TÀO THÁO – Thái Quốc Mưu
Tào Tháo , tự Mạnh Đức , tên tục A Man
kẻ gian hùng, phản nghịch.
Trong trận địa, Tào Tháo điều binh khiển tướng khiến kẻ địch phải kiêng dè, run
sợ. Trong văn học ông là người xuất chúng. Ông chính là người văn võ vẹn toàn.
***
La Quán Trung tự Bản, tên chữ là Quán Trung.Ông sinh vào cuối đời Nguyên, mất
vào đầu đời Minh.
Tào Tháo trở thành kẻ vô liêm sỉ, phản nghịch, gian hùng, nham hiểm,… Do ảnh
hưởng của bộ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nên dân gian, coi Tháo như là một
tay gian hùng.
Đánh giá về tài năng chính trị của Tào Tháo, nhà nghiên cứu Tào Hồng Toại viết:
“Tào Tháo là nhà chính trị kiệt xuất thời phong kiến, xứng đáng được gọi bằng hai
chữ anh hùng, về tính cách nhiều mặt thể hiện ra bằng sự tàn nhẫn thiếu tính nhân
ái. Bởi vậy, người đời cho đó chính là sự bổ sung hiệu quả cho tính gian hùng của
ông.”
“Tào Tháo hùng tài đại lược, dũng cảm mưu trí hơn người nhưng cũng là người đa
nghi, nham hiểm và tàn nhẫn…
Làm chánh trị mà không đa mưu túc kế, không lừa lọc đối phương, không giết
người khi cần phải giết, thì chẳng khác nào đưa dây thòng lọng cho kẻ khác tròng
vào cổ mình lôi đi.
Việc Tào Tháo giết Dương Tu, chỉ vì Dương Tu ỷ tài cao, biết rộng,… nhưng tự
cao, tự đại, hợm mình, kiêu ngạo,…
Ở chốn quan trường Tào Tháo với Dương Bưu 楊楊 141-225, là đại thần cuối thời
Đông Hán có nhiều bất đồng, nhưng ông vẫn tin dùng con trai của Dương Bưu là
Dương Tu. Tào Tháo cho Dương Tu hầu cận trong phủ, thường xuyên cho ở bên kể
cả khi ở trong kinh thành cũng như xuất quân. Như vậy, Tào Tháo đối đãi với
Dương Tu đúng theo câu nói nổi tiếng của ông “Dùng người thì phải tin, đã
không tin thì không dùng”.
Dương Tu là người có đủ tài trí, phục vụ dưới trướng Tào Tháo. Bản chất kiêu
ngạo, cậy tài văn chương, chữ nghĩa nên về sau chuốc vạ vào thân.
Một lần Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết
lên cổng chữ "hoạt", Dương Tu trông thấy bèn tự ý sai thợ phá cái cổng để làm to
hơn. Tháo thấy vậy mới tức giận hỏi, thì Dương Tu mới nói là làm theo lệnh Tháo
rồi chỉ ra chữ mà Tào Tháo viết có thể hiểu ra là "hẹp quá" nên cho phá đi làm lại.
Lẽ ra, cho dù Dương Tu đoán được ý của Tào Tháo chê cổng hẹp, nhưng phải thỉnh
ý Tào Tháo trước khi phá cổng làm lại mới đúng. Dương Tu không làm điều sơ
đẳng ấy lại chuyên quyền tự ra lệnh phá cổng làm lại. Điều nầy minh chứng Dương
Tu là kẻ không biết tôn trọng Tào Tháo. (Tuy nhiên, phần trên đây chỉ do La Quán
Trung hư cấu để tâng bốc tài của Dương Tu mà thôi. Trong bộ chánh sử Tam Quốc
Chí của Trần Thọ không hề đề cập.)
Lần khác, Tào Tháo đem binh ra chặn Lưu Bị, nhưng bị đánh thua mấy trận đành
phải cắm trại cố thủ. Thời gian trôi qua, không thay đổi được tình hình chiến
trường đâm ra chán chường, có ý muốn rút nhưng lại ngại xấu hổ trước ba quân,
quần thần.
Một tối, tướng Hạ Hầu Đôn vào trướng Tào Tháo xin mật khẩu ban đêm cho doanh
trại, Tào Tháo ngần ngừ một lúc rồi nói: “Kê cân” (Gân gà). Hạ Hầu Đôn thấy
khẩu lệnh này lạ lùng quá nên thắc mắc bèn đem hỏi Dương Tu. Dương Tu cười
lớn rồi bảo Hạ Hầu Đôn chuẩn bị gói ghém đồ đạc, chỉ nội trong 3 ngày nữa Tào
Tháo sẽ hạ lệnh rút quân.
Đêm hôm ấy, Tào Tháo tuần hành thấy quân sĩ ở các doanh trại đều lo thu dọn
hành trang chuẩn bị rút quân. Tào Tháo hỏi vì sao? Tất cả đều đáp Dương Tu
truyền lệnh chuẩn bị hành trang để quay về. Tào Tháo tức giận, truyền dẫn Dương
Tu ra chém đầu về tội: “Phao tin đồn nhãm. Làm rối loạn lòng quân”.
Cách hành xử của Dương Tu đưa ông ta vào cái chết. Thử hỏi, trong cuộc điều binh
đánh giặc, có vị tướng lãnh nào có thể tha thứ cho hành vi ngu xuẩn Dương Tu?
Tào Tháo giết Dương Tu rất chính đáng. Còn Dương Tu bị giết là do bản tính tự
cao và thói hợm mình của ông ta.
Việc Tào Tháo giết Chu Bất Nghi, một thiếu nên 17 tuổi nhưng tài cao, học rộng,
… là một kỳ tài nhưng kiêu ngạo đã dám từ hôn không chịu làm rể Tào Tháo.
Khi Tào Phi biết được ý định của cha mình bèn hết lời can gián thì được Ngụy
Vương Tào Tháo thẳng thắn trả lời: “Kẻ này không phải người mà con có khả
năng kiểm soát”. Lúc ấy Tào Phi mới nhận ra sự đáng sợ của Chu Bất Nghi.
Khi một kẻ tài năng vượt bực nằm trong guồng máy của ta, nhưng đầu óc kẻ ấy ở
ngoài tầm tay ta, mà ta không giết trước thì cái họa sẽ đến sau.
Tào Tháo giết Dương Tu để giữ nghiêm quân lệnh. Giết Chu Bất Nghi để bảo vệ
cơ đồ cho con mình về sau. Giết Vương Hậu để ổn định lòng quân sĩ. Thử hỏi,
trong hoàn cảnh của Tào Tháo ai là người không làm như vậy?
Cách cư xử với thuộc cấp, Tào Tháo hơn Khổng Minh xa. Khổng Minh giết Trần
Thức và Mã Tốc chỉ vì thua trận. Nhưng không dám giết Quan công để mất Kinh
Châu, trong khi Kinh Châu một điểm chiến lược tối quan trọng của Lưu Bị. Chứng
tỏ rằng Khổng Minh đè bẹp kẻ cô thế, dưới quyền nhưng kiêng dè kẻ có thế lực
(Quan công dựa vào thế lực của Lưu Bị nên Khổng Minh không dám giết). Trong
khi việc thua trận của hai tướng Trần Thức và Mã Tốc không ảnh hưởng quan
trọng bằng Quan công để mất Kinh Châu.
Khi phá tan đại quân của Viên Thiệu ở Quan Độ, cách xử sự của Tào Tháo cho ta
thấy vô cùng khôn ngoan, sáng suốt.
Khi bại trận Viên Thiệu hoảng sợ thu tàn quân vội vã chạy qua sông Hoàng Hà. Tất
cả công văn giấy tờ đều bỏ lại hết. Quân Tào Tháo kéo đến thu được tất cả công
văn giấy tờ đó. Ông nghe thuộc hạ báo lên, trong những giấy tờ ấy có tên tuổi
thuộc cấp của mình làm tay sai cho Viên Thiệu. Những thuộc hạ thân tín của Tào
Tháo tìm ra từng tên từng người và đề nghị Tháo cho bắt hết để trị tội. Tào Tháo
không chịu, lại còn truyền lệnh đốt sạch những giấy tờ ấy. Mọi người ngạc nhiên,
không đợi họ hỏi Tào Tháo liền nói:
– “Khi ta yếu, Thiệu mạnh, chính bản thân ta còn chưa tự lo cho mình được,
huống chi người khác. Họ muốn tư thông với Thiệu chẳng qua là muốn tìm
đường sống mà thôi. Chẳng có tội gì mà ta phải xét xử!”
Cách xử sự khôn ngoan độ lượng của Tháo khiến cho người người kính phục.
Những kẻ manh tâm phản bội ông vô cùng hối hận và cảm kích. Từ đó, họ một dạ
trung thành với Tào Tháo.
Về tài quân sự của Tào Tháo, Mao Tôn Cương, nhà phê bình tác phẩm Tam Quốc
Diễn Nghĩa, dù có thành kiến không tốt với Tào Tháo cũng thừa nhận rằng: “Việc
binh của Tôn Quyền do Đại đô đốc quyết đoán. Việc quân của Lưu Huyền Đức do
quân sư quyết đoán. Chỉ có Tào Tháo là tự tay nắm quyền hành quân, một mình
quyết đoán. Tuy rằng có các mưu sĩ giúp mưu, nhưng phần quyết định cuối cùng
bao giờ cũng do Tháo. Tháo tỏ ra xuất sắc hơn hẳn bề tôi. Thế thì Lưu Bị, Tôn
Quyền không thể ví được với Tháo vậy. Cứ xem mỗi lần Tháo dự định mật kế, ban
đầu các tướng đều không hiểu, sau khi thành công, các tướng mới thán phục.”
Do không đủ lương thực cấp cho quân sĩ, Tào Tháo bèn mật sai Vương Hậu làm
cái đấu đong gạo nhỏ lại để đong ít số gạo hầu kéo dài thời gian… Nhưng, sau đó
Tháo đổ tội cho Vương Hậu tham ô, làm thất thoát lương thực rồi truyền lệnh chém
đầu để trấn an quân sĩ. Tào Tháo tự biết mình giết oan Vương Hậu, bèn chuộc lỗi
bằng cách trợ giúp gia đình Vương Hậu suốt đời.
Việc giết Vương Hậu, một quan chức coi việc quân lương, có phần bá đạo, nhưng
nếu không giết thì không thể lường trước hậu quả sẽ xảy ra.
Trong cái bá đạo của Tào Tháo, hiển hiện lòng lương thiện, nhân hậu của ông mà
ai cũng cảm thấy được. Vì nhu cầu, trong hoàn cảnh đó, buộc ta phải làm như vậy,
như vậy… Để bù đắp lại, Tháo đã thể hiện được tấm lòng của bậc biết hành xử
vương đạo.
Cái hay của Tào Tháo dám làm, dám nhận trách nhiệm, thấy sai dám sửa sai. Tào
Tháo hơn những kẻ khác cả cái đầu.
Năm 216, Tào Tháo lùi hẳn về Bắc củng cố thế lực rồi dâng biểu ép vua phải
phong mình là Ngụy Vương để có đủ uy quyền mà trấn áp quân Đông Ngô. Có
tướng hỏi sao ông "không lập quốc và xưng đế"? Tào Tháo chỉ nói:
– “Trải qua bao năm chiến chinh hy vọng giữ vững giang sơn bờ cõi Nhà Hán.
Nay được làm đến chức Ngụy Vương, đã mãn nguyện lắm rồi, nếu có thì chỉ
mong được như Chu Văn Vương ngày xưa thôi chứ nào ham gì chức vị đế
vương?”
Tào Tháo khôn ngoan trong nhận xét, không muốn mình mang tiếng phản nghịch
Nhà Hán. Nhưng dọn sẵn đường cho con cháu ông sau nầy sẽ chiếm lấy thiên hạ.
Tào Tháo có cặp mắt tinh tường và biết cách dùng người mà Lưu Bị, Tôn Quyền
không thể sánh ngang vai. Cho nên hào kiệt, anh tài trong thiên hạ đều hội tụ về
với Tháo không kể xiết.
Trong trận Uyển Thành, Tào Tháo mất người con cả Tào Ngang, người cháu là Tào
An Dân và tướng Điển Vi; nhưng tới khi nhớ tới trận này, ông khóc Điển Vi nhiều
hơn cả. Trong trận Quan Độ, khi Hứa Du bỏ Viên Thiệu sang hang Tào, ông không
kịp xỏ giày mà đi chân đất ra đón.
Khóc Điền Vi và đi chân đất đón tiếp Hứa Du cho ta hai cách nghĩ: Thủ thuật
chánh trị và do lòng chân thật của kẻ đầy bản lĩnh trên phương diện dụng người
của kẻ làm chánh trị.
Tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa bản đầy đủ từ đời nhà Minh trở đi (bản của Mao
Tôn Cương) có xu hướng ủng hộ Lưu Bị và nước Thục cũng như quá đề cao Gia
Cát Lượng mà quên đi vai trò chính của Tào Tháo trong việc ngăn chặn cục diện
đại loạn cuối thời Đông Hán.
Tào Tháo đã dồn nhiều tâm huyết vào đó, ông tuyển chọn nhân tài, chiêu đãi kẻ
hiền, thậm chí phải làm nhiều việc tàn bạo như “chèn ép vua Hiến Đế”, “giết thái y
Cát Bình”, “treo cổ Đổng Quý Phi đang mang long thai”, “đánh Phục Hoàng Hậu
đến chết”,…
Các hành vi dã man, ác độc đó chỉ xảy ra trong hành trình để đạt đến mục đích
thực hiện mưu đồ chính trị. Làm chính trị, không ai là kẻ lương thiện. Lâu nay dân
gian chỉ trích Tào Tháo, đó chẳng qua là do ảnh hưởng từ ngòi bút của La Quán
Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa mà ra.
Những người kính trọng ông như Kiều Huyền, Hứa Thiệu. Kiều Huyền vốn làm
quan đến Thái úy, là bạn vong niên với Tào Tháo đã nói: “Thiên hạ tất loạn,
không có tài cái thế thì không trị được. Người dẹp an được thiên hạ tất là anh
vậy!”. Nói rồi bèn nhắn nhủ giao vợ con cho Tháo để Tháo trông nom.
Hứa Thiệu, tên chữ là Tử Tương, người Nhữ Nam, vốn là danh sĩ, nhà bình luận
nổi tiếng đương thời. Ai được Hứa Thiệu bình luận thì tức khắc nổi tiếng. Tào
Tháo cũng đến xin Hứa Thiệu bình cho một câu, nhưng Hứa Thiệu không chịu dù
Tháo nài nỉ hết mức. Tào Tháo sau đó bèn nhân lúc Hứa Thiệu ra ngoài, dí dao ra
bức bách Hứa Thiệu. Hứa Thiệu đành phải đánh giá Tào Tháo là “năng thần
(quan giỏi) thời trị và gian hùng thời loạn”. Tào Tháo nghe xong cả cười rồi bỏ
đi.
Dịch Trung Thiên, người Trường Sa, Hồ Nam, năm 1981 tốt nghiệp đại học Vũ
Hán, sau khi đạt được học vị thạc sĩ văn học ở lại trường giảng dạy, hiện là giáo sư
Học viện Nhân văn Đại học Hạ Môn. Ông nhiều năm nghiên cứu văn học, mỹ học,
tâm lý học, nhân loại học, lịch sử học… trong bộ “Nhân vật nổi tiếng đời Hán”,
ông cho rằng Hứa Thiệu đã thấy được Tào Tháo là một nhân vật có hai mặt của
thời bình và thời loạn.
Còn muốn trở thành năng thần trị lý hay gian hùng trong lúc thiên hạ nhiễu loạn
cho thấy Tào Tháo là người biết chọn thời cơ mà xử sự công việc. Trong phương
diện nầy cho ta thấy Tào Tháo là người đầy bản lãnh biết áp dụng từng hoàn cảnh
mà thi thố tài năng, rất xứng hợp bản chất của các nhà chính trị.
Vả lại, còn phải xem vào thời đại sống và nguyện vọng chủ quan của Tào Tháo.
Tào Tháo sống vào thời loạn, phải sử dụng mưu lược thích hợp cho từng hoàn
cảnh, bị đánh giá là kẻ gian hùng đó lẽ tất nhiên.
Thời loạn lạc ai là kẻ chẳng lợi dụng thời cơ?
Tào Tháo - kinh nghiệm dùng người ngàn năm vẫn đúng
Dù không phải là hình tượng được các nhà Nho yêu thích, nhưng không ai có thể
phủ nhận được sự thật rằng Tào Tháo là một trong những nhà chính trị, quân sự
xuất sắc bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa.
Sinh thời, Tào Tháo dù đa nghi nhưng rất yêu người tài, khát người tài, tìm đủ mọi
cách để có được người tài.
Mặc dù đa nghi, nhưng Tào Tháo lại rất quý trọng người tài, không câu nệ xuất
thân của họ. (Ảnh minh họa).
Bởi vậy, dưới tay Tào Tháo là không ít những nhân tài trứ danh Tam Quốc không
kém Phượng Sồ, Ngọa Long.
Về võ tướng, ông nắm trong tay huynh đệ Hạ Hầu, Tào Nhân, Tào Hồng, Trương
Văn Viễn… Thậm chí, Tào Tháo còn nhiều lần tìm cách giữ lại tướng tài là Quan
Vân Trường nhưng không thành.
Về mưu sĩ, ông được Hí Chí Tài, Quách Gia, Tuân Úc phụng sự. Những người này
được đánh giá có năng lực không thua kém so với Gia Cát Khổng Minh và Phượng
Sồ Bàng Thống.
Bên cạnh đó, Tào Tháo còn được nhiều nhân tài đầu quân như Trình Trọng Đức,
Tuân Công Đạt, Giả Văn Hòa… với những sở trường riêng biệt.
"Gian thần" khét tiếng Tam Quốc từng không ít lần rơi nước mắt trước sự ra đi của
những nhân tài như Hí Chí Tài, Điển Vi. (Ảnh minh họa).
Hơn nữa, Tào Tháo từng thề cả đời không xưng đế, chỉ nguyện làm vương. Đây
được xem là chiến lược thông minh nhất trong cuộc đời của "gian hùng" khét tiếng
Tam Quốc này.
Nếu ông lên làm Hoàng đế, những trọng thần vẫn mang tư tưởng trung thành với
Hán triều như Tuân Úc, Tuân Du sẽ cật lực phản đối. Vì những hiền tài trong tay
mình, Tào Tháo chấp nhận "ngậm bồ hòn", cả đời làm vương.
Mặc dù mở rộng cửa thu dụng người tài, nhưng Tào Tháo vẫn có những nguyên tắc
riêng của mình trong việc dùng người.
Người được ông dùng nếu chỉ có tài thôi vẫn chưa đủ, mà phẩm chất đạo đức của
họ phải ở mức "chấp nhận được", phải tuyệt đối trung thành với quốc gia và chủ
nhân.
Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến ông quyết định giết chết một kẻ
"phản trắc" Lã Bố, mặc dù thời điểm ấy ông vẫn đang rất cần một dũng
tướng. Dương Tu cũng chết dưới tay Tào Tháo vì tài nhưng không biết "tuân
phục".
"Quân lệnh như sơn" hay coi trọng tướng tài?
Nhắc tới vấn đề quân lệnh, Khổng Minh nổi danh với yêu cầu "quân kỷ nghiêm
minh", "quân lệnh như sơn.
Bởi vậy, ông từng bắt Quan Vũ lập "quân lệnh trạng" (thua trận thì sẽ bị xử trảm,
thậm chí tru di), tại Nhai Đình từng trảm Mã Tốc do "không hiểu quân pháp, kẻ
dưới bất phục".
Thái độ nghiêm khắc, bình đẳng, coi tướng làm sai cũng xử như quân lính chính là
cách thiết lập quân kỷ nghiêm minh của Gia Cát Lượng.
Chủ trương thiết lập kỷ cương của Gia Cát Lượng và Tào Tháo cũng rất khác nhau.
(Ảnh minh họa).
Trong khi đó, khi có vị tướng ký quân lệnh trạng nhưng vẫn đại bại, Tào Tháo chỉ
khoát tay nói một câu khiến chư quân tâm phục khẩu phục: "Thắng bại là chuyện
thường tình của binh gia."
Tào Tháo đối xử với tướng lĩnh như vậy là bởi ông hiểu rõ đạo lý "ngàn quân dễ
kiếm, một tướng khó cầu". Sự coi trọng đối với tướng tài của ông khác với thái độ
có phần khắc nghiệt của Khổng Minh.
Coi trọng tướng tài hơn quân lệnh là thái độ đối với quân đội của Tào Tháo. (Ảnh
minh họa).
Còn nhớ năm xưa, khi dùng kế "thuyền cỏ mượn tên", Khổng Minh đã từng
nói: "Người làm tướng giỏi không chỉ biết bày binh bố trận, mà con phải nhìn
được thiên văn, am tường địa lý, phải biết kỳ môn, nắm rõ thực lực quân đội, biết
xem trận đồ..."
Nhưng Khổng Minh tuyệt nhiên lại không nhắc tới chuyện người làm tướng không
thể không biết dùng người!
Hàng thế kỷ qua đi, những tranh luận xung quanh cuộc so tài giữa Khổng Minh và
Tào Tháo vẫn chưa đi tới hồi kết.
"Tam Quốc chí" từng ghi nhận việc Khổng Minh hợp cùng Lưu Bị khiến quân Tào
phải nhiều lần thất bại. Nhưng "cặp bài trùng" của nhà Thục ấy vẫn chưa thực sự
lật đổ được "gian hùng" bậc nhất Tam Quốc.
Suy cho cùng, dù chưa ai chắc chắn giữa Tào Tháo và Gia Cát Lượng ai giỏi hơn
ai, nhưng đến cuối đời, hai nhân vật đình đám Tam Quốc ấy vẫn chưa thể hoàn
thành khát vọng thống nhất ba nước.
Thuật dùng người và nhìn người của Tào Tháo vẫn có giá trị cho đến ngày
nay
Chính nhờ sự trợ giúp của đông đảo những người có tài năng thực sự dưới quyền
mình, Tào Tháo mới có thể hoàn thành được sự nghiệp thống nhất miền Bắc,
Mặc dù không phải là một mẫu hình được các nhà Nho ưa chuộng, song từ trước
tới nay, không ai có thể phủ nhận rằng, Tào Tháo chính là một trong những nhà
chính trị, nhà quân sự vào loại xuất sắc bậc nhất trong lịch sử Trung Hoa, Tào Tháo
dựa vào ưu thế “thiên thời”, nắm trong tay thiên tử rồi từ đó mà ra lệnh cho các
chư hầu. Cũng có người cho rằng, Tháo thành công là nhờ mưu mẹo và tàn nhẫn,
sẵn sàng làm bất cứ việc gì để có thể đạt được mục đích của mình. Tuy nhiên, có
một nguyên nhân quan trọng giúp Tào Tháo có thể hô phong hoán vũ, xưng hùng
xưng bá một thời chính là việc Tào Tháo thực hiện một cách triệt để chính sách
trọng dụng người tài, tìm mọi cách để tập hợp, tiến cử thậm chí là mua chuộc
người tài về phục vụ cho mình.
Chính nhờ sự trợ giúp của đông đảo những người có tài năng thực sự dưới quyền
mình, Tào Tháo mới có thể hoàn thành được sự nghiệp thống nhất miền Bắc, đặt
nền móng cho sự ra đời của nhà Ngụy sau này. Vậy thuật dùng người và nhìn
người của Tào Tháo vẫn có giá trị cho đến ngày nay là gì?
1. Trọng dụng người tài nhưng phải có phẩm chất đạo đức.
Tào Tháo yêu người tài, khát người tài, tìm mọi cách để có được người tài, tuy
nhiên, không phải cứ người có tài là Tào Tháo thu dụng. Nguyên tắc trong việc
tuyển chọn người tài của Tào Tháo chính là phẩm chất đạo đức của người đó phải
ở mức “chấp nhận được”, ít nhất phải là kẻ trung thành tuyệt đối với quốc gia và
chủ nhân, không phản trắc hai lòng. Đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến Tào Tháo quyết định giết chết Lã Bố - chiến thần trong bộ tiểu thuyết kinh
điển "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung.
Lữ Bố tự là Phụng Nguyên, được coi là dũng tướng bất khả chiến bại trong thời
Tam Quốc, được coi là một trong 10 chiến thần vĩ đại nhất trong lịch sử Trung
Quốc, sánh ngang với Asin trong thần thoại Hy Lạp cổ đại. Tuy Lã Bố là một dũng
tướng nghìn năm khó gặp, được đánh giá còn cao hơn cả các danh tướng đương
thời như Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân nhưng Bố lại nổi tiếng phản trắc, ăn ở
hai lòng. Bố đã từng giết người cha nuôi của mình là Đinh Nguyên chỉ vì lòng
tham tiền bạc, danh vọng và ngựa xích thố mà Đổng Trác đem tặng để rồi sau đó
lại giết chết Đổng Trác vì cho rằng Trác có ý chiếm đoạt Điêu Thuyền, người mà
Lữ Bố đem lòng yêu say đắm. Chính vì lẽ đó, Tào Tháo là một người cực kỳ đa
nghi đương nhiên không thể giữ Lã Bố ở lại bên mình được. Bởi lẽ, nếu như chỉ vì
tiếc tài mà giữ Lã Bố thì rất có thể một ngày nào đó, Tào Tháo sẽ trở thành Đổng
Trác và Đinh Nguyên thứ hai. Thật tiếc cho cái gọi là "Nhân trung Lữ Bố, mã trung
Xích Thố".
Tào Tháo đã quyết định hạ lệnh giết chết Lã Bố. Hình phạt mà Tháo giành cho Lã
Bố cũng rất nặng nề, “trước treo cổ cho chết, sau đó mới chặt đầu”. Điều này cho
thấy, với những kẻ có tài mà phẩm chất tầm thường, sẵn sàng bán chủ cầu vinh như
Lã Bố, Tào Tháo cực kỳ căm ghét và sẵn sàng trừng trị một cách cực kỳ tàn nhẫn.
Việc Tào Tháo giết chết Lã Bố cũng giống như cách hành xử của Tháo với Hứa Du
sau này.
Hứa Du vốn là một trong những mưu thần nổi tiếng của Viên Thiệu nhưng do
những mâu thuẫn không đáng có giữa các mưu thần dưới trướng Viên Thiệu (cũng
xuất phát từ tư chất kém cỏi của Viên Thiệu) đã khiến cho Viên Thiệu nghi kị Hứa
Du và không còn tin dùng Du nữa.
Hứa Du giận quá bèn chạy sang phía Tào Tháo, đồng thời hiến kế cho Tào Tháo
tấn công vào kho lương của quân Viên ở Ô Sào. Nhờ kế sách của Hứa Du mà
quânThiệu đại bại và Tào Tháo đã giành chiến thắng trong trận chiến Quan Độ nổi
tiếng. Tiếp đó, Tào Tháo đem quân đánh Ích Châu, Hứa Du là một người đã quá
am hiểu về đất Ích Châu lại hiến kế dùng nước Chương Hà nhấn chìm Ích Châu,
giúp Tào Tháo một lần nữa giành chiến thắng.
Hai lần hiến kế, hai lần quân Tào đều giành được chiến thắng vang dội. Chính vì
vậy, Hứa Du vô cùng ngạo mạn, tự cho mình là người có công rất lớn trong việc
giúp Tào Tháo xây dựng đại nghiệp. Vốn là chỗ bạn bè với Tào Tháo từ thuở nhỏ,
nên mỗi khi gặp Tháo, để thể hiện vị trí của mình, Hứa Du lại lôi tên tục của Tháo
ra gọi. Thêm vào đó, họ Hứa lại luôn tìm mọi cơ hội để nhắc lại sự giúp đỡ của
mình với Tào Tháo.
Lúc bấy giờ, Tào Tháo đã nắm trong tay thiên tử, dưới một người mà trên vạn
người, nghe những câu nói ngạo mạn của Hứa Du thì bực mình vô cùng. Tuy
nhiên, nghĩ rằng, Hứa Du là kẻ có công nên Tào Tháo chỉ cười trừ cho qua. Tuy
nhiên, những thuộc hạ của Tào Tháo thì vô cùng căm tức thái độ của Hứa Du.
Hứa Du không hề biết điều này, vẫn cứ ngạo mạn ba hoa. Cho tới một lần, trong
lúc đang khoe khoang chiến tích của mình, tỏ ý khinh thường những viên võ tướng
của Tào Tháo là bọn thất phu, Hứa Du đã bị "Hổ tướng" Hứa Chử của Tào Tháo
một đao chém chết.
Trên thực tế, nhiều người cho rằng, thực chất, Tào Tháo không phải không muốn
giết Hứa Du. Tuy nhiên, do Hứa Du là chỗ bạn bè cũ, lại từng nhiều lần lập công
lớn, nếu như vì vài câu nói của Hứa Du mà giết ông ta, Tào Tháo sẽ mang tiếng là
đố kỵ người hiền tài. Vì thế, thay vì trực tiếp ra tay, Tào Tháo đã bí mật sai Hứa
Chử giết chết Hứa Du. Bởi lẽ, Hứa Chử là một võ tướng cực kỳ trung thành với
chủ, một khi Tào Tháo không ra lệnh, Hứa Chử sẽ không bao giờ dám tự ý ra tay
với một người bạn cũ của chúa công, lại từng lập nhiều công trạng như Hứa Du.
Có thể nói, với Tào Tháo, Hứa Du là một kẻ có tài nhưng lại kém về phẩm chất, do
vậy, dù tiếc tài năng của Hứa Du song Tào Tháo vẫn giết chết Du giống như đã giết
chết “chiến thần bất khả chiến bại” Lã Bố.
Thế mới thấy câu nói "Có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà
không có tài thì làm việc gì cũng khó" của Bác Hồ thật đúng trong mọi trường hợp.
2. Chỉ dùng người tài, không câu nệ xuất thân, không ngại phẩm hạnh không
tốt.
Lại bàn thêm về cách dùng người của Tào Tháo. Tháo tuy là dòng dõi sĩ tộc triều
đình nhưng lại có đầu óc tiến bộ. Cách dùng người của Tào Tháo là chỉ dùng
người tài, không câu nệ xuất thân, không ngại phẩm hạnh không tốt. Cách dùng
người của Tháo rõ ràng là đả phá mạnh mẽ cách dùng người Đức Trị và Lễ Trị của
triều đình nhà Hán. Cuộc đối đầu của Tào Tháo với Đổng Trác và Viên Thiệu là đại
biểu cho hai thế lực dân thường và giới sĩ tộc lúc đó. (Đổng Trác từng là thứ sử
Tây Lương, còn Viên Thiệu nhà 3 đời làm đến Tam Công). Chiến thắng của Tào A
Man trước Viên Thiệu là chiến thắng của tư tưởng dùng người có tài với tư tưởng
chỉ dùng thân thích và người sĩ tộc. (Tuy nhiên, TàoTháo chả phải là dùng người
tài tuyệt đối mà cũng thiên vị thân thích như trường hợp của anh em nhà Hạ Hầu
Đôn, Hạ Hầu Uyên và anh em Tào Nhân - Tào Hồng - Tào Hưu - Tào Chân). Cái
hay của Tháo so với Thiệu là Tháo cũng dùng người thân thích nhưng đã dùng thì
tin tưởng. Nó phù hợp với câu "Đã dùng thì phải tin, nếu không tin thì đừng
dùng" của Tào Tháo. Ai nói Tào Tháo đa nghi thì đa nghi cái khác chứ trong cách
dùng người, mua chuộc lòng người và tin tưởng khi dùng vốn tuyệt đối. Nhờ đó
mà Tào Tháo không những bình định Trung Nguyên mà còn thu hút hàng loạt danh
tướng cũng như mưu sĩ hàng đầu Trung Nguyên về dưới trướng như Từ Hoảng,
Trương Liêu, Vu Cấm, Hứa Chử, Trình Dục, Quách Gia, Tuân Du, Tuân Úc, Lưu
Hoa,Giả Hủ...
Điều đó nói lên rằng: chẳng có sự lựa chọn nào thật sự toàn mỹ trong cách dùng
người, từ ưu ái thân tộc tới "tự do, bình đẳng, bác ái". Mầm loạn lúc nào cũng tiềm
ẩn và sẵn sàng bộc phát, nên sự khéo léo trong dung hoà và chế ngự những mối
nguy ấy mới là quan trọng. Tào Tháo, với quyền thuật của mình, có thể xem là đã
đạt
đến
được
cảnh
giới
ấy.
Hàng tướng dưới trướng Tháo rất nhiều, mỗi người một bụng, nhưng nếu không có
những người như Đôn, Uyên, Nhân, Hồng, Hưu, Chân…nắm những chức vị quan
trọng nhất, giữ những địa phương căn bản nhất, thì Tào Tháo có muốn làm ra vẻ
rộng bụng đãi người cũng không đơn giản chút nào.
3. Tài nhưng mà phải tuân phục, nghe lời.
Dương Tu tự là Đức Tổ, phục vụ dưới trướng Tào Tháo. Ông là người có tài, nhiều
lần khiến Tào Tháo ngậm bồ hòn làm ngọt bằng những xử lý tình huống rất thông
minh của mình. Không rõ là vì cái tôi của mình hay vì không ưa Tào Tháo mà
Dương Tu thường hay tạo ác cảm với Tào Tháo bằng những việc nhỏ như vậy (như
kiểu Trạng Quỳnh lỡm Chúa Trịnh). Tuy nhiên, ý kiến cho rằng Dương Tu kiêu
ngạo, cậy tài văn chương, chữ nghĩa nên về sau chuốc vạ vào thân là hợp lý hơn,
bởi
vì
những
lý
do
sau:
Tào Tháo sau khi đi thăm vườn cảnh của phủ mới được xây, lấy bút viết lên cổng
chữ "hoạt",Dương Tu trông thấy bèn sai thợ phá cái cổng để làm to hơn. Tháo thấy
vậy mới tức giận hỏi thì Dương Tu mới nói là làm theo lệnh Tháo rồi chỉ ra chữ mà
Tào Tháo viết có thể hiểu ra là "hẹp quá" nên cho phá đi làm lại. Tào Tháo hài lòng
nhưng lại rất không vui vì bị Dương Tu đọc được suy nghĩ của mình.
Tương tự, có lần Tào Tháo được tặng một hộp bánh, ăn thử một miếng rồi đề chữ
"ngon" lên nắp hộp. Dương Tu nhìn thấy đem cho gia nhân ăn hết đến khi Tào
Tháo về tức giận hỏi thì giải thích theo lối chiết tự chữ Hán rằng chính chữ "ngon"
Tào Tháo viết đó có thể hiểu là "mỗi người một miếng".
Thay đổi quan điểm từ cách dùng tài năng đễn chỗ phải trừ Dương Tu của Tào
Tháo đã dẫn đến cái chết cho Dương Tu khi lần thứ 3 luận ra tâm can Tào Tháo.
Lần đó, Tào Tháo đem binh ra chặn Lưu Bị nhưng đánh thua mấy trận đành phải
cắm trại cố thủ. Thời gian trôi qua, không thay đổi được tình hình chiến trường
đâm ra chán chường, có ý muốn rút nhưng lại ngại xấu hổ trước ba quân, quần
thần. Buổi tối, tướng Hạ Hầu Đôn vào trướng xin khẩu lệnh ban đêm cho doanh
trại, Tào Tháo ngần ngừ một lúc rồi nói:"Kê cân" (Gân gà). Hạ Hầu Đôn thấy khẩu
lệnh này lạ lùng quá bèn thắc mắc đem hỏi Dương Tu. Dương Tu cười lớn rồi bảo
Hạ Hầu Đôn chuẩn bị gói ghém đồ đạc,kẻo nội trong 3 ngày nữa Tào Tháo sẽ hạ
lệnh rút quân. Dương Tu giải thích rằng khẩu lệnh "Gân gà" nói lên tâm trạng của
Tào Tháo, vừa muốn rút quân, vừa ngại mang tiếng giông như gân gà, ăn thì không
có vị, bỏ đi thì thấy tiếc. Tào Tháo nghe tin, tức giận (vì tim đen của mình bị
Dương Tu moi ra cho mọi người biết) nên lấy cớ là Dương Tu phao tin làm loạn
lòng
quân,
đem
ra
chém
đầu.
Qua đây mới thấy cách dùng người của Tào Tháo vẫn là "tài nhưng mà phải tuân
phục, nghe lời", Dương Tu cùng với Tuân Úc là 2 người tạo dựng sự nghiệp của
mình khi phục vụ cho Tào Tháo nhưng vẫn luôn phản đối gay gắt khi Tào Tháo có
ý định phế Hán, tiếm ngôi (điều khiến Tào Tháo rất thất vọng vì cho thấy người tài
không phục mình)
4. Không bao giờ được để người tài giỏi lọt vào tay kẻ khác.
Đấy chính là việc Tào Tháo luôn tìm đủ mọi cách để trùy tìm tung tích của Tư Mã
Ý để rồi kiểm soát, nắm Ý trong lòng bàn tay. Tư Mã Ý là nhà chính trị, nhà quân
sự kiệt xuất phục vụ nước Tào Ngụy thời kỳ Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Tư Mã Ý là người có công lớn bảo vệ được Tào Ngụy trước các cuộc Bắc phạt của
Gia Cát Lượng.
Tài năng quân sự của Tư Mã Ý so ra thì kém xa Tào Tháo và Khổng Minh, nhưng
Tư Mã Ý lại là người vô địch về quân sự và chính trị khi cả Tào Tháo lẫn Khổng
Minh không còn nữa.
Vì biết được tài năng của Ý mà Tháo đã tìm đủ mọi cách để kiểm soát Tư Mã
Ý, không cho Ý thuộc về tay của Lưu Bị, Tôn Quyền để tránh những tại họa sau
này. Nhưng Tháo lại không thể ngờ rằng, người chiếm mất cơ nghiệp trăm năm của
nhà họ Tào không phải là Tôn - Lưu mà lại chính là Tư Mã Ý.
Tư Mã Ý có một đức tính chính trị rất tốt: lòng nhẫn nại và cơ mật. Sở dĩ Ý dựa
được vào thế, phần lớn cũng là nhờ tính nhẫn nại biết nhờ thời cơ. Tư Mã Ý rất sợ
tài lược cùng tính nghi ngờ của Tào Tháo, nên suốt thời gian Tháo còn sống, Ý
không tỏ lộ tham vọng của mình bao giờ. Tháo thường bảo mọi người thân cận, Ý
có tướng “lang cố” nghĩa là quày cổ nhìn đằng sau mà thân thể không động, giống
như con lang. Về sau Tháo nói rõ hẳn ý nghĩ về Ý cho Tào Phi nghe: “Ý chẳng
phải
là
nhân
thần,
tất
nhòm
ngó
nhà
ta
đấy.”
Bị nghi ngại như thế nhưng nhờ biết ẩn nhẫn nên Tư Mã Ý vượt được hết cả, khiến
cho Tào Phi từ chỗ không đề phòng đến chỗ trọng dụng Ý. Tóm lại, sự thành công
của Tư mã Ý có hai yếu tố: thời thế và nhẫn nại lực. Nhờ ở nhẫn nại lực, Tư Mã Ý
đã tàng trữ được nguyên khí, trí lực, không bị kiệt quệ như Gia Cát Lượng. Ý kém
Lượng về đủ mọi mặt nhưng hơn Lượng ở hai chữ ẩn nhẫn. Thế nên mới có
chuyện Khổng Minh, Khương Bá Ước xuất binh năm sáu lần hao người tốn của,
hai chục năm mà không lật đổ được nhà Ngụy. Tư Mã Ý phí chẳng bao hơi sức, chỉ
một buổi cũng đã cướp toàn bộ cơ nghiệp họ Tào trong tay.
5. Mua chuộc nhân tài bằng mọi cách cốt để về bên mình.
Đó chính câu chuyện Tào Tháo đã làm đủ mọi cách để mua chuộc lấy lòng Quan
Công nhằm muốn Vân Trường rời bỏ Lưu Bị về dưới trướng của Tháo. Từ chuyện
khoản đãi Quan Công ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn; lại đưa mười
người con gái đẹp đến phủ để hầu hạ; vàng bạc, châu báu ban thưởng biết bao
nhiêu không kể xiết đến việc phong cho Quan Công tước Hán Thọ Đình Hầu rồi
cuối cùng là ban thưởng cả ngựa Xích Thố nhưng tất cả đều không làm cho Quan
Vân Trường mảy may động lòng để rồi khi nghe tin Lưu Bị đang phải nương mình
nơi Viên Thiệu, Quan Công đã không quản ngại tìm đến chỗ Lưu Bị, để lại hết tất
cả danh vị, phú quý cho Tào Tháo. Đó là một trong những hồi gây ấn tượng mạnh
mẽ nhất trong tiểu thuyết "Tam quốc diễn nghĩa" và cũng chính Tháo đã thừa nhận
việc không thể nào thu phục được Quan Công là một trong những thất bại lớn nhất
trong cuộc đời của nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất này.
Tâm lý yêu mến Lưu Bị và ghét sợ Tào Tháo gây ra bởi hai nguyên nhân:
a) Quan niệm chính trị của người Đông Phương căn bản là sùng bái nhân nghĩa
đạo đức, triệt để bài bác quyền thuật cơ mưu.
b) Chịu ảnh hưởng của bọn học phiệt có tư tưởng chính thống và đạo thống.
Như vậy thì bộ Tam quốc chí diễn nghĩa tuy phương diện biên soạn chủ yếu là
công lao của La Quán Trung, nhưng sự thực bộ tiểu thuyết này đã có một quá trình
sáng tác của nhiều người. Ở Tam quốc chí diễn nghĩa ta còn thấy nhà văn La Quán
Trung sử dụng đến mức tuyệt diệu nghệ thuật văn học để làm nổi bật hai bộ mặt
thiện, ác tương phản của Tào và Lưu, cùng khơi sâu tâm lý yêu Bị ghét Tháo vẫn
sẵn có từ trước.
Điểm này La Quán Trung có đáng trách hay không? Trả lời, bộ biên tập của nhà
xuất bản Trung Quốc viết:
- “Tam quốc chí diễn nghĩa, khác hẳn với những sách viết về khoa học xã hội.
Nhiệm vụ của nó không phải là trình bày bình luận hoặc phân tích một cách khách
quan trên một số vấn đề lý trí, mà là dùng nghệ thuật sáng tạo để làm cảm động
người đọc, trực tiếp đánh vào tình cảm người đọc".
Đối với La Quán Trung thì tiểu thuyết viết Tào Tháo không phải là tạo ra nhân vật
lịch sử Tào Tháo nguyên hình như cũ, mà là mượn nhân vật lịch sử để sáng tạo ra
hình tượng nhân vật và tính cách điển hình rất phong phú phức tạp. Nói một cách
khác, trong truyện viết Tào Tháo không phải chỉ là viết Tào Tháo thực trong lịch sử
mà là viết ra rất nhiều Tào Tháo trong lịch sử. Chủ yếu của tiểu thuyết là sáng tạo
ra một nhân vật điển hình để vạch rõ thói hung tàn nham hiểm của bọn thống trị
phong kiến, để cho nhân dân quần chúng nhận thức được một cách cụ thể. Tức là
đem tất cả những hình tượng tàn ác, bản chất xấu xa bỉ ổi của thống trị phong kiến
tập trung lại, khái quát lên, sáng tạo ra cái nhân vật phản diện Tào Tháo. Phản ảnh
như vậy so với cách trực tiếp bộc lộ càng sâu sắc hơn, so sánh với trực tiếp tố cáo,
tư tưởng tính càng mạnh mẽ hơn, đó là một sự thống nhất hoàn chỉnh giữa tư tưởng
và nghệ thuật tính rất cao vậy.
Về phần chúng ta bình luận về Tào Tháo, thì chúng ta bàn luận trên cơ sở nào?
Chúng ta sẽ trình bày, phân tích Tào Tháo trên một số vấn đề lý trí.
Do đó, việc cần thiết hàng đầu là một thái độ tuyệt đối khách quan, nghĩa là hãy
tước bỏ đúng mức tâm lý yêu ghét bị tuyên nhiễm bởi Tam quốc chí diễn nghĩa.
Chính thống và đạo thống
Chính thống và đạo thống là bản chất chính trị và tư tưởng học thuật đạo đức của
thời đại phong kiến.
- Chính thống là uy quyền do một tập đoàn chính trị muốn kéo thành xâu, thành
chuỗi quyền thống trị của mình tạo ra. Quyền ấy kế tiếp theo nguyên tắc cha truyền
con nối.
- Đạo thống là một thứ tư tưởng độc tôn, học thuật độc tôn. Khi một hệ thống tư
tưởng nào đã bám được thế lực chính trị, nắm quyền thống trị, hoặc từ hệ thống tư
tưởng thông qua đấu tranh mà nắm được chính quyền thì tư tưởng độc tôn, học
thuật độc tôn sẽ chỉ chuyên dạy, chuyên khuyến dụ mọi người ủng hộ chính quyền
chính thống.
Thời đại phong kiến, kẻ thống trị muốn củng cố địa vị của mình, chủ yếu thường
dùng đến chính sách ngu dân vô cùng thâm độc. Chính sách ngu dân tuy biểu hiện
ra bằng nhiều phương thức khác nhau, nhưng tóm lại chỉ là sự sử dụng, khai thác
triệt để khả năng của đạo thống, khiến cho quần chúng rộng lớn không có dịp tiếp
thu bất cứ một hiểu biết nào khác ngoài những điều mà bọn thống trị cho phép.
Tâm lý sùng thượng đạo đức, bài bác quyền thuật cơ mưu trong chính trị là tốt, vì
nó mang tính chất tươi đẹp của tinh thần nhân văn. Nhưng nếu tinh thần nhân văn
ấy bị lý luận đạo thống lợi dụng thì hóa dở.
Cho nên, muốn tước bỏ được mức tâm lý yêu ghét Lưu Tào, chúng ta không thể
không chống cái nền móng của tâm lý ấy là những tư tưởng chính thống, đạo thống
của bọn học phiệt tay sai chính quyền phong kiến.
Tào Tháo là con người thế nào?
Các nhà văn học Trung Quốc thường phân tích về thân phận Tôn Quyền là con nhà
quý tộc, Lưu Bị là người kẻ chợ và Tào Tháo là dòng dõi môn phiệt. Sở dĩ Tào
Tháo ở trong hàng ngũ môn phiệt bởi vì cha Tào Tháo là Tào Tung làm quan đến
chức Thái Úy và Tháo nhờ thế lực của cha nên hai mươi tuổi đã được cử làm Hiếu
Liêm.
Hiếu Liêm là một chức quan nắm quyền cai trị ở cấp bực trung bình của chính
quyền địa phương. Chức Hiếu Liêm là sản phẩm của nền hành chính Hán Triều.
Đời Hán Vũ Đế đặt ra lệ bắt các trưởng quan địa phương mỗi năm phải chọn và đề
cử một người thanh liêm, hay một người con hiếu ra chấp chính.
Đặt ra chức này, Hán Vũ Đế muốn lấy Đức Hạnh dùng làm nền tảng cai trị. Ban
đầu do sự thi hành đúng nên Hiếu Liêm cũng gây thành phong khí tốt, dư luận hay.
Nhưng lần lần, Hiếu Liêm trở thành một thứ hàng độc quyền của các đại gia, mặt
khác nó làm cản bước tiến của trí thức, trở thành đầu mối của tranh chấp Bình dân
và Môn phiệt. Hiếu Liêm đã biến chất không còn như ý nguyện của Hán Vũ Đế
muốn dùng nó làm chiếc cầu cảm thông giữa quần chúng với chính quyền nữa.
Tào Tháo nhận chức Hiếu Liêm, tất nhiên cũng sẽ bị trí thức bình dân và quần
chúng nhìn bằng con mắt hằn học và cũng bị liệt vào hàng phe phái Môn phiệt.
Biết vậy, nên lúc tại chức Tào Tháo đã ra sức chống lại bọn cường hào, đả kích
chính sách hoạn quan. Do đó lúc sang nhận chức ở Tế Nam, bị bọn cường hào
cùng bè lũ tay sai hoạn quan oán hận, Tháo sợ gây nên tai họa lớn, bèn từ chức.
Lúc từ chức, Tào Tháo 30 tuổi, ông nói:
- “Cùng chức Hiếu Liêm với tôi có người 50 tuổi mà trông vẫn còn trẻ măng, tôi
còn những 20 năm nữa mới bằng họ, vậy tội gì mà không tìm cách ẩn cư đợi thời”.
Tào Tháo lui về quê hương là Tiêu huyện, dựng một căn nhà thoáng đãng để đọc
sách, giồng hoa, săn bắn. Thời gian này Tào Tháo đem hết tâm trí vào việc rèn
luyện khả năng chính trị, quân sự.
Xem thế đủ biết, tuy xuất thân môn phiệt nhưng nhờ nhãn tuyến chính trị sắc bén,
Tháo đã gột bỏ tâm chất môn phiệt để nhất định đứng vào hàng ngũ trí thức và
quần chúng tiến bộ.
Về quan hệ Nam Nữ, Tam quốc chí diễn nghĩa cho rằng Tháo là một người dâm
dục, bậy loạn bất cố đạo nghĩa. Tính chất đó được chứng minh bằng sự kiện Tháo
ngủ với người thím Trương Tú khiến Tú nổi giận làm phản, nhờ Điển Vi hy sinh
cứu Tháo và chết thay cho Tháo. Chuyện này chỉ là một câu chuyện gán ghép
gượng gạo không lấy chi làm thật nhằm mục đích làm tăng giá trị điển hình cho
một nhân vật tàn ác, gian hùng mà thôi.
Trong dân gian thì lưu truyền một sự tích tình ái của Tào Tháo trái hẳn với việc
Trương Tú. Đó là chuyện nàng Lai Oanh Nhi. Đầu đuôi như sau:
- “Đời Hậu Hán, những ca sĩ đất Lạc Dương nổi tiếng là đẹp là hay. Trong số ấy,
có nàng Lai Oanh Nhi vượt hẳn lên cả về tài lẫn sắc.
Tài sắc đã trội hơn người, tính nết nàng còn đặc biệt hơn nữa. Oanh Nhi rất kiêu
ngạo. Biết bao Vương Tôn Công Tử hoài công theo đuổi mà Lai Oanh Nhi chưa
từng để mắt đến người nào.
Tào Tháo rất tinh thông âm luật, lại là một nhà thơ tài tình, gặp giọng hát cùng
nhan sắc Oanh Nhi rất lấy làm xứng ý. Bấy giờ Lạc Dương đại loạn nên Lai Oanh
Nhi chịu nương nhờ bàn tay che chở của Tào Tháo, theo Tháo đi đánh Đông dẹp
Bắc độ nhật nơi doanh trại. Oanh Nhi thường ca hát những bài thi, bài từ của Tào
Tháo và các danh sĩ để Tào Tháo uống rượu hân thưởng. Đối với sinh hoạt lưu
động, nàng vốn không ưa nên Oanh Nhi lúc nào cũng buồn. Tháo tuy chịu tài năng
ưa nhan sắc nàng nhưng phần vì việc quân cơ bận bịu, phần vì quý sự nghiệp chính
trị hơn nên Tháo ít khi gần gũi. Lai Oanh Nhi lại càng cảm thấy cô quạnh. Chẳng
bao lâu, Oanh Nhi đem lòng yêu một chàng thị vệ, đêm đêm vẫn cùng nhau hò
hẹn. Quan niệm tình ái của Tào Tháo rất rộng rãi, vả lại ca kỹ trong doanh trại
nhiều nên mối tình giữa Lai Oanh Nhi với chàng thị vệ kia cũng gặp rất ít trở ngại.
Nhưng một chuyện bất ngờ xảy đến, chàng thị vệ được lệnh sai đi thám thính đồn
lương bên địch, chàng liền đến báo cho người yêu biết. Oanh Nhi thấy sứ mệnh có
vẻ nguy hiểm nên nhất định không chịu rời tay.
Tào Tháo trị quân rất nghiêm, dĩ nhiên theo quân pháp thì bỏ trốn nhiệm vụ trong
lúc tình thế nghiêm trọng, chàng thị vệ si tình bị phán quyết tử hình. Lai Oanh Nhi
hay tin gào khóc và bất chấp cả mọi nguy hiểm chạy đến bên Tháo xin tha tội cho
người yêu. Gặp Tào Tháo nàng cứ thực sự tâu bày mọi chuyện, khiến cho Tào
Tháo hết sức ngạc nhiên. Trầm ngâm hồi lâu, Tháo nghĩ ra một biện pháp, đề nghị
tha tội cho chàng thị vệ với điều kiện là Oanh Nhi phải chịu chết thay.
Không chút do dự, Oanh Nhi xin chịu, nàng còn yêu cầu một điều là hoãn ngày
chết cho nàng hai tháng để nàng có đủ thì giờ huấn luyện các ca kỹ khác tất cả tài
nghệ của mình để trả ơn Tháo.
Lời thỉnh cầu của Oanh Nhi cũng được chấp thuận. Nàng liền chọn bốn người xuất
sắc nhất, ngày đêm tập dượt và sau cùng trong số bốn người, Oanh Nhi đã tạo hẳn
ra một người khả dĩ thay thế cho mình hầu hạ Tào Tháo.
Làm xong nhiệm vụ, Oanh Nhi thản nhiên đến thụ tội.
Tào Tháo cảm thấy bâng khuâng vì không ngờ việc tình ái lại thâm sâu đến thế.
Tháo bèn cho gọi chàng thị vệ, nói lại mối tình nồng nhiệt của Oanh Nhi đối với y.
Tháo càng ngạc nhiên, khi thấy chính miệng tên thị vệ nói ra là y coi mối tình ấy
chẳng khác nào chuyện qua đường. Nghe xong, Tào Tháo căm giận muốn chém
phăng tên thị vệ cho rồi, nhưng nghĩ lại lời đã trót hứa với Oanh Nhi nên thôi.
Đồng thời Tào Tháo cùng tỏ ý không muốn bắt Oanh Nhi phải chết thay nữa. Sợ
Oanh Nhi biết mình bị xử tệ bạc còn đau khổ gấp bội, Tháo bèn sai đuổi tên thị vệ
về quê quán. Oanh Nhi biết, nàng quyết sống thác với tình, khẩn khoản xin Tháo
cho đi theo tình nhân. Cực chẳng đã Tháo đành phải chịu. Lúc tiễn đưa Oanh Nhi,
Tào Tháo sụt sùi khóc.
Ít ngày sau, Tháo nhận được tin Lai Oanh Nhi tự thắt cổ chết. Sự tích Lai Oanh
Nhi trong cuộc đời Tào Tháo cho chúng ta biết:
- a) Mặt sinh lý Tào Tháo rất tùy tiện và đã sửa soạn chu đáo để không đến nỗi
phải bậy bạ với người đàn bà nạ dòng trong họ nhà Trương Tú.
- b) Mặt tình ái, tình cảm của Tào Tháo đòi hỏi đến một mức phong nhã khá cao.
Vậy mụ gái xề nhà Trương Tú không thể nào quyến rũ nổi Tháo phải hy sinh uy tín
của Tháo đã tạo ra bằng bao nhiêu công phu, như thế đắt quá.
Gian thần thoán đoạt?
Hậu thế gán cho Tào Tháo hai chữ “gian tặc”. Lý do là Tào Tháo đã thoán đoạt
ngôi nhà Hán. Dùng danh từ gian tặc để chỉ Tào Tháo hoàn toàn là lý luận của bọn
chính thống đương thời và đời sau. Chống lại sự vu oan đó, chúng ta chưa cần viện
dẫn nhiều mặt khác mà có thể đứng ngay trên lập trường chính thống cũng đủ biện
bạch cho Tào Tháo.
Trước hết, suốt đời Tào Tháo nắm quyền thao túng quốc sự không hề có chuyện
phế lập. Thế lực họ Tào không ai chối cãi là đã lấn át cả vua nhưng không phải là
thoán đoạt, bởi vì:
a) Sau Hán Vũ Đế, Hoắc Quang làm đại thần phụ chính thì nội bộ chính quyền
nhà Hán đã phân hóa giữa chính phủ và Hoàng thất, đưa dẫn tới xung đột rồi.
b) Đời Tháo thì Hoàng thất nhà Hán đã mất khả năng và uy tín thống trị. Đương
nhiên, Tháo phải tận lực xử dụng quyền lực để ổn định quốc gia.
Với Tào Tháo, vấn đề thoán đoạt vô nghĩa và ông không coi việc ấy là tham vọng
hay mục đích của đời ông.
Dẹp xong ba mươi vạn quân Khăn vàng, đánh tan Viên Thiệu, bình Viên Thuật, đả
bại Lưu Biểu, Tháo nói:
- “Giả thử quốc gia mà không có tôi, thì còn biết bao kẻ xưng vương xưng đế.”
Suy ngẫm về lực lượng của mình, Tháo thường nói:
- “Mọi người thấy binh lực tôi mạnh, lại cho rằng tôi là người không tin thiên
mệnh nên ngờ tôi có ý lật nhà Hán. Nhưng tôi nghĩ trái hẳn, tôi há không biết rằng
Tấn văn Công xưa mạnh nhường ấy mà vẫn một lòng một dạ với nhà Chu, Chu
Vương chiếm hai phần ba thiên hạ mà vẫn phụng sự nhà Ân hay sao?”
Sách sử ghi chép rằng:
- Bình nhật, Tào Tháo thường hay kể chuyện tình cố quốc của Nhạc Nghị với
nước Yên, với vẻ mặt hết sức cung kính say sưa.
Tam quốc chí dựa vào quan điểm chính thống, diễn tả hành động thoán đoạt của
Tào Tháo trên mấy sự việc quan trọng như:
1) Vụ săn bắn ở Hứa Điền.
2) Ngôn ngữ trong bài hịch kể tội của Trần Lâm.
3) Vụ bức tử Đổng Phi.
Dưới đây chúng ta hãy bàn cãi từng sự việc một.
Như chúng ta đã được biết, kể từ sau đời Hán Vũ Đế, chính quyền đã có sự phân
tách giữa chính phủ và hoàng thất nhà Hán đã kém vế rồi, triều thần thuộc tập đoàn
thống trị phe chính phủ vẫn thường lấn áp quyền Hoàng đế, ngược lại Hoàng thất
luôn luôn tìm cách khôi phục quyền mình. Thậm chí để gây cánh, tin dùng cả bọn
hoạn quan để mong tạo thế lực. Đến loạn kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ, mới đầu
hoàng thất bị xâm phạm, sau cả chính phủ cũng bị khinh miệt. Do đó, đứng trước
tai ách chung, triều thần và hoàng thất tạm gác bỏ xung đột, liên kết với nhau, vì
sức không đủ nên phải cầu viện bên ngoài. Triều thần và vua chúa thỏa thuận mời
Tháo. Tháo được Triều thần chọn bởi hai lẽ:
1) Lực lượng Tào gần Kinh đô nhất.
2) Tào Tháo cũng dòng dõi môn phiệt, chung quyền lợi với bách quan trong triều.
Cả hoàng thất lẫn triều thần mơ hồ tưởng rằng lực lượng của Tháo là một lực
lượng của chức viên thuộc hạ. Họ lầm vô cùng, lầm vì trí lực của họ không đạt tới
mức Tháo. Tháo mạnh là vì ông biết gắn liền với lực lượng chính trị đang lên, chứ
Tháo đâu có mạnh là vì dòng dõi môn phiệt, cho nên, việc về dẹp giặc của Tào
Tháo đối tượng không chỉ riêng kiêu binh Lý Thôi Quách Dĩ; đối tượng còn khả
năng đứng mũi chịu sào trong cơn đại biến động nữa. Lúc Lý Thôi Quách Dĩ thua
chạy rồi triều thần mới ngã ngửa ra. Các quan muốn bảo vệ quyền lợi của mình
liền thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế, để làm lập trường đấu tranh với
Tào Tháo. Thổi phồng quyền thiêng liêng của hoàng đế rồi, triều thần liền phát
động tâm lý căm phẫn, thương xót vua bị Tào Tháo ức chế như Tháo đã cả gan tế
ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lời chúc mừng của Bách quan, khiến Quan
Vân Trường giận, mày tầm dựng ngược mắt phượng giương to, cầm đao thúc ngựa
định ra chém Tào Tháo.
Cuộc xung đột giữa triều thần với tập đoàn Tào Tháo lan rộng từ trung ương ra các
địa phương. Trịnh Thượng Thư gửi thư cho Viên Thiệu khuyên Thiệu cất quân
đánh Tào. Thiệu nghe và sai Trần Lâm thảo hịch đánh Tào. Lời hịch mang những
lời chủ yếu như sau:
- Thường nghe rằng Minh chúa nhân nguy để chế biến, Trung thần lo nạn để lập
công.
- Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền hống hách trong triều, một tay
tác oai, tác phúc.
- Tháo, nòi giống sót của Hoạn quan, gian xảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn,
vui mừng thấy sự tai vạ.
- Tháo vốn thân dê mà đội lốt hổ, nhưng lại thừa cơ mà bạo ác càn rỡ, tàn dân hại
người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng tài cán giỏi
giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không a xiểm ai, cũng bị nó hãm
hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó sĩ phu ai cũng tức tối.
- Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn
kỷ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng,
muốn giết ai thì giết, yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành, ghét ai thì
người ấy phải chết cả ba họ. Ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng
chê bai thì bị giết ngấm ngầm. vì thế trăm quan buộc miệng, đường xá đưa mắt
nhìn nhau.
- Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức là Tư Không và Tư Đồ,
nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét vu cho tội trạng, đánh
đập tàn nhẫn.
- Quan Nghi Lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế Vua
nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng. Tháo nhân thế mang lòng
ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn lấp đường nói năng của mọi người,
tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, mà không nói cho Vua biết.
Rõ ràng tinh thần bài hịch hoàn toàn đại biểu cho quyền lợi nhóm triều thần, còn
quyền lợi vua, quyền lợi dân thì chỉ là phụ, phần trang trí cho bản hiệu triệu thêm
chính nghĩa thôi.
Bên ngoài Viên Thiệu hiệu triệu đánh Tào, bên trong các triều thần tụ họp âm mưu
lật Tào Tháo. Vì tổ chức Tháo chặt chẽ quá, nên hoạt động của đám triều thần chỉ
thu hẹp vào việc giết Tháo. Sứ mệnh giết Tháo được giao phó cho danh y Cát Bình
giả đến chữa bệnh, rồi tìm cách đầu độc, chuyện tính không xong, Cát Bình bị giết,
bọn Vương tử Phục bị bắt cùng với cả nhà Đổng Thừa. Tháo sai đem ra chợ chém
tất.
Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi đem gươm vào cung để giết Đổng quý Phi. Quý
Phi là em gái của Đổng Thừa đã có mang 5 tháng. Hiến Đế xin cho Đổng Phi, nói:
Đổng Phi đã có mang 5 tháng xin thừa tướng thương cho. Tháo không nghe. Đổng
Phi khóc nói: Xin cho toàn vẹn thân thể mà chết, đừng để bộc lộ. Tháo sai đem tấm
lụa trắng đến trước mặt Đổng Phi. Đổng Phi cứ van khóc mãi, Tháo liền quát võ sĩ
lôi Đổng Phi ra thắt cổ ở cửa Cung.
Tam Quốc chí diễn nghĩa viết:
Đời sau có thơ than Đổng Phi rằng:
Ân ái đền xuân cũng uổng thôi
Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi
Đường đường Đế chủ sao không cứu
Tầm tã nhìn suông nước mắt trôi
Bọn chính thống dùng mọi cách bi thiết hóa để gợi tình cảm chống Tào trên vụ án
chính trị Đổng Phi. Thảm cảnh ngụy tạo ấy chỉ tốt cho văn nghệ chứ không thể
dùng làm căn cứ để phán xét công việc của một người có trách nhiệm với lịch sử.
Bọn chính thống vì tôn phụng quyền lợi một tộc họ nên lấy cá nhân mà đại biểu
cho đại cục. Đổng Phi dù có bị giết tàn nhẫn hơn thế nữa, lịch sử cũng không vì
vậy mà bớt những vụ tương tự.
Chính trị không phải là một công việc êm ái, nhẹ nhàng như ta nhàn nhã hái bông
hoa, vì chính trị vốn là mối mâu thuẫn xung đột ác liệt của xã hội. Làm chính trị là
đối phó với những gì cường bạo, tham lam xảo quyệt. Nhà chính trị cỡ lớn phải
biết ràng buộc vào sự an, nguy của thời thế, của đại cục. Giết Đổng Phi, Tào Tháo
nói: “Nếu ta thất bại thì Quốc gia sẽ bước vào cục diện cực nguy hiểm”.
Một nhà chính trị nếu có đủ thế lực, đủ uy tín để nói câu đó mà không thấy tự
ngượng, mà không bị người khác chối bỏ thì thiết tưởng thân phận cá nhân kiểu
Đổng Phi chẳng là nghĩa lý gì hết. Không bắt giết bọn Vương tử Phục, Đổng Thừa
và Đổng Phi để bọn này liên lạc được với Viên Thiệu làm loạn thì xã hội sẽ ra sao?
Bản thân Tháo sẽ ra sao?
Khi người ta, chẳng hiểu may hay là không may, phải sống vào lúc nhiễu nhương,
xã hội hỗn loạn mà trách nhiệm xây dựng, bình định lại rơi vào chính tay mình thì
đương nhiên không thể tránh khỏi tình trạng hành động tự do của kẻ này sẽ đe dọa
đời sống của kẻ khác và tàn bạo phải nẩy sinh ra.
Thời đại và xã hội mà Tào Tháo sinh trưởng
Trải qua một thời gian khá dài, toàn bộ văn hóa Trung Quốc lấy dân tộc làm trung
tâm, dựa thế lực của kinh tế và quân sự, đã phá tan những chướng ngại phong kiến,
để đi sang thời đại thống nhất Trung Quốc. Ban đầu là nhà Tần, sau đến Lưu Bang
giữ vai chính trên vũ đài hòa theo với các cuộc vận động của phần tử trí thức.
Thời kỳ trước Tam quốc và chính Tam quốc, công cuộc thống nhất chưa hoàn
thành cho nên nhiệm vụ thống nhất càng nặng thì toàn bộ xã hội Trung Quốc đã rơi
vào tình trạng cực rối loạn. Tuy nhiên, bánh xe lịch sử cũng không vì thế mà ngừng
hướng về thống nhất. Chỉ có khác một điểm là: Lẽ ra chính quyền Trung ương lãnh
đạo công cuộc thống nhất, nhưng vì Trung ương quá yếu nên việc thống nhất
chuyển sang tay các thế lực lớn ở địa phương thôn tính những thế lực nhỏ để thống
nhất từng mảnh trước, chờ đợi cuộc tranh chấp cuối cùng tiến tới thống nhất toàn
bộ.
Xã hội rối loạn của Tam Quốc có thể khái quát bằng mấy điểm sau đây:
a) Thối nát, băng hoại đến nỗi mất hết khả năng giải quyết mọi vấn đề khẩn cấp
của Quốc gia và bảo đảm những điều kiện sinh hoạt thường nhật của dân chúng.
b) Tâm lý oán ghét chế độ mỗi ngày mỗi tăng cao, quần chúng rộng lớn hầu như
tuyệt vọng, họ sẵn sàng hy sinh để thay đổi số phận.