BẢN BÁO CÁO:
THUYẾT TRÌNH LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài:
Phân tích các công cụ của thị trường tài chính ở Việt Nam
I1
Các công cụ của thị trường tài chính tại Việt Nam:
Trái phiếu kho bạc (hay còn gọi là tín phiếu kho bạc)
- Là công cụ vay nợ ngắn hạn của chính phủ.
- Phát hành với kì hạn thanh toán dưới 1 năm, thường là 3, 6, 12 tháng, với
nhiều mức mệnh giá.
- Được trả với mức lãi suất cố định, thong thường cao hơn lãi suất ngân hàng
cùng kỳ hạn.
- Để huy động vốn để bổ sung Ngân sách Nhà nước, bù đắp thâm hụt ngân sách
và giải quyết thiếu hụt tạm thời
- Là một trong những công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành
chính sách tiền tệ.
- Tín phiếu Kho bạc được phát hành bằng nhiều hình thức: đấu thầu, phát hành
trực tiếp qua hệ thống Kho bạc, phát hành qua đại lý.
- Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu chiết khấu. Có nghĩa là, tín phiếu được bán
thấp hơn mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá khi đáo hạn, chứ không trả lãi
theo định kỳ.
- Tính lỏng cao, thời gian chuyển đổi nhanh, chi phí chuyển đổi phù hợp, do đó
chúng được mua bán nhiều nhất.
- Là loại công cụ phát hành rộng rãi, phổ biến nhất, an toàn nhất trong tất cả các
công cụ trên thị trường tiền tệ, được coi là không có rủi ro tín dụng.
- Chủ yếu do ngân hàng nắm giữ, một lượng nhỏ do các hộ gia đình, các công
ty, các trung gian tài chính nắm giữ.
- Tại Việt Nam, tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành.
2
Kỳ phiếu ngân hàng
- Là công cụ vay nợ ngắn hạn của Ngân hàng thương mại.
- Chủ thể phát hành là ngân hàng thương mại hoặc ngân hàng trung ương.
Nhưng mục đích phát hành và nắm giữ của các bên là khác nhau.
- Huy động khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn.
- Lãi suất: thông thường cao hơn lãi suất tiết kiệm, trả lãi trước hoặc sau.
- Mức độ rủi ro: cao hơn trái phiếu kho bạc.
3
Tiền gửi ngân hàng
- Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn: gửi không kì hạn, gửi có kì hạn, gửi
tiết kiệm.
- Lãi suất do ngân hàng tự quyết định, căn cứ theo quy định từng thời kì của
Ngân hàng nhà nước.
- Ngân hàng ngoài cổ phần, ngoài quốc doanh có lãi suất và độ rủi ro cao hơn so
với các ngân hàng thương mại quốc doanh.
4
Cổ phiếu
- Là sản phẩm riêng của công ty cổ phần.
- Giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành.
- Là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận
quyền sở hữu hoặc một số cổ phần của công ty đó.
- Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của
công ty phát hành.
- Khi xem xét cổ phiếu của công ty cổ phần, được phân thành: cổ phiếu được
phép phát hành, cổ phiếu đã phát hành, cổ phiếu quỹ, cổ phiếu đang lưu hành.
- Dựa vào hình thức cổ phiếu, phân thành: cổ phiếu ghi danh và cổ phiếu vô
danh.
-Dựa vào quyền lợi mà cổ phiếu đưa lại cho người nắm giữ, có thể phân biệt cổ
phiếu phổ thông (cổ phiếu thường) và cổ phiếu ưu đãi.
- Đặc điểm của cổ phiếu:
•
•
•
•
•
•
•
•
•
•
5
Không có kì hạn và không hoàn vốn: Cổ phiếu là chứng nhận
góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Chỉ có chiều góp
vào, không thể hiện thời hạn hoàn vốn; không có kỳ hạn. (Khi
công ty phá sản hoặc giải thể, thì sẽ không còn tồn tại cổ phiếu).
Cổ tức không ổn định và thường phụ thuộc vào kết quả sản xuất
kinh doanh cuả công ty: Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt thì
cổ đông được hưởng lợi nhuận nhiều hơn so với các loại chứng
khoán khác có lãi suất cố định. Ngược lại, khi làm ăn khó khăn
hoặc thua lỗ, cổ tức có thể rất thấp hoặc không có cổ tức.
Khi phá sản, cổ đông là người cuối cùng nhận được giá trị còn
lại của tài sản thanh lý
Giá cổ phiếu biến động rất mạnh
Tính thanh khoản cao.
Có tính lưu thông.
Tính tư bản giá.
Tính rủi ro cao.
Chưa phổ biến ở việt nam, do cả nước chỉ có khoảng 29 doanh
nghiệp nhà nước được cổ phần hóa.
Người mua cổ phiếu ở VN mới có ý đinh đầu tư lâu dài nhằm
kiếm lợi từ cổ tức chứ chưa có ý định mua bán, trao đổi các cổ
phiếu đó.
Các công cụ tài chính khác
-Ngoài ra một số ngành đã phát hành trái phiếu dài hạn trong nước và nước
ngoài để thu hút vốn.
VD: ngành năng lượng phát hành trái phiếu xây dựng đường dây 500KV, Tổng
công ty bưu chính bưu chính viễn thông phát hành trái phiếu xây dựng hệ thống
bưu điện….
- Thương phiếu: do các ngân hàng lớn và công ty nổi tiếng phát hành.
- Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận.
II1.
a-
Thực tiễn về các công cụ tài chính ở Việt Nam
Trái phiếu kho bạc:
(ĐTCK) CTCK Vietcombank (VCBS) vừa dự báo thị trường trái phiếu
năm 2014 sẽ tiếp tục sôi động do các ngân hàng sẽ tiếp tục dư thừa
thanh khoản.
Các ngân hàng sẽ tiếp tục thận trọng trong việc cho vay, và sẽ tiếp tục đầu tư
vào trái phiếu nhằm mục đích an toàn, hai chuyên viên Đậu Thị Vân Anh và
Nguyễn Quang Tú phân tích trong Báo cáo.
Bên cạnh đó, nguồn tài chính để đầu tư cho kênh trái phiếu trong năm 2014
cũng rất lớn, bao gồm 132.560 tỷ đồng trái phiếu và kỳ phiếu đáo hạn trong
năm nay, cộng với trái phiếu đặc biệt của công ty xử lý nợ xấu VAMC, Báo cáo
viết.
Một yếu tố khác hỗ trợ cho nhu cầu mua trái phiếu chính phủ là lạm phát thấp,
được kỳ vọng ở mức 7% trong năm 2014. Dựa trên các yếu tố này, Báo cáo dự
báo thị trường trái phiếu sẽ “tiếp tục sôi động trong năm 2014” với lợi suất dao
động quanh mức tương đương với Quý 2/2013. Tuy nhiên, báo cáo cũng lưu ý
thêm rằng “khả năng có đột biến lớn như trong nửa đầu năm 2013 là thấp”.
Thị trường trái phiếu Việt Nam đã lập kỷ lục mới trong năm 2013 với lượng
phát hành đạt 226.893 tỷ đồng trái phiếu Kho bạc (tăng 30% so với năm ngoái)
và tổng giá trị giao dịch đạt 476.644 tỷ đồng (tăng 102% so với năm ngoái),
theo số liệu thống kê của VCBS. Lợi suất TPCP đã 90-195 điểm ở tất cả các kỳ
hạn trong năm 2013.
Trong tháng 12, thị trường trái phiếu tiếp tục sôi động với lượng trúng thầu đạt
17.288 tỷ (tăng 32% so với tháng trước). Thị trường thứ cấp thậm chí bùng nổ
với khối lượng giao dịch leo lên mức cao nhất từ trước tới nay đạt 68.593 tỷ
đồng (tăng 126% so với tháng trước và tăng 89% so với năm trước) – chủ yếu
do các ngân hàng lớn chốt lời, sau khi đã tích cực mua trái phiếu trong năm,
theo phân tích của VCBS.
Ngược lại, nguồn cung trái phiếu năm 2014 cũng được dự báo sẽ còn tăng
mạnh. Chính phủ đang có nhu cầu vốn lớn để tài trợ cho các dự án quan trọng
và để bù đắp thâm hụt ngân sách, trong khi đó các doanh nghiệp cũng đang tìm
nguồn vốn trung và dài hạn ngày càng nhiều.)
b-
(ĐTCK) Nhu cầu đầu tư trái phiếu tăng cao trong phiên đấu thầu trái
phiếu Kho bạc ngày hôm nay (13/2/2014), đẩy lãi suất trúng thầu giảm
19-24 điểm. Phiên hôm nay, Kho bạc huy động được gần 10.000 tỷ
đồng
Nguyên nhân được cho là các ngân hàng đang dồi dào thanh khoản bởi lượng
tiền gửi vào ngân hàng sau Tết tăng mạnh. Đây cũng là lý do khiến hầu hết kỳ
hạn lượng đăng ký dự thầu lớn hơn nhiều lần lượng gọi thầu.
Kỳ hạn 2 năm trúng thầu toàn bộ 3.000 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu giảm 19
điểm so với phiên liền trước xuống 6,58%/năm. Khối lượng đăng ký dự thầu đối
với kỳ hạn này đạt hơn 8.300 tỷ đồng, gấp 2,7 lần lượng gọi thầu.
Kỳ hạn 3 năm phiên phát hành mới trúng thầu 1.670 tỷ đồng trên tổng lượng gọi
thầu 2.000 tỷ đồng, lãi suất trúng thầu giảm tận 24 điểm so với phiên liền trước
xuống 6,95%/năm.
Kỳ hạn 3 năm phiên phát hành bổ sung trúng thầu toàn bộ 2.000 tỷ đồng cũng
với lãi suất trúng thầu 6,95%/năm.
Nhu cầu cũng tăng mạnh với kỳ hạn 5 năm, đẩy lãi suất trúng thầu của kỳ hạn
này giảm 24 điểm so với phiên liền trước xuống 7,95%/năm. Tổng khối lượng
đăng ký đối với kỳ hạn này cũng đạt mức cao gấp 2,49 lần tổng lượng gọi thầu.
Trong đó, phiên phát hành mới của kỳ hạn 5 năm trúng thầu 1.610 tỷ đồng trên
tổng lượng gọi thầu 2.000 tỷ đồng.Phiên phát hành bổ sung trúng thầu toàn bộ
1.000 tỷ đồng gọi thầu.
Tổng cộng Kho bạc huy động được 9.280 tỷ đồng.
Tín phiếu ngân hàng
Agribank phát hành Kỳ phiếu dự thưởng năm 2013 từ ngày 18/11/2013
- 16/01/2014
(Cập
nhật
lúc
10:41
ngày
8/11/2013)
2.
a-
Với mục đích tạo điều kiện thuận lợi, tiếp tục đem ích lợi đến cho đông đảo
Quý khách hàng khi tham gia gửi tiền tại tất cả các điểm giao dịch của Agribank
trên toàn quốc, đồng thời đa dạng hóa các sản phẩm huy động vốn, tăng tính
hấp dẫn và kích thích tăng trưởng nguồn vốn huy động từ dân cư, góp phần tăng
nguồn vốn đáp ứng nhu cầu cho vay nền kinh tế, trong đó ưu tiên tập trung
nguồn vốn cho nông nghiệp, nông thôn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam (Agribank) sẽ chính thức phát hành Kỳ phiếu dự thưởng
năm 2013 từ ngày 18/11/2013 đến hết ngày 16/01/2014.
Cụ thể, khách hàng khi gửi tiền tiết kiệm tại Agribank bằng VND hoặc USD kỳ
hạn 03 tháng, 06 tháng, 09 tháng và 364 ngày trả lãi một lần khi đến hạn thanh
toán và không rút trước hạn, sẽ được nhận được phiếu dự thưởng để có cơ hội
trúng nhiều giải thưởng có giá trị từ Agribank. Trong trường hợp khách hàng có
nhu cầu cấp thiết về tài chính, khách hàng có thể cầm cố Kỳ phiếu tại chi nhánh
Agribank nơi phát hành để vay bằng VND theo quy định hiện hành của Tổng
Giám đốc Agribank về cho vay cầm cố giấy tờ có giá (nếu Kỳ phiếu dự thưởng
trúng giải, khách hàng vẫn được nhận giải thưởng).
Chương trình Kỳ phiếu dự thưởng năm 2013 của Agribank triển khai từ ngày
18/11/2013 đến hết ngày 16/01/2014 có tổng số 7.066 giải thưởng với tổng giá
trị giải thưởng khoảng 10 tỷ đồng, cụ thể như sau:
01 giải Đặc biệt: 02 kg vàng miếng SJC chất lượng 99,99%.
05 giải Nhất, mỗi giải 01 xe máy SH 150cc 2013 do Honda Việt Nam sản xuất.
10 giải Nhì, mỗi giải 01 cây vàng miếng SJC chất lượng 99,99%.
20 giải Ba, mỗi giải 01 sổ tiết kiệm linh hoạt trị giá 10.000.000 đồng.
30 giải Tư, mỗi giải 01 sổ tiết kiệm linh hoạt trị giá 5.000.000 đồng.
7.000 giải Khuyến khích, mỗi giải 1.000.000 đồng.
Dự kiến ngày 24/01/2014 Agribank sẽ mở thưởng và công bố kết quả trúng
thưởng của Chương trình.
Trong nhiều năm qua, Agribank đã tổ chức công khai, minh bạch nhiều chương
trình tiết kiệm dự thưởng, đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng trong toàn quốc
và đã có rất nhiều khách hàng trong cả nước trúng nhiều giải thưởng có giá trị
lớn từ các chương trình của Agribank.
b-
VietinBank phát hành Chứng chỉ tiền gửi dài hạn và Kỳ phiếu ngắn
hạn
Trong tháng 5/2011, VietinBank phát hành 2 loại giấy tờ có giá bằng VND và
USD với nhiều ưu đãi dành cho khách hàng: Chứng chỉ tiền gửi dài hạn, dự
thưởng và Kỳ phiếungắn hạn…Phát hành chứng chỉ tiền gửi (CCTG) Từ ngày
10/5 đến 8/7/2011, VietinBank phát hành CCTG ghi danh, dài hạn bằng VND
và USD. CCTG có nhiều kỳ hạn gửi (12, 18 và 24 tháng), giúp kháchhàng lựa
chọn thời gian gửi để chủ động cho kế hoạch tàichính của mình. Ngoài lãi suất
hấp dẫn, khách hàng gửi càngnhiều sẽ càng có cơ hội trúng các giải thưởng giá
trị. CCTG dài hạn VietinBank là sản phẩm linh hoạt theo nhu cầu khách hàng.
Khi cần sử dụng tiền nhưng CCTG chưa đến hạnthanh toán, khách hàng có thể
cầm cố để vay vốn hay bán lạiCCTG cho ngân hàng, vẫn được hưởng nguyên
lãi đã tính theo các định kỳ điều chỉnh lãi suất, cộng lãi mua CCTG. Đến hạn
nếu khách hàng chưa đến thanh toán, ngân hàng sẽ tự động chuyển toàn bộ số
dư gốc của CCTG sang tiền gửi hoặc tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn tương ứng.
Phát hành kỳ phiếu ngắn hạn đợt I/2011. Từ ngày 13/5 đến 11/7/2011,
VietinBank phát hành kỳ phiếu ngắn hạn đợt I/2011 bằng VND và USD với
mệnh giá tối thiểu là 1 triệu đồng hoặc 100 USD với lãi suất hấp dẫn và các ưu
đãi cộng thêm. Kỳ phiếu ngắn hạn đợt I/2011 là hình thức tiền gửi ghi danh với
các kỳ hạn 3, 6 và 9 tháng, phương thức trả lãi và gốc linh hoạt. Đối với kỳ hạn
3 tháng, lãi suất cố định 14%/năm (kỳ phiếu VND) và 3%/năm (kỳ phiếu USD).
Kỳ hạn 6 tháng, 9 tháng, lãi suất được điều chỉnh địnk kỳ 1 tháng/lần, 3
tháng/lần, lãi suất định kỳ đầu tiên (1 tháng đầu tiên, 3 tháng đầu tiên) là
14%/năm (kỳ phiếu VND). Khi lựa chọn kỳ phiếu lãi suất cố định, khách hàng
được trả một lần bằng tiền mặt cùng với tiền gốc khi đến hạn thanh toán. Đối
với kỳ phiếu lãi suất thả nổi, trả lãi định kỳ 1 tháng/lần , 3 tháng/lần tương ứng
với định kỳ điều chỉnh lãi suất.
3.Tiền gửi ngân hàng:
Do cơ chế tự chủ trong tài chính và độc lập trong kinh doanh, các tổ chức tài
chính tín dụng không ngừng đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như : tiền
gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, gửi tiết kiệm. Lãi suất huy động do các ngân hàng
tự quyết định căn cứ theo quy định từng thời kỳ của ngân hàng nhà nước. Các
ngân hàng cổ phần, ngoài quốc doanh, thông thường có lãi suất cao hơn so với
các ngân hàng thương maị quốc doanh. Tuy nhiên, kỳ hạn huy động tiền gửi còn
hạn chế, chủ yếu dưới 1 năm . Lãi suất huy động ngoại tệ khoảng 4.5 % năm,
thấp hơn nhiều so với lãi suất huy động tiền đồng, khoảng 10% năm.
Thị phần tiền gửi của các NHTM (%)
Loại hình TCTD
2006
NHTM Nhà nước
65,1
2007
53,4
2008
56,91
2009
51,7
NHTM cổ phần
21,3
31,5
31,23
33,2
Chi nhánh NH nước ngoài
9,6
9,9
13,22
14,3
NH liên doanh
1,1
1,2
1,43
1,67
Nguồn: Báo cáo số 49/BC-NHNN năm 2009 của NH Nhà nước về việc rà soát
10 năm thực hiện Luật các TCTD.
Các NHTM NN vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng vốn,
đặc biệt trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, của các doanh nghiệp. Vì vậy,
GDP của sáu tháng đầu năm 2010 đã đạt khoảng 6,4%, mức tăng cao nhất kể từ
quí 4 năm 2008 đến nay. Song thị phần của các nhóm NH này từng bước giảm
và nhóm NHTM CP, NH nước ngoài tăng v, nhờ các cam kết mở cửa thị trường.
Năm 2009, lợi nhuận của các NH có mức tăng trưởng khá, tỉ suất lợi nhuận trên
tài sản (ROA) của 6 NH lớn nhất lên mức 1,9% Tỉ suất này năm 2008 là 1,5%
( vi)
. Tuy nhiên, trong năm 2010, do những khó khăn từ nền kinh tế, đã ảnh
hưởng đến khách hàng có quan hệ tiền gửi và tiền vay tại các NH, ảnh hưởng
đến tăng trưởng tài sản, 6 tháng đầu năm 2010, nhiều NH chưa đạt được tốc độ
như năm 2009.
Sự khác biệt lớn so với năm 2011 là dư nợ trên thị trường liên ngân hàng giảm
từ 20% xuống 14 % tại thời điểm cuối năm. Điều này có được là do số dư tiền
gửi của khách hàng có sự tăng trưởng lớn. Sự tăng trưởng số dư tiền gửi của
khách hàng đã làm giảm sự phụ thuộc vào thị trường liên ngân hàng như 1
nguồn điện cung cấp cho các hoạt động cho vay. Vấn đề thanh khoản của tiền
đồng mà các ngân hàng đã trải qua cuối năm 2011 đã được giải quyết nhờ vào
lãi suất huy động tiền đồng cao, đồng thời việc này cũng giúp kiềm chế lạm
phát mà tại thời điểm đó tỷ lệ lạm phát là 20%. Các nhà đầu tư không thể bỏ qua
lãi suất huy động tiền đồng lên đến 14% và đã chuyển đô la Mỹ qua tiền đồng
và điều này đã giải quyết vấn đề thanh khoản ngắn hạn . Đồng thời nó cũng
giúp ổn định tỷ giá VND/USD vì nhu cầu tiền đồng tăng lên làm giảm nhu cầu
về đô la Mỹ. Tuy nhiên các khoản tiền gửi của khách hàng ở Việt Nam thường
là nguồn đắt, ngược lại so với hầu hết các thị trường phát triển nơi tiền gửi
thường rẻ hơn nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng.
4.Cổ phiếu
Cổ phiếu đã khá phổ biến ở Việt Nam, mặc dù dù chưa cổ phần hóa hết được tất
cả các công ty đang hoạt động, và thị trường chứng khoán mới được thành lập
chưa lâu nhưng do được quan tâm đúng mực nên cổ phiếu đã được phổ biến
rộng rãi trong quần chúng, đặc biệt là những người trong giới thương nhân. Sinh
viên cũng tham gia chơi chứng khoán mặc dù với số vốn ít ỏi nên lợi nhuận
chưa nhiều, nhưng như vậy đã mang lại được rất nhiều điều bổ ích trong qúa
trình lập nghiệp. Các ngân hàng cũng lập ra các trang web để chúng ta có thể
chơi chứng khoán với số tiền ảo, với mục đích là giúp mọi người có thể tìm hiểu
trước khi bắt đầu tham gia thị trường.
a)
Những thành tựu đạt được:
Trong 10 năm phát triển, thị trường cổ phiếu Việt Nam đã có bước phát triển
khá vượt bậc, đóng góp đáng kể cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam thời gian qua. Nhìn chung, thị trường cổ phiếu trong gần 10 năm đã đạt
được một số kết quả sau:
Thị trường cổ phiếu năm 2000 chỉ có hai cổ phiếu niêm yết với giá trị giao
dịch 70 triệu đồng/phiên. Hoạt động phát hành huy động vốn qua thị
trường cổ phiếu thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006 trở lại đây. Trong năm
2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ phiếu.
Tuy nhiên, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ vào năm 2007, khi có gần
200 đợt phát hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký
với UBCKNN với tổng lượng vốn huy động lên đến gần 40.000 tỷ VND. Trong
năm 2008, do sự suy giảm của thị trường chứng khoán, tổng số vốn huy
động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng
khoán ra công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho
hoạt động phát hành qua thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ
phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát hành cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn
50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng. Những thành tích trên thị trường
thứ cấp đã tác động tích cực đến thị trường phát hành, nhiều công ty đại chúng,
đặc biệt là các công ty niêm yết đã tăng vốn lên từ hàng chục đến hàng trăm lần.
Riêng 2 năm 2008-2009 đã có 35.000 tỷ đồng giá trị cổ phiếu (tính theo mệnh
giá) được phát hành ra công chúng, góp phần làm lành mạnh cơ cấu tài chính
của doanh nghiệp. Ngoài ra, công tác cổ phần hoá DNNN đã được gắn
kết với việc huy động vốn từ công chúng đầu tư, góp phần thúc đẩy nhanh
việc sắp xếp khu vực DNNN theo tiến trình cải cách nền kinh tế của Chính phủ
và huy động vốn cho ngân sách nhà nước. Thực tế, việc gắn kết công tác
cổ phần hóa DNNN với công tác tạo hàng cho thị trường cổ phiếu là nhân tố
chủ đạo quyết định thành công trong việc tạo ra một nguồn hàng phong phú,
góp phần thúc đẩy tăng trưởng quy mô của thị trường. Hệ thống trung gian
của định chế thị trường cổ phiếu Việt Nam tăng mạnh về số lượng và chất
lượng; đến nay có 105 công ty chứng khoán và 46 công ty quản lý quỹ hoạt
động trên thị trường. Đồng thời hệ thống các nhà đầu tư trong và ngoài nước
phát triển mạnh; năm đầu khai trương thị trường có 3.000 tài khoản, đến nay đạt
926.000 tài khoản. Vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 7
tỷ USD.
b)
Những mặt hạn chế:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thị trường cổ phiếu vẫn tồn tại
một số hạn chế sau:
- Số lượng và chất lượng hạn chế của cổ phiếu niêm yết trên Sở giao
dịch Chứng khoán
Hạn chế lớn nhất của thị trường là chưa có một lượng hàng hóa đủ lớn về
quy mô cũng như cơ cấu nếu so sánh 600 mã chứng khoán niêm yết và đăng
ký giao dịch với khoảng 4.000 công ty đại chúng. Sau 10 năm hoạt động, với
600 công ty được niêm yết vào thời điểm hiện tại, quy mô của thị trường cổ
phiếu ở Việt Nam còn nhỏ so với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Nhiều công ty
niêm yết hiện là các công ty quy mô nhỏ với số vốn khoảng vài chục tỷ đồng,
chưa đủ gây ra sức hút đối với các nhà đầu tư.
- Thiếu vắng sự tham gia tích cực của những nhà đầu tư tổ chức trên thị trường
Về phía cầu, nhiều nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường Việt Nam là cá
nhân và mang tính đầu cơ hơn là đầu tư, góp phần tạo tính bất ổn định của thị
trường. Điều này làm cho chính các doanh nghiệp ngần ngại khi quyết định
huy động vốn qua thị trường cổ phiếu. Những nhà đầu tư tổ chức Việt Nam
cũng như nước ngoài chưa tham gia nhiều vào mua cổ phiếu của các công ty
niêm yết, một phần là do tính kém hấp dẫn của các cổ phiếu trên thị trường,
nhưng cũng một phần do những khó khăn, phức tạp liên quan đến khuôn khổ
pháp lý. Những khó khăn đó là khung pháp lý về bảo vệ quyền lợi cổ đông
thiểu số chưa đầy đủ, thiếu các chuẩn mực về công khai minh bạch thông tin,
các quy định chưa rõ ràng về chế độ thuế đối với nhà đầu tư, quỹ đầu tư nước
ngoài, các hạn chế về hạn mức đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, v.v.
- Hoạt động của mua bán cổ phiếu trên thị trường phi chính thức lớn
hơn nhiều lần so với thị trường chính thức và không được kiểm soát
thích đáng.
Việc bán cổ phiếu cho công chúng ở bên ngoài thị trường giao dịch
chứng khoán (thị trường phi tập trung OTC) diễn ra khá sôi động, nhưng hiện
chưa có quy định pháp luật nào kiểm soát hoạt động này. Theo ước tính, số
lượng doanh nghiệp huy động vốn cổ đông từ công chúng trên thị
trường
không chính thức này gấp khoảng 30 lần số doanh nghiệp niêm yết
chính thức. 2 trong số khoảng 1.000 DNNN đã được cổ phần hóa, chỉ có chưa
tới 3% đã niêm yết, như vậy có thể cho rằng một số lượng lớn cổ phiếu của các
doanh nghiệp này đang được mua bán trên thị trường không chính thức. Ở các
nền kinh tế phát triển, thị trường OTC thường cũng có quy mô lớn hơn gấp
nhiều lần thị trường tập trung, song thị trường này được kiểm soát bởi các luật
lệ khá chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Các luật lệ này vẫn
chưa được thiết lập ở Việt Nam. Lo lắng chung từ phía quản lý nhà nước cũng
như giới doanh nghiệp là thị trường phi chính thức không được kiểm soát này
có nguy cơ sụp đổ cao và có thể gián tiếp làm tổn hại cho thị trường
chính thức mới manh nha phát triển.
-Quy mô nhỏ và mức độ công khai thông tin thấp của các doanh nghiệp
Việt Nam
Các công ty tư nhân của Việt Nam mới phát triển trong vòng hơn một
thập kỷ qua, đặc biệt là từ năm 2000. Vì vậy, hầu hết các công ty tư nhân đều
ở một quy mô nhỏ hoặc rất nhỏ và thường được quản lý theo kiểu gia đình.
Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp tư nhân Việt Nam thường tìm cách duy trì chế
độ nhiều sổ sách và không công khai thông tin. Ví dụ, số doanh nghiệp báo
cáo tài chính theo quy định của Luật Doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng
15-20%. Nguyên nhân của tình hình này không chỉ do ý định chủ quan,
thói quen của doanh nghiệp mà còn do sự thiếu vắng khung pháp lý và các
chuẩn mực về công khai thông tin, kiểm toán, kế toán... của Việt Nam. Các vấn
đề này tiếp tục là trở ngại đối với nhà đầu tư và không khuyến khích được hoạt
động huy động vốn cổ đông.
5.
Các công cụ tài chính khác:
Ngoài một số công cụ tài chính kể trên, hiện nay một số ngành đã phát hành trái
phiếu dài hạn trong nước và nước ngoài để thu hút vốn như ngành năng lượng
phát hành trái phiếu đường dây 500kv, tổng công ty bưu chính viễn thông phát
hành trái phiếu xây dựng hệ thống bưu điện …