt động của doanh nghiệp, là căn cứ để đánh giá quá trình thực hiện các mục
tiêu đề ra theo dự toán, là cơ sở cho nhà quản trị đưa ra các quyết định kịp thời
trong quá trình điều hành hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời cũng là dữ liệu
xây dựng các báo cáo quản trị.
- Báo cáo kế toán quản trị: cũng như kế toán tài chính, sản phẩm của kế
toán quản trị là các báo cáo kế toán quản trị. Có rất nhiều loại báo cáo kế toán
quản trị khác nhau, tuy nhiên các báo cáo này thường có sự so sánh kết quả
thực hiện với kế hoạch, dự toán, hoặc với định mức, đưa ra các mức chênh lệch
đồng thời có sự phân tích, tìm hiểu nguyên nhân.
Trong các nội dung trên của kế toán quản trị, trọng tâm của kế toán quản trị
là quản trị chi phí, điều này đặc biệt đúng đối với các doanh nghiệp sản xuất.
1.1.3. Phân biệt KTQT và KTTC
1.1.3.1. Điểm giống nhau giữa KTQT và KTTC

- KTQT và KTTC đều đề cập tới các sự kiện kinh tế và đều quan tâm đến
thu nhập, chi phí, tài sản , công nợ và quá trình lưu chuyển tiền tệ của doanh
nghiệp.
- KTQT và KTTC đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán. Hệ
thống này là cơ sở để KTTC soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ cung cấp ra
bên ngoài. Đối với KTQT hệ thống đó cũng là cơ sở để vận dụng, xử lý nhằm
tạo ra thông tin thích hợp cung cấp cho các nhà quản trị.


- KTQT và KTTC đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý. KTTC
biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cấp cao, còn KTQT biểu hiện trách
nhiệm của nhà quản trị các cấp bên trong doanh nghiệp.
1.1.3.2. Điểm khác nhau giữa KTQT và KTTC
a/ Khác nhau về đối tượng sử dụng thông tin
Đối tượng sử dụng thông tin của KTQT là những nhà quản trị ở bên trong
doanh nghiệp, còn đối tượng sử dụng thông tin của KTTC bao gồm những người
ở cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
b/ Khác nhau về đặc điểm của thông tin
Thông tin của KTQT chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai, còn thông tin
của KTTC chủ yếu phản ánh những nghiệp vụ kinh tế đó xảy ra. Phần lớn nhiệm
vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án dự trù cho một sự kiện hoặc
quá trình chưa xảy ra còn thông tin của KTTC tuy cũng cần cho việc lập kế
hoạch song nó chỉ là sự phản ánh của quá khứ.
Thông tin của KTTC chủ yếu được biểu diễn bằng hình thái giá trị còn
thông tin của KTQT được biểu diễn cả dưới hình thái giá trị lẫn hình thái vật
chất.
c/ Khác nhau về phạm vi báo cáo
Báo cáo của KTTC phản ánh tình hình của doanh nghiệp nói chung còn
báo cáo của KTQT đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh
nghiệp. Các báo cáo của KTTC chủ yếu là bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả

kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ của toàn doanh nghiệp. Báo cáo của
KTQT là các báo cáo thực hiện của từng bộ phận, từng khâu công việc trong
doanh nghiệp.
d/ Khác nhau về kỳ báo cáo
Kỳ báo cáo của KTQT thường xuyên hơn kỳ báo cáo của KTTC. Báo cáo của
KTTC được soạn thảo theo định kỳ, thường là hàng tháng, quý, năm,còn báo
cáo của KTQT do nhu cầu của các nhà quản trị được soạn thảo thường xuyên để
kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các yếu kém.
e/ Khác nhau về mối quan hệ với các ngành khác
Do thông tin của KTQT là nhằm phục vụ cho chức năng ra quyết định của nhà
quản trị và thường không có sẵn nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban


đầu của kế toán, KTQT còn phải kết hợp với nhiều ngành khác như thống kê,
kinh tế học, quản lý để tổng hợp, phân tích và xử lý thụng tin thành dạng có thể
sử dụng được.
f/ Khác nhau về tính pháp lý
KTTC có tính pháp lệnh nghĩa là sổ sách, báo cáo của KTTC ở mọi doanh
nghiệp đều bắt buộc phải lập theo chế độ thống nhất, nếu không đúng hoặc
không đầy đủ thì không được thừa nhận. Trái lại, sổ sách báo cáo của KTQT là
riêng biệt hoàn toàn tuỳ thuộc vào cách thiết kế của nhà quản trị trong từng
doanh nghiệp sao cho phù hợp và có tác dụng giúp họ đề ra được các quyết định
kinh doanh đúng đắn.
* Từ những phân tích trên cho thấy KTQT và KTTC tuy là hai lĩnh vực khác
nhau song chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau hợp thành cụng cụ quản
lý quan trọng trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế.
1.1.4. Vai tró, ý nghĩa của KTQTcác yếu tố sản xuất kinh doanh
Khái niệm: KTQT các yếu tố SXKD trong doanh nghiệp là KTQT nguyên
vật liệu, công cụ dụng cụ khác (vật tư), hàng hoá, KTQT tài sản cố định và
KTQT lao động tiền lương (tiền công).

1.1.4.1. Kế toán quản trị vật tư, hàng hoá
Để cung cấp các chỉ tiêu chi tiết về tình hình nhập, xuất, tồn kho của từng
loại, từng nhóm, từng thứ vật tư, hàng hoá theo từng nơi bảo quản, sử dụng, cả
chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị cần tổ chức KTQT vật tư, hàng hoá một cách
khoa học. Phân loại vật tư hàng hoá phù hợp với đặc điểm vật tư, hàng hoá từng
doanh nghiệp là công việc cần thiết để tổ chức tốt KTQT vật tư hàng hoá.
Trong doanh nghiệp, vật tư, hàng hoá gồm nhiều loại, nhóm, thứ khác nhau
với công dụng kinh tế, tính năng lý hoá và yêu cầu quản lý khác nhau. Để phục
vụ cho yêu cầu tổ chức KTQT vật tư, hàng hoá cần phải tiến hành phân loại vật
tư hàng hoá.
Phân loại vật tư hàng hoá là phân chia vật tư hàng hoá của doanh nghiệp
thành các loại, các nhóm, các thứ theo tiêu thức phân loại nhất định. Tuỳ theo
yêu cầu quản trị vật tư, hàng hoá trong từng doanh nghiệp mà thực hiện phân
loại vật tư, hàng hoá cho phù hợp. Chẳng hạn trong doanh nghiệp sản xuất có
thể căn cứ vào công dụng kinh tế và chức năng của vật tư trong quá trình tham


gia vào sản xuất kinh doanh để chia vật tư thành nguyên vật liệu và công cụ
dụng cụ.
* Hạch toán chi tiết vật tư hàng hoá đảm bảo yêu cầu của quản trị doanh
nghiệp:
Kế toán quản trị chủ yếu phục vụ cho các nhà quản lý doanh nghiệp để ra
quyết định sản xuất kinh doanh do đó thông tin cần phải cập nhật và liên tục.
Điều này cũng có nghĩa là các tình hình nhập xuất tồn kho vật tư hàng hoá cả chỉ
tiêu hiện vật và chỉ tiêu thành tiền theo từng mặt hàng, từng nhóm, từng loại, ở
từng nơi bảo quản sử dụng phải được hạch toán chi tiết để sẵn sàng phục vụ cho
yêu cầu quản trị. Muốn vậy, công tác hạch toán vật tư hàng hoá phải đảm bảo
các yêu cầu sau:
- Tổ chức hạch toán chi tiết vật tư hàng hoá theo từng kho, từng bộ phận kế
toán doanh nghiệp.

- Theo dõi liên tục hàng ngày tình hình nhập xuất tồn kho của từng loại,
nhóm mặt hàng vật tư hàng hoá và chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu thành tiền.
- Đảm bảo đối chiếu khớp và chính xác tương ứng giữa các số liệu của kế
toán chi tiết với số liệu hạch toán chi tiết tại kho, giữa số liệu của kế toán chi tiết
với số liệu của kế toán tổng hợp về tình hình vật tư, hàng hoá.
- Báo cáo cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết hàng ngày, hàng tuần về
tình hình vật tư hàng hoá theo yêu cầu của quản trị doanh nghiệp.
Căn cứ vào các yều cầu trên, doanh nghiệp có thể hạch toán chi tiết vật tư
hàng hoá theo một trong các phương pháp sau:
-

Phương pháp ghi thẻ song song

-

Phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển

-

Phương pháp ghi sổ số dư

1.1.4.2. Kế toán quản trị tài sản cố định
Tài sản cố định trong doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu,
những tài sản khác có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh
hay sử dụng thời gian dài vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu (TSCĐ hữu
hình) và những khoản chi phí thực tế doanh nghiệp đó chi ra lớn sẽ phát huy tác
dụng trong thời gian dài trong hoạt động của doanh nghiệp (TSCĐ vô hình).


Như vậy để được coi là TSCĐ thì tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong

doanh nghiệp phải thoả mãn hai điều kiện: giá trị lớn và thời gian sử dụng dài.
* Kế toán tài sản cố định theo yêu cầu của kế toán quản trị
Trong quá trình sử dụng TSCĐ vào sản xuất kinh doanh, giá trị của TSCĐ
bị hao mòn dần và chuyển dịch từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Nhưng TSCĐ hữu hình vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến khi
hư hỏng. Mặt khác TSCĐ sử dụng và bảo quản ở các bộ phận khác nhau trong
doanh nghiệp. Bởi vậy kế toán chi tiết TSCĐ phải phản ánh và kiểm tra tình
hình tăng, giảm, hao mòn TSCĐ của toàn doanh nghiệp và của từng nơi bảo
quản, sử dụng theo từng đối tượng ghi TSCĐ. Ngoài các chỉ tiêu phản ánh
nguồn gốc nguồn gốc, thời gian hình thành TSCĐ, công suất thiết bị, số hiệu
TSCĐ, kế toán phải phản ánh nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị còn lại của
từng đối tượng ghi TSCĐ tại từng nơi sử dụng, bảo quản TSCĐ.
1. Kế toán chi tiết TSCĐ tại các nơi sử dụng, bảo quản TSCĐ
Việc theo dõi TSCĐ theo nơi sử dụng nhằm gắn trách nhiệm bảo quản, sử
dụng tài sản với từng bộ phận, từ đó nâng trách nhiệm và hiệu quả trong bảo
quản sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp.
Tại các nơi sử dụng TSCĐ (phòng, ban, đội sản xuất, phân xưởng sản
xuất…) sử dụng “sổ TSCĐ theo đơn vị sử dụng” để theo dõi tình hình tăng,
giảm TSCĐ do từng đơn vị quản lý, sử dụng. Mỗi đơn vị sử dụng phải mở một
sổ riêng, trong đó ghi TSCĐ tăng, giảm của đơn vị mình theo từng chứng từ
tăng, giảm TSCĐ, theo thứ tự thời gian phát sinh nghiệp vụ tăng, giảm TSCĐ.
Doanh nghiệp có thể sử dụng mẫu sổ này trong hệ thống kế toán doanh nghiệp.
2. Kế toán chi tiết TSCĐ tại bộ phận kế toán doanh nghiệp
Tại bộ phận kế toán doanh nghiệp, kế toán chi tiết TSCĐ sử dụng thẻ
TSCĐ , sổ đăng ký thẻ TSCĐ, sổ TSCĐ toàn doanh nghiệp để theo dõi tình hình
tăng, giảm, hao mòn TSCĐ.
Thẻ TSCĐ do kế toán TSCĐ lập cho từng đối tượng ghi TSCĐ của doanh
nghiệp. Thẻ gồm bốn phần:
Phần 1: ghi các chỉ tiêu chung về TSCĐ như tên, ký, mã hiệu, qui cách (cấp
hàng), số hiệu TSCĐ, nước sản xuất…



Phần 2: ghi các chỉ tiêu nguyên giá từ khi bắt đầu hình thành TSCĐ và
nguyên giá thay đổi theo các thời kỳ do đánh giá lại, xây dựng, trang bị thêm bớt
bộ phận… và giá trị hao mòn đó trích qua các năm.
Phần 3: ghi số phụ tùng, dụng cụ, đồ nghề kèm theo TSCĐ.
Phần 4: ghi giảm TSCĐ, phản ánh số, ngày tháng của chứng từ giảm TSCĐ
và lý do giảm TSCĐ.
Thẻ TSCĐ được lưu ở phòng (ban) kế toán trong suốt quá trình sử dụng
TSCĐ. Vì vậy, phải có hòm thẻ để bảo quản. Trong hòm thẻ cần bố trí các ngăn
đựng thẻ TSCĐ được sắp xếp một cách khoa học theo từng nhóm, loại TSCĐ và
theo từng nơi sử dụng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm khi dựng thẻ.
Thẻ TSCĐ được đăng ký vào sổ đăng ký thẻ TSCĐ để quản lý.
Sổ TSCĐ: mỗi TSCĐ (nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương
tiện vận tải...) được dùng riêng một sổ hoặc một số trang trong sổ để theo dõi
tình hình tăng, giảm, khấu hao của các TSCĐ theo từng loại.
Căn cứ để ghi vào thẻ TSCĐ, sổ TSCĐ là các chứng từ sau đây:
- Biên bản giao nhận TSCĐ (mẫu số 01- TSCĐ)
- Biên bản thanh lý TSCĐ (mẫu số 012 - TSCĐ)
- Biên bản giao nhận TSCĐ sửa chữa lớn hoàn thành (mẫu số 04 - TSCĐ)
- Biên bản đánh giá lại TSCĐ (mẫu số 05 – TSCĐ)
- Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ
- Các tài liệu kỹ thuật có liên quan (hồ sơ TSCĐ)
1.1.4.3. Kế toán quản trị lao động và tiền lương (tiền công)
Lao động là yếu tố quyết định trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nói đến
yếu tố lao động tức là nói đến lao động sống tức là sự hao phí có mục đích thể
lực và trí lực của con người để tạo ra sản phẩm hoặc thực hiện hoạt động kinh
doanh. Để bù lại phần hao phí đó của người lao động, doanh nghiệp phải trả cho
họ khoản tiền phù hợp với số lượng và chất lượng lao động mà họ đóng góp. Số
tiền này được gọi là tiền lương hay tiền công.

KTQT lao động, tiền lương phải cung cấp các thông tin về số lượng lao
động, thời gian lao động, kết quả lao động và quỹ lương cho các nhà quản trị
doanh nghiệp. từ những thông tin này các nhà quản trị đưa ra được phương án tổ


chức quản lý lao động, bố trí hợp lý lực lượng lao động của doanh nghiệp vào
từng khâu công việc cụ thể, nhằm phát huy tốt nhất năng lực của người lao
động, tạo điều kiện tăng năng suất lao động, giảm chi phí nhân công trong chi
phí sản xuất kinh doanh.
* Hạch toán thời gian lao động và kết quả lao động
Hạch toán thời gian lao động là theo dõi việc sử dụng thời gian lao động
đối với từng người lao động ở từng bộ phận trong doanh nghiệp. Để thực hiện
công việc này doanh nghiệp thường sử dụng các bảng chấm công hay các chứng
từ như phiếu báo giờ làm thêm, phiếu nghỉ hưởng BHXH. Để tổng hợp tình hình
sử dụng thời gian lao động, doanh nghiệp có thể sử dụng “Bảng tổng hợp sử
dụng thời gian lao động” bảng này là cơ sở để lập báo cáo về tình hình sử dụng
thời gian lao động.
Hạch toán kết quả lao động là ghi chép kết quả lao động của từng người lao
động. Kết quả lao động biểu hiện bằng số lượng (khối lượng) sản phẩm, công
việc đó hoàn thành của từng người hay từng nhóm lao động. Chứng từ thường
được sử dụng để hạch toán kết quả lao động là phiếu xác nhận sản phẩm hoặc
công việc hoàn thành, hợp đồng giao khoán, bảng theo dõi công tác của tổ hạch
toán kết quả lao động là cơ sở để tính tiền lương (tiền công) theo sản phẩm cho
từng người hay từng nhóm người (tập thể) hưởng lương sản phẩm và để xác
định năng suất lao động.
* Tính lương và phân bổ chi phí nhân công:
Trong các doanh nghiệp tồn tại hai hình thức trả lương: hình thức tiền
lương thời gian và hình thức tiền lương sản phẩm . Mỗi hình thức tiền lương ứng
với các tính lương riêng.
1. Tính lương thời gian

Tiền lương thời gian được tính căn cứ vào thời gian làm việc và bậc lương,
thang lương của người lao động.
Tiền lương theo thời gian = Thời gian làm việc x mức lương thời gian.
(Mức lương thời gian được áp dụng cho từng bậc lương)
2. Tính lương theo sản phẩm
Tiền lương theo sản phẩm là số tiền lương tính trả cho người lao động căn
cứ theo số lượng sản phẩm mà họ sản xuất ra đạt tiêu chuẩn chất lượng quy định


hay khối lượng công việc người lao động làm xong được nghiệm thu và đơn giá
tiền lương của sản phẩm, công việc đó.
Khối lượng sản phẩm
Đơn giá
Tiền lương sản
hoặc công việc
phẩm phải trả cho
=
x
tiền lương
người lao động
hoàn thành
sản phẩm
1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của kế toán quản trị chi phí và giá thành
1.1.5.1. Ý nghĩa của việc quản lý chi phí
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn luôn quan
tâm đến việc quản lý chi phí, vì mỗi đồng chi phí bỏ ra đều có ảnh hưởng đến lợi
nhuận. Vì vậy vấn đề quan trọng được đặt ra cho nhà quản trị doanh nghiệp là
phải kiểm soát chi phí của doanh nghiệp.
Vấn đề chi phí không chỉ là sự quan tâm của các doanh nghiệp mà còn là
mối quan tâm của người tiêu dùng, của xã hội nói chung.

Trong môn học kinh tế vi mô, chi phí sản xuất giữ một vị trí quan trọng và
có quan hệ với nhiều vấn đề khác của doanh nghiệp.
Theo kế toán tài chính, chi phí được hiểu là một số tiền hoặc một phương
tiện mà doanh nghiệp hoặc cá nhân bỏ ra để đạt được mục đích nào đó. Bản chất
của chi phí là phải mất đi để đổi lấy một sự thu về, có thể thu về dưới dạng vật
chất, có thể định lượng được như số lượng sản phẩm, tiền, ... hoặc dưới dạng
tinh thần, kiến thức, dịch vụ được phục vụ...
1.1.5.2. Vai trò và ý nghĩa của kế toán quản trị chi phí giá thành
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải luôn
luôn quan tâm đến việc quản lý chi phí, với mỗi đồng chi phí bỏ ra đều có ảnh
hưởng đến lợi nhuận. Vì vậy vấn đề quan trọng được đặt ra cho nhà quản trị
doanh nghiệp là phải kiểm soát chi phí của doanh nghiệp.
Vấn đề chi phí không chỉ là sự quan tâm của các doanh nghiệp mà còn là
mối quan tâm của người tiêu dùng, xã hội nói chung. Bên cạnh đó chi phí sản
xuất giữ một vị trí quan trọng và có quan hệ với nhiều vấn đề khác của doanh
nghiệp, như để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm doanh nghiệp cần bỏ ra
các loại chi phí biểu hiện bằng tiền để đầu tư TSCĐ, TLLĐ ngoài ra còn đảm
bảo phúc lợi cho người lao động...chi phí đảm bảo phúc lợi của doanh nghiệp


gắn liền với việc thực hiện với biện pháp nhằm tái tạo khả năng lao động, nâng
cao trình độ cho công nhân viên chức.
1.1.6. Phân loại chi phí, khái niệm từng loại chi phí, ý nghĩa của từng
cách phân loại chi phí.
1.1.6.1. Phân loại chi phí
Chi phí được nhà quản lý sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Do vậy
chi phí được phân loại theo nhiều cách, tuỳ theo mục đích của nhà quản trị cho
từng quyết định.
Nhận định và thấu hiểu cách phân loại và ứng xử của từng loại chi phí là
chìa khoá của việc đưa ra những quyết định đúng đắn trong quá trình tổ chức

điều hành hoạt động kinh doanh của nhà quản trị doanh nghiệp.
a/ Phân loại chi phí theo chức năng hoạt động:
* Ý nghĩa của phân loại chi phí theo chức năng hoạt động là:
- Cho thấy vị trí, chức năng hoạt của chi phí trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Là căn cứ để xác định giá thành sản phẩm và tập hợp chi phí.
- Cung cấp thông tin có hệ thống cho việc lập báo cáo tài chính.
1. Chi phí sản xuất:
Khái niệm: chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí có liên quan đên việc chế
tạo sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ trong một kỳ nhất định .
- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí của những nguyên vật liệu
mà cấu tạo thành thực thể của sản phẩm, có giá trị và có thể xác định được một
cách tách biệt rõ ràng và cụ thể cho từng loại sản phẩm.
- Chi phí lao động trực tiếp: là chi phí thanh toán cho công nhân trực tiếp
vận hành dây chuyền sản xuất tạo ra sản phẩm. Khả năng và kỹ năng của lao
động trực tiếp có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của sản phẩm hay dịch
vụ cung cấp.
- Chi phí sản xuất chung: chi phí sản xuất chung có thể được định nghĩa
một cách đơn giản, là gồm tất cả những loại chi phí sản xuất, ngoại trừ chi phí
ngyuên vật liệu trực tiếp và chi phí lao động trực tiếp.
2. Chi phí ngoài sản xuất
- Chi phí lưu thông và tiếp thị (chi phí bán hàng)


Chi phí lưu thông và tiếp thị bao gồm các khoản chi phí cần thiết để đẩy mạnh
quá trỡnh lưu thông hàng hoá và đảm bảo việc đưa hàng hoá đến tay người tiêu
dùng.
- Chi phí quản lý
Chi phí quản lý là những khoản chi phí liên quan với việc tổ chức hành chính và
các hoạt động văn phòng làm việc của doanh nghiệp. Các khoản chi phí này

không thể xếp vào loại chi phí sản xuất hay chi phí lưu thông.
b/ Phân loại chi phí sản xuất theo cách ứng xử của chi phí
Ý nghĩa: nhằm đáp ứng nhu cầu lập kế hoạch, kiểm soát và chủ động điều
tiết chi phí đối với lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, người ta còn phải phân loại
chi phí theo cách ứng xử của chi phí, nghĩa là khi mức độ hoạt động biến động
thì chi phí sẽ biến động như thế nào.
1. Biến phí
Biến phí tỷ lệ là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với
biến động của mức độ hoạt động. Biến phí khi tính cho một đơn vị thì nó ổn
định, không thay đổi, biến phí khi không có hoạt động bằng không.
- Biến phí tỷ lệ.
Biến phí tỷ lệ là khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận trực tiếp với biến
động của mức độ hoạt động căn cứ.
- Biến phí bậc.
Biến phí cấp bậc là những khoản chi phí thay đổi khi mức độ hoạt động
thay đổi nhiều và rõ ràng, biến phí loại này không đổi khi mức độ hoạt động căn
cứ thay đổi ít.
2. Định phí
Định phí là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay
đổi, nhưng tính cho một đơn vị hoạt động tăng thì định phí thay đổi.
- Định phí tuỳ ý :
Định phí tuỳ ý là định phí có thể thay đổi nhanh chóng bằng hành động
quản trị. Các nhà quản trị quyết định mức độ và số lượng định phí này như chi
phí quảng cáo, đào tạo nhân viên, nghiên cứu.
- Định phí bắt buộc:
Định phí bắt buộc là định phí không thể thay đổi một cách nhanh chóng vì
chi phí chung thường liên quan đến TSCĐ và cấu trúc cơ bản của doanh nghiệp.


3. Chi phí hỗn hợp

Chi phí hỗn hợp là loại chi phí mà bản thân nó gồm cả các yếu tố biến phí
lẫn định phí.
c/ Phân loại chi phí theo mối quan hệ với sản phẩm:
Ý nghĩa : cho ta biết được chi phí nào phát sinh trong kỳ, ảnh hưởng đến
lợi tức của kỳ mà chúng phát sinh. Chi phí nào gắn liền với sản phẩm.
1. Chi phí thời kỳ:
Chi phí thời kỳ là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ hạch toán.
Vì thế chi phí thời kỳ có ảnh hưởng đến lợi tức của kỳ mà chúng phát sinh. Chi
phí thời kỳ không phải những chi phí tạo thành thực thể của sản phẩm hay vào
các yếu tố cấu thành giá vốn của hàng hoá mua vào, mà là những khoản chi phí
hoàn toàn biệt lập với quá trình sản xuất sản phẩm hoặc mua vào hàng hoá.
2. Chi phí sản phẩm:
Chi phí sản phẩm là những khoản chi phí gắn liền với quá trình sản
xuất sản phẩm hay quá trình mua hàng hoá để bán lại. Chi phí sản phẩm luôn
gắn liền với sản phẩm.
d/ Các cách phân loại chi phí khác nhau nhằm mục đích ra quyết
định
- Ý nghĩa: cách phân loại này có ý nghĩa thuần tuý đối với kỹ thuật hạch
toán. Trường hợp có phát sinh chi phí gián tiếp, bắt buộc phải áp dụng phương
pháp phân bổ, lựa chọn tiêu thức phù hợp. Mức độ chính xác của chi phí gián
tiếp tập hợp cho từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu
chuẩn phân bổ chi phí. Vì vậy, các nhà quản trị doanh nghiệp phải hết sức quan
tâm đến việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí nếu muốn có các thông tin chân
thực về chi phí và kết quả lợi nhuận từng loại sản phẩm, dịch vụ, từng loại hoạt
động trong doanh nghiệp.
1. Chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
Chi phí trực tiếp: còn được gọi là chi phí có thể tách biệt, phát sinh
một cách riêng biệt cho một hoạt động cụ thể của doanh nghiệp, như một sản
phẩm, ở một phân xưởng sản xuất, một đại lý ...
Chi phí gián tiếp: còn được gọi là chi phí chung hay chi phí kết hợp,

không có liên quan tới hoạt động cụ thể nào mà liên quan cùng lúc với nhiều


hoạt động. Do đó, để xác định chi phí gián tiếp của một hoạt động cụ thể phải áp
dụng phương pháp phân bổ.
2. Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được :
Chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được là những
khoản mục chi phí phản ánh phạm vi quyền hạn của các nhà quản trị các cấp đối
với các loại chi phí đó. Như vậy, các nhà quản trị cao cấp có phạm vi quyền hạn
rộng đối với chi phí hơn.
3. Chi phí chênh lệch:
Những khoản chi phí nào có ở phương án này nhưng không có ở các
loại phương án khác thì được gọi là chi phí chênh lệch.
4. Chi phí cơ hội:
Chi phí chìm là một loại chi phí mà doanh nghiệp phải chịu và vẫn sẽ
phải chịu dự doanh nghiệp chọn phương án hành động nào. Chi phí chìm không
bao giờ thích hợp với việc ra quyết định vì chúng không có tính chênh lệch và
nó tồn tại trong mọi phương án hành động.
1.2. Phân tích mối quan hệ chi phí - khối lượng - lợi nhuận
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản trong phân tích mối quan hệ giữa chi
phí - khối lượng - lợi nhuận.
1.2.1.1. Số dư đảm phí:
Là số biểu hiện bằng số tuyệt đối tổng số tiền còn lại của doanh thu trừ đi
chi phí biến đổi, phần còn lại là lợi nhuận.
Tổng doanh thu
Chi phí BĐ Chi phí CĐ
Chi phí BĐ

Lợi nhuận


Số dư đảm phí

Tổng SDĐP = Doanh thu – Tổng chi phí BĐ
SDĐPđb

=

Tổng SDĐP
Khối lượng SP

=

Tổng doanh thu – Tổng CPBĐ
Khối lượng SP


=

Tg dthu
Klg sp

Tg sdđp

-

Klg sp

=

Klg sp x giá bán

Klg sp

-

Klg sp –CPbđđv
Klg sp

SDĐPđv = Giá bán – CPbđ đv
1.2.1.2. Tỷ lệ số dư đảm phí

Tỷ lệ
SDĐP

=

Tổng SDĐP
Tổng doanh thu
SDĐPđv

tỷ lệ sdđp =

Giá bán
=

1

-

=


=

Klượng sp x SDĐPđv
Klượng SP x Giá bán
Giá bán - CPbđđv
Giá bán

CPbđđv
Giá bán

- Là chỉ tiêu tương đối phản ánh tổng SDĐP trên doanh thu hoặc giữa
CPBĐđv trên giá bán.
- Ý nghĩa: một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng là số dư đảm phí (hoặc
một đồng doanh thu tăng lên có bao nhiêu đồng số dư đảm phí tăng lên).
Mức tăng của doanh thu tỷ lệ với mức tăng của SDĐP.
1.2.1.3. Kết cấu chi phí:
- Là chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ lệ CPBĐ và CPCĐ trong tổng chi phí
của doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp nào có kết cấu chi phí với phần định phí cao hơn sẽ đem
lại lợi nhuận nhiều hơn trong trường hợp doanh thu gia tăng, ngược lại, trong
trường hợp doanh thu suy giảm thì rủi ro sẽ lớn hơn.
- Rủi ro được đề cập là rủi ro kinh doanh hay rủi ro hoạt động, nó gắn
liền với cơ cấu chi phí của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có kết cấu chi phí
với phần định phí cao hơn sẽ có nhiều cơ hội đem lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp, nhưng gắn liền với nó là rủi ro kinh doanh lớn.
- Mỗi doanh nghiệp có tính chất, đặc điểm khác nhau, có chính sách và
chiến lược khác nhau vì vậy một kết cấu chi phí được coi là hợp lý là kết cấu chi


phí phù hợp với chiến lược phát triển của doanh nghiệp và tuỳ thuộc vào thái

độ của các nhà quản trị doanh nghiệp về sự rủi ro kinh doanh.
1.2.1.4 Độ lớn đòn bẩy kinh doanh (g):
- Đòn bẩy kinh doanh là thuật ngữ để phản ánh về mức độ sử dụng định
phí trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có kết cấu chi phí với phần định phí
cao hơn thì doanh nghiệp đó được gọi là có đòn bầy kinh doanh lớn hơn và
ngược lại.Với đòn bầy kinh doanh lớn, doanh nghiệp có thể đạt được tỷ lệ cao
hơn về lợi nhuận với một tỷ lệ tăng thấp hơn về doanh thu.
Đòn bẩy
KD

=

Tốc độ tăng LN

Tg SDĐP
=

Tốc độ tăng DT

=
Tg LN

Tg SDĐP
Tg SDĐP – CPCĐ

- Ý nghĩa: khi doanh thu tăng 1% thì lợi nhuận sẽ tăng bao nhiêu lần.

1.2.1.5. Ứng dụng của phân tích mối quan hệ giữa chi phí - khối lượng - lợi
nhuận :
a/ Thay đổi sản lượng và định phí

So sánh SDĐP và CPCĐ.
- Nếu SDĐP tăng nhiều hơn so với mức tăng của CPCĐ thì lúc đó doanh
nghiệp sẽ thu được lợi nhuận nhiều hơn. Ta nên chọn phương án này và ngược
lại.
- Nếu mức giảm của SDĐP lớn hơn mức giảm của CPCĐ thì lúc đó doanh
nghiệp sẽ có lợi nhuận giảm. Ta không nên chọn phương án này và ngược lại.
b/ Thay đổi sản lượng và biến phí:
Cách 1: ta tiến hành so sánh SDĐP mới và SDĐP cũ.
- Nếu SDĐP mới > SDĐP cũ thì lúc đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ
tăng, ta nên chọn phương án này.
- Nếu SDĐP mới < SDĐP cũ thì lúc đó lợi nhuận giảm, ta không nên lựa
chọn phương án này.


Cách 2: so sánh mức tăng của SDĐP do tăng số lượng (hoặc do giảm
biến phí) với mức giảm cuả SDĐP do giảm khối lượng (hoặc tăng biến phí).
- Nếu mức tăng của SDĐP lớn hơn mức giảm của SDĐP thì doanh
nghiệp có lợi nhuận lớn hơn, ta nên lựa chọn phương án này.
- Nếu mức tăng của SDĐP nhỏ hơn mức giảm của SDĐP thì doanh
nghiệp có lợi nhuận nhỏ hơn, ta không nên lựa chọn phương án này.
c/ Thay đổi sản lượng, định phí và giá bán.
So sánh SDĐP với CPCĐ:
- Nếu SDĐP tăng lớn hơn mức tăng của CPCĐ hoặc mức giảm của
SDĐP nhỏ hơn mức giảm của CPCĐ thì doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận
lớn hơn, ta nên lựa chọn phương án nàỳ.
- Nếu SDĐP tăng nhỏ hơn mức tăng của CPCĐ hoặc mức giảm của
SDĐP lớn hơn mức giảm của CPCĐ thì doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận lớn hơn ta
không nên lựa chọn phương án này.
d/ Thay đổi định phí, biến phí và doanh thu:
Tiến hành tính toán SDĐP, so sánh mức tăng hay giảm của nó với mức tăng

hay giảm của CPCĐ, từ đó xác định lợi nhuận của doanh nghiệp tăng hay giảm
để đưa ra quyết định.
1.2.2 Phân tích điểm hoà vốn:
Bất kỳ quá trình hoạt động sản suất kinh doanh nào cũng đòi hỏi phải xác
định mức doanh thu tối thiểu hoặc mức thu nhập nhất định đủ bù đắp chi phí
của quá trình hoạt động đó. Phân tích điểm hoà vốn cho phép ta xác định mức
doanh thu với khối lượng sản phẩm và thời gian cần đạt được để vừa đủ bù đắp
hết chi phí đó bỏ ra, tức là đạt mức hoà vốn.
a/ Xác định điểm hoà vốn
Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ bù đắp hết chi phí hoạt
động kinh doanh đó bỏ ra, trong điều kiện giá bán sản phẩm dự kiến hay giá
được thị trường chấp nhận.
Điểm hoà vốn theo khái niệm trên là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ bù
đắp tổng chi phí, nghĩa là lãi thuần (LT) bằng không (không lãi).
Nói cách khác, tại điểm hoà vốn: SDĐP (số dư đảm phí) = ĐP (định phí).


Trong đó:

SDĐP =

DT (doanh thu) – BP (biến phí)

Mối quan hệ chi phí, doanh thu và lợi nhuận có thể trình bày bằng mô hình
sau:

Doanh thu (DT)
Biến phí (BP)
Biến phí (BP)


Số dư đảm phí (SDĐP)
Định phí (ĐF)

Tổng chi phí (TF)

Lãi thuần (LT)
Lãi thuần (LT)

* Ý nghĩa của việc xác định và phân tích điểm hoà vốn :
Xác định điểm hoà vốn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất
kinh doanh trong cơ chế thị trường cạnh tranh. Xác định đúng điểm hoà vốn sẽ
là căn cứ để các nhà quản trị doanh nghiệp đề ra các quyết định kinh doanh như
chọn phương án sản xuất, xác định đơn giá tiêu thụ, tính toán các khoản chi phí
kinh doanh cần thiết để đạt được lợi nhận mong muốn.
Phân tích điểm hoà vốn giúp nhà quản trị xem xét quá trình kinh doanh
một cách chủ động và tích cực, xác định rõ ở mức sản xuất và tiêu thụ là bao
nhiêu? vào lúc nào trong kỳ kinh doanh? hay ở mức sản xuất nào và tiêu thụ bao
nhiêu thì đạt mức hoà vốn. Từ đó giúp nhà quản trị có các chính sách và biện
pháp chỉ đạo tích cực để hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
Mặt khác phân tích điểm hoà vốn trong điều kiện kết cấu chi phí thay
đổi là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà quản trị doanh nghiệp,
vì từ đó họ có thể lựa chọn phương án thay đổi phù hợp để doanh nghiệp có thể
nhanh chóng đạt được mức sao cho doanh thu đủ để bù đắp chi phí. Ngoài ra
điểm hoà vốn cũng được phân tích trong đơn giá bán hàng thay đổi vì nó có ý
nghĩa rất lớn giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có thể dự kiến khi giá thay đổi
cần xác định mức hoà vốn là bao nhiêu để đạt hoà vốn tương ứng với đơn giá
đó.
b/ Xác định sản lượng hoà vốn



Nói về mặt toán học, điểm hoà vốn là giao điểm của đường biểu diễn
doanh thu với đường biểu diễn tổng chi phí. vậy sản lượng tại điểm hoà vốn
chính là ẩn số của hai phương trình biểu diễn hai đường đó.
Phương trình biểu diễn doanh thu có dạng

: Yt = px

Phương trình biểu diễn tổng chi phí có dạng : Yc = a+ bx
Vậy tại điểm hoà vốn thì
Trong đó:

: Yt = Yc



px = a + bx

x – Sản lượng hoà vốn
p – Đơn giá
a – Định phí
b – Biến phí

Từ đó ta tính được sản lượng hoà vốn:
x= =

Định phí
Phần số dư đảm phí trên đơn vị sản
phẩm

Nếu ký hiệu phần số dư đảm phí trên đơn vị sản phẩm là c thì : x = a / c

c/ Xác định doanh thu hoà vốn:
Doanh thu hoà vốn là doanh thu của mức tiêu thụ hoà vốn. Vậy doanh thu
hoà vốn là tích của sản lượng với giá bán.
Phương trình biểu diễn doanh thu có dạng: Yt = px
Tại điểm hoà vốn x = a / c

yhv = p.

Định phí
Tỷ lệ số dư đảm phí trong đơn vị

Định phí
Vậy doanh thu hoà vốn =
d/ Doanh thu an toàn

Tỷ lệ số dư đảm phí trong đơn giá bán


×