Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Truyền thống lac quan trong tư tưởng HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.11 KB, 11 trang )

I.

Truyền thống lạc quan của dân tộc Việt Nam.
Lạc quan, yêu đời là truyền thống vốn có từ ngàn xưa của dân t ộc
Việt Nam và được phát triển bền vững cho đến ngày hôm nay. Nó
được hình thành là do đòi hỏi khách quan từ thực tiễn cuộc sống
mang lại; cho phép dân tộc Việt Nam luôn có đủ bản lĩnh, niềm tin
hướng về tương lai tươi sáng của dân tộc cho dù phía tr ước còn
gặp muôn ngàn khó khăn, thách thức. Tinh thần lạc quan đó không
phải là sự chủ quan, tự dối mình và dối người mà là dựa trên những
cơ sở của niềm tin vững chắc vào sức mạnh của chính bản thân
mình có thể nắm được vận mệnh của mình ch ứ không cúi đầu cam
chịu số kiếp bị quy định sẵn từ đâu đâu; là tin vào sự tất th ắng của
chân lý, chính nghĩa, dù có thể trải qua những thất bại tức thời và còn
nhiều những thách thức lớn phía trước. Giáo sư Trần Văn Giàu nhận
định: “Trong tư tưởng lạc quan có một lòng tin mãnh liệt. Nhưng lòng
tin đó không phải là một sự tin tưởng có tính chất tôn giáo, mà là một
sự tin tưởng có tính chất khoa học, nghĩa là có căn c ứ th ực t ế, d ựa
trên những suy lý chắc chắn, bằng vào kinh nghiệm lịch sử”. Truyền
thống lạc quan, yêu đời không phải chỉ riêng dân tộc ta mới có.
Nhưng đối với dân tộc ta, truyền thống ấy được hình thành từ rất
sớm và được thử thách bởi một điều kiện chiến tranh chống giặc
ngoại xâm có tiềm lực lớn hơn ta, thường xuyên và lâu dài, hiếm có
trong lịch sử nhân loại, cùng với điều kiện thiên nhiên hà khắc luôn
đe dọa đến sự sinh tồn, phát triển của dân tộc ta. Trong h ơn m ột
nghìn năm Bắc thuộc, từ thời Hai Bà Trưng đến thời Ngô Quyền có
hàng trăm cuộc khởi nghĩa của dân tộc, với tinh thần lạc quan, dân
tộc ta quyết “thua keo này, bày keo khác”, cuối cùng ta đã chiến
thắng. Sau này, trong kháng chiến chống quân Nguyên - kẻ từng
chinh phạt từ Âu sang Á, nổi danh bách th ắng, nh ưng khi đ ưa quân
đến xứ ta, nó bị liên tiếp đánh bại ba lần, điều đó không thể là do


may, rủi được. Mặt dù quân, dân ta có lúc phải bỏ thành, bỏ làng để
chiến đấu, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn lạc quan vì tin tưởng vào
sức mạnh của dân tộc, sức mạnh của “chính nghĩa” nh ất đ ịnh th ắng
“hung
tàn”. Cho thấy, trong mọi hoàn cảnh, điều kiện, dân tộc Việt Nam
luôn giữ cho mình một lối sống lạc quan yêu đời, yêu quê hương, đất
nước …và luôn tin tưởng vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của
tinh thần đoàn kết dân tộc; tin vào sự tất thắng của chính nghĩa, của
chân lý, trí tuệ, bản lĩnh con người Việt Nam.


II.

Vai trò của truyền thống lạc quan và yêu đời trong sự hình
thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.

Thời kỳ trước 1911 : Hình thành tư tưởng yêu nước và chí
hướng cách mạng.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh nước mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho
yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận truyền thống
lạc quan và yêu đời của dân tộc , nền văn hiến của n ước nhà
và những tinh hoa văn hoá phương Đông.Người lại được
hưởng nền giáo huấn yêu nước, thương nòi của gia đình,
truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành
nên ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu
lòng yêu nước, nhân ái, thương người,lạc quan có hoài bão c ứu
nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường của

dân tộc. Vốn có tư chất thông minh, linh khiếu chính trị sắc
sảo, với ý chí lớn tìm đường cứu nước, cứu dân. Ng ười không
đi theo con đường phong kiến, lối mòn của các bậc tiền bối.
Người nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe nh ững tiếng
Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế là tôi muốn làm quen v ới
nền văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau nh ững
từ mĩ miều ấy. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “Mẫu quốc”
ra sao và tôi tới Pari để học hỏi”.
Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri th ức
ban đầu rất quan trọng về văn hoá Đông - Tây và lòng yêu
nước nhiệt thành với chí hướng rõ rệt: trên cơ s ở tiếp thu có
chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp tr ước.


2. Thời kỳ tìm thấy con đường cứu nước,giải phóng dân tộc

(1911-1920).

Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến
cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố H ồ Chí
Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu
nước.Tiếp đó Người còn đến nhiều nước thuộc địa ở châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như Mỹ, Anh đ ể
nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành
trình vạn dặm ấy Người đã trải qua nhiều gian nan,thử thách
nhưng với tinh thần lạc quan,lòng yêu nước Người quyết tâm
tìm một con đường giải phóng cho dân tộc.
Năm 1912, Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của
hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng quanh châu Phi, đã có dịp d ừng l ại
ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, BồĐào

Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông…
Đến đâu anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động d ưới
sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị.
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu rời Mỹ tr ở
về Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm tiền
sinh sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ
đốt lò. Công việc hết sức nặng nhọc, nh ưng sau mỗi ngày anh
đều tranh thủ thời gian học tiếng Anh.
Cuối năm 1913, sau hai tuần nghỉ việc vì bị cảm, Nguy ễn T ất
Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cơớc, đại lộ
Đraytơn, khu Oét Ilinh (Drayton Court, Drayton Av., West
Ealing), phía tây Luân Đôn.
Sau đó Người quay lại Pháp để hoạt động cách mạng.Ban đầu
khi tới Pari, chưa có giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được
các đồng chí trong Ban đón tiếp những người lao động nhập c ư
của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong khi chờ các đ ồng chí tìm
cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, h ạn
chế đi lại để tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống của
anh lúc đó gặp rất nhiều khó khăn. Vừa hoạt động chính trị,
vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì làm thuê cho
một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ c ổ mỹ ngh ệ
Trung Hoa, nhưng anh vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt
động. Anh thường xuyên gặp gỡ với những người Việt Nam ở


Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ nh ư Phan Châu
Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Ái Quốc từng bước tham gia
vào cuộc đấu tranh của phong trào công nhân và lao đ ộng
Pháp.



3. Thời kỳ hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt

Nam (1921-1930).

Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc nhận thức được
trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng và
sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn n ữa
đến các dân tộc thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động
chính xác, một chính sách có hiệu quả và thiết thực. T ừ đây,
bắt đầu một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Người trên các lĩnh
vực, đặc biệt là các diễn đàn, các đại hội quốc tế và trên báo
chí, nhằm lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân
dân các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa,
hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.
Song cuộc sống ở Pháp của Nguyễn Ái Quốc trong th ời gian
này gặp rất nhiều khó khăn.Sống chủ yếu bằng nghề in phóng
ảnh, nhưng do việc làm không ổn định, giá sinh hoạt lại đắt
đỏ, nên cuộc sống của Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn.
Đặc biệt, từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu n ước
tại Pháp ký tên vào bản Yêu sách 8 điểm, do có sự can thiệp
của cơ quan an ninh Pháp đối với những ch ủ hiệu đã thuê
Nguyễn Ái Quốc, nên sự tìm kiếm việc làm của Người càng khó
khăn hơn. Để chống lại những đêm mùa đông giá rét, Nguy ễn
Ái Quốc dùng hơi ấm từ viên gạch (để nhờ cạnh bếp lò của
người chủ nhà khi đi làm), đến tối về, bọc báo, để xuống
giường cho đỡ lạnh. Nguyễn Ái Quốc thường chỉ đi làm buổi
sáng, buổi chiều Người đến thư viện, hoặc đi dự các buổi
míttinh, các buổi nói chuyện chính trị để nâng cao hiểu biết.
Tại các buổi míttinh, các buổi sinh hoạt chính trị, Nguyễn Ái

Quốc cũng tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận và Người
thường khéo léo lái sang vấn đề thuộc địa, nhằm lên án ch ủ
nghĩa thực dân.
Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp thông qua những
đóng góp của Người tại Đại hội I và II của Đảng C ộng s ản
Pháp, tại Hội Liên hiệp thuộc địa cùng với việc xuất bản


báo Người cùng khổ được Đảng Cộng sản Pháp đánh giá cao.
Uy tín và vai trò của người cộng sản Đông Dương đã đ ược
Quốc tế Cộng sản biết đến và Người được Đảng Cộng sản
pháp cử đi Mátxcơva (Liên Xô) dự Đại hội V Quốc tế Cộng
sản.Từ khi ra đời đến khi đình bản, báo Người cùng kh ổ ra
được 38 số, trong những điều kiện hết sức khó khăn v ề tài
chính và phương tiện hoạt động, lại luôn bị cảnh sát theo dõi,
đe dọa, gây khó dễ. Nguyễn Ái Quốc là một trong nh ững ng ười
lãnh đạo chủ chốt của báo, Người làm chủ nhiệm, chủ bút, giữ
quỹ và kiêm cả việc phát hành, bán báo. Làm việc không m ệt
mỏi, Nguyễn Ái Quốc đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của
báo bằng cách viết nhiều bài cho báo, thậm chí còn dành c ả
phần tài chính eo hẹp của mình cho báo.


4. Thời kỳ vượt qua thử thách,kiên trì giữ vững lập trường

cách mạng (1930-1945).

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, mở đầu một thời kỳ m ới, vô
cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc. Lúc này, dù đang ho ạt
động ở nước ngoài, trên cương vị là người đại diện Ban

Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc giữ liên lạc chặt chẽ v ới Quốc
tế Cộng sản, đồng thời theo dõi chặt chẽ phong trào cách
mạng trong nước.
Trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Đông Dương và
sự cấu kết của bọn đế quốc trong việc bắt bớ, giam cầm các
nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam ở trong và ngoài nước (Trần
Phú, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng... bị bắt cuối tháng 31931), Nguyễn Ái Quốc báo cáo về Văn phòng Ban Ph ương
Đông, đề nghị được chuyển công tác lên Thượng Hải khi tình
hình diễn biến ngày càng xấu đi, song đề nghị chưa kịp th ực
hiện, thì ngày 6-6-1931, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi khi đó là
Tống Văn Sơ) bị bắt tại số nhà 186, phố Tam Kung (8) (Cửu
Long, Hồng Kông). Ngày 15-6-1931, Hile Nulen, người ph ụ
trách Văn phòng chi nhánh Ban Phương Đông tại Th ượng H ải
cũng bị sa lưới kẻ thù.Sau đó nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng
Sản mà trực tiếp là luật sư Lodobi Người đã được thả tự
do.Song khi mới đến Singapo, lấy cớ Tống Văn Sơ đi vào thuộc
địa không có giấy phép, Người lại bị bắt giam. Một lần nữa gia
đình luật sư Lôdơbi lại bênh vực và cứu Tống Văn Sơ ra kh ỏi
nhà tù.
Thời kỳ này Nguyễn Ái Quốc bị Quốc tế Cộng sản gọi là “h ữu
khuynh”, “chủ nghĩa ích kỷ hẹp hòi”… ngoài việc học
tập,nghiên cứu Nguyễn Ái Quốc không được giao bất kỳ công
việc nào.
Ngày 28/1/1941, Người trở về nước sống và làm việc tại hang
Cốc Bó, thôn Pác Bó, Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Cuối
tháng 3-1941, do bị địch lùng sục, Người rời Pác Bó sang Khuổi
Nậm. Trong tháng 4-1941, Nguyễn Ái Quốc nhiều lần vượt qua
biên giới trở lại Tĩnh Tây và nhận được sự giúp đỡ quý báu của
những người dân Trung Quốc. Cuối tháng 4-1941, theo đề nghị
của Người, một cuộc hội nghị cán bộ tỉnh Cao Bằng được triệu



tập, để tổng kết kinh nghiệm tổ chức thí điểm các hội quần
chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc nhằm tiến
tới thành lập Mặt trận Việt Minh trong toàn quốc.
Ngày 27-8-1942, khi đến phố Túc Vinh (Thiên Bảo, Quảng
Tây), Hồ Chí Minh bị bắt với lý do những giấy tờ tuỳ thân c ủa
Người đã quá hạn sử dụng. Hơn một năm trời, bị giải qua hơn
30 nhà lao của 13 huyện của tỉnh Quảng Tây, phải tr ải qua
những ngày tháng bị giam cầm thiếu thốn, khổ cực, bệnh tật,
Hồ Chí Minh đã viết 133 bài thơ bằng chữ Hán, theo th ể th ất
tuyệt, thất luật, ngũ ngôn và tạp thể, chép trên một loại giấy
bản, đóng thành tập, bên ngoài ghi bốn chữ: Ngục trung nhật
ký.
Cuốn Nhật ký bằng thơ này đã tái hiện một quãng đời của H ồ
Chí Minh trong các nhà ngục của tỉnh Quảng Tây, th ể hiện rõ
phong thái ung dung, khí phách hào hùng "thân th ể ở trong lao,
tinh thần ở ngoài lao", đồng thời phản ánh chân th ực chế độ
nhà tù hà khắc của Tưởng Giới Thạch và một phần bộ mặt
thật xã hội Trung Quốc những năm 1942-1943.Ngục trung
nhật ký thể hiện tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó
khăn, tinh thần lạc quan cách mạng và tình cảm nhân đạo
cộng sản chủ nghĩa cao đẹp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


5. Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện và phát tri ển

(1945-1969).

Trong kháng chiến chống Pháp, Người khẳng định: “Tr ường kỳ

kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong kháng chiến chống
Mỹ, Người nhận định: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân
ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn n ữa, song nhất
định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Để ta
thấy được niềm tin mãnh liệt,lạc quan của Người trong công
cuộc giành độc lập cho dân tộc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám dưới sự lãnh đạo của Trung
ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đập tan xiềng
xích nô lệ của phátxít Nhật, lật nhào chế độ quân chủ chuyên chế,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập và tự do. Đó là
thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân
tộc, về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình đã khai sinh ra một Nhà nước
Việt Nam mới - Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, “thực sự là
giai đoạn đầu tiên mở đầu cho làn sóng xoá bỏ chế độ thuộc địa ở
châu Á, tiếp theo là châu Phi” vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội. Thắng lợi vĩ đại này, đã lật đổ ách thống trị của
phátxít Nhật và thực dân Pháp, đưa nhân dân Việt Nam từ thân
phận người nô lệ trở thành công dân một nước Việt Nam độc lập,
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên độc
lập, tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với những bài học
kinh nghiệm được rút ra trong 15 năm đấu tranh cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nguồn sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc duới sự lãnh đạo của Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh sẽ được tiếp tục phát huy trong sự nghiệp kháng chiến và
kiến quốc ngay sau đó.



III.

Tổng kết.
Truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc Việt Nam có ảnh h ưởng
sâu sắc đến sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Người
không những tiếp thu truyền thống lạc quan, yêu đời của dân tộc mà
còn là hiện thân của truyền thống ấy. Đồng chí Phạm Văn Đồng có
viết: “Hồ Chủ tịch rất vui tính, vì vốn có cái tính lạc quan c ủa những
người quyết chiến, quyết thắng ngày nay và xây đắp đời sống tốt
đẹp cho dân tộc ngày mai”. Thực vậy, chúng ta thấy tinh thần lạc
quan của Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc ở niềm tin vững chắc vào sự
tất thắng của cách mạng Việt Nam.Niềm tin đó hoàn toàn có c ơ s ở
khoa học từ tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào đến việc Bác
nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững xu th ế th ời
đại và tin vào sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của tinh th ần đoàn
kết toàn dân…Trên thực tế, ngay khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người đã thấy được “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta” và xác định cách mạng Việt Nam phải đi
theo phương hướng của cách mạng tháng Mười Nga. Tin vào s ức
mạnh to lớn của nhân dân, Người khẳng định: “dân khí mạnh thì
không quân lính nào, súng ống nào chống lại”. Lạc quan, yêu đời là
động lực mạnh mẽ giúp Hồ Chí Minh vượt qua mọi khó khăn, gian
khổ để vươn tới mục đích cao cả của cuộc đời hoạt động cách mạng.
Càng trong khó khăn, gian khổ, hiểm nguy, Hồ Chí Minh càng có thái
độ ung dung, thư thái, tự tin, bình thản. Đọc “Nhật ký trong tù” th ấy
rõ tinh thần ấy: “Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao, muốn
nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao”. Tinh thần lạc quan, yêu
đời của Hồ Chí Minh có ảnh hưởng sâu sắc đến người Việt Nam yêu
nước, giúp họ vượt qua mọi khó khăn để thực hiện nhiệm v ụ cách
mạng. “Tư tưởng lạc quan đã khuyến khích biết bao nhiêu là ngh ị

lực của nhân dân, đã làm bao nhiêu triệu người tránh khỏi cạm bẩy
của Pháp, Nhật. Đã củng cố lòng tin của quần chúng vào Đảng tiền
phong biết nhìn xa, trông rộng và hướng dẫn đồng bào đi đúng
đường trong những lúc khó khăn nhất, trong nh ững đoạn đ ường
dễ vấp nhất”.


Nguồn :
1. Hồ Chí Minh toàn tập.
2. Hồ Chí Minh – biên niên tiểu sử.



×