Lời nói đầu
Trong nửa thế kỉ qua, cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đã có
một vị trí và ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của lịch sử
loài người. Nhân loại đang thực sự bước vào một nền văn minh mới mà
con người có thể phát triển hơn nữa sự sáng tạo trong lao động, không
ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và tiến lên làm chủ thiên
nhiên, làm chủ cuộc sống. Thế kỉ 21 thực sự đánh dấu sự phát triển như
vũ bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Những thành tựu kì diệu
của CM KH-KT đã làm thay đổi một cách cơ bản các nhân tố sản xuất
như công cụ và công nghệ, nguyên liệu, năng lượng, thông tin, vận
tải,... trong đó sự thay đổi về công cụ và công nghệ có ý nghĩa then
chốt.
Các nhà khoa học đã có những phát minh lớn về công cụ sản xuất,
sáng chế ra hàng loạt những máy móc mới có tính năng hết sức hiện
đại, trong đó có ý nghĩa to lớn nhất là sự ra đời của máy tính - đây thực
sự là một thành tựu vô cùng quan trọng và rực rỡ của nhân loại.
Ngày nay, máy tính đã không còn xa lạ với mỗi người. Máy tính đã
trở thành một công cụ không thể thiếu, giúp đỡ con người trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống: học tập, làm việc, kinh doanh, thiết kế,... đặc biệt là
sự liên hệ và giao lưu quốc tế nay đã trở nên rất dễ dàng.
Nhưng hầu như mỗi chúng ta thường chỉ chú ý đến cách sử dụng
các chương trình, phần mềm ứng dụng của máy vi tính mà không hề
hiểu biết hay quan tâm đến nguồn gốc, cấu tạo của nó – một yếu tố vô
cùng quan trọng trong việc bảo quản, giữ gìn và kéo dài thời gian sử
dụng của máy tính.
Đó cũng chính là lí do mà chúng tôi đã thu thập các nguồn thông
tin để tạo ra tập tài liệu này, tuy chưa thật đầy đủ, toàn diện về mọi vấn
đề nhưng nó cũng sẽ cung cấp cho các bạn những hiểu biết cơ bản về
nguồn gốc, cấu tạo của máy tính, từ đó sẽ biết cách xử lí một số lỗi của
màn hình.
Tập tài liệu gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về màn hình
Chương này sẽ trình bày một số khái niệm cơ bản giúp bạn hiểu được
cấu tạo của màn hình máy tính, phân loại các loại màn hình theo công
nghệ.
Chương 2: Các loại máy tính
Chương này sẽ đi sâu vào phần phân loại máy tính để giúp các bạn thấy
được ưu – nhược điểm của các loại màn hình, cách chọn mua và bảo
quản
Chương 3: Một số sự cố và cách khắc phục
2
Chương này giúp các bạn nhận biết một số sự cố thường gặp và cách
khắc phục các sự cố đó
Chương 4: Một số lời khuyên
Chúng tôi đã có nhiều cố gắng trong công việc nghiên cứu
tuy nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp, bổ sung của các bạn để cuốn sách này được
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
3
Chương I:
Khái niệm cơ bản về màn hình máy tính
Chương này giúp các bạn trả lời câu hỏi: “Màn hình là gì? Màn hình
quan trọng như thế nào?” và cung cấp những khái niệm cơ bản hết sức
quan trọng về màn hình. (ở đây ta ngầm hiểu, màn hình là màn hình vi
tính)
1. Màn hình là gì
Màn hình máy tính là thiết bị điện tử gắn liền với máy tính với mục
đích chính là hiện thị và giao tiếp giữa người sử dụng với máy tính.
Đối với các máy tính cá nhân (PC), màn hình máy tính là một bộ
phận tách rời. Đối với máy tính xách tay màn hình là một bộ phận gắn
chung không thể tách rời. Đặc biệt: màn hình có thể dùng chung (hoặc
không sử dụng) đối với một số hệ máy chủ.
2. Các thông số cơ bản của màn hình máy tính
2.1 Độ phân giải
Màn hình máy tính hiển thị ảnh theo từng điểm rời rạc rất nhỏ, liên
kết các điểm đó cho phép hiển thị các ảnh theo những gì ta nhìn thấy.
Độ phân giải của màn hình máy tính là một biểu thị số điểm ảnh hàng
4
ngang x số điểm ảnh hàng dọc ví dụ: 1024x768 có nghĩa là có 1024
điểm ảnh theo chiều ngang và 768 điểm ảnh theo chiều dọc.
Theo thiết kế, mỗi màn hình được thiết kế với một độ phân giải tối
đa nào đó. Đối với mành hình CRT, người sử dụng có thể thiết lập làm
việc với độ phân giải tối đa hoặc thấp hơn mà vẫn đảm bảo sự hiển thị
hoàn hoảo (nhưng có nhiều loại màn hình CRT nếu đặt ở tối đa phải
chấp nhận thiết lập tần số làm tươi thấp đi). Đối với màn hình tinh thể
lỏng tốt nhất phải thiết lập làm việc đúng với độ phân giải tối đa để đảm
bảo hiển thị hình ảnh rõ nét (nguyên nhân trình bày ở phần sau).
2.2 Tốc độ làm tươi
Nguyên lý hiển thị sự chuyển động của hình ảnh trên màn hình
máy tính cũng giống như nguyên lý chiếu bóng: Làm thay đổi nhanh các
hình ảnh tĩnh trong một khoảng thời gian ngắn để lợi dụng tính chất lưu
ảnh trong võng mạc của con người để ghép thành các hình ảnh chuyển
động.
Tốc độ làm tươi thể hiện số khung hình đạt được trong một giây.
Tốc độ làm tươi đối với các loại màn hình thông dụng ở tần số 60, 75,
85 Hz (trong điện ảnh: với các phim nhựa, tần số thường là 24).
Đối với màn hình máy tính loại CRT, độ làm tươi có thể thay đổi
rộng từ 60 Hz trở lên. Những loại màn hình CRT thông dụng thường từ
60 Hz đến 85 Hz, đối với một số model đặc biệt, độ làm tươi có thể đến
120 Hz hoặc cao hơn. Đối với màn hình tinh thể lỏng, tốc độ làm tươi
thường là 60 Hz.
5
Tốc độ làm tươi ảnh hưởng đến sức khoẻ của người sử dụng máy
tính. Nếu đặt quá thấp với màn hình CRT sẽ có cảm giác rung hình,
nhức mắt dẫn đến nhức đầu khi làm việc liên tục. Thông thường với
màn hình CRT nên đặt tối thiểu 75 Hz để tránh có cảm giác này. Với
màn hình tinh thể lỏng độ làm tươi 60 Hz cũng ít tạo ra cảm giác rung
hình và nhức mắt như trên bởi cơ chế tạo hình ảnh của nó hoàn toàn
khác với màn hình CRT.
2.3 Thời gian đáp ứng
Thời gian đáp ứng là một khái niệm chỉ nhắc đến đối với các màn
hình tinh thể lỏng.
Thời gian đáp ứng ở màn hình tinh thể lỏng được tính bằng
miligiây (ms), nói đến khoảng thời gian biến đổi hoàn toàn một màu sắc
của một điểm ảnh. Chính vì công nghệ tinh thể lỏng không thể hiển thị
một điểm ảnh tức thời nên mới xuất hiện khái niệm này như một thông
số để đánh giá về màn hình tinh thể lỏng.
Nếu như cần hiển thị một chuyển động rất nhanh (ví dụ tường
thuật một trận đua xe công thức 1 hoặc chơi games đua xe chẳng hạn)
thì màn hình phải thay đổi các hình tĩnh liên tục. Nếu như việc chuyển
đổi các hình ảnh không kịp thời sẽ xảy ra hiện tượng hình ảnh mới xuất
hiện nhưng hình ảnh cũ không kịp xoá hết, không kịp thay đổi thì kết
quả hiển thị sẽ xuất hiện vệt mờ của hình cũ - quen gọi là "bóng ma".
Với việc xử lý văn bản, lướt web, xem phim thông thường (không
có các pha hành động cực nhanh) thì thời giam đáp ứng 25 ms cũng đủ.
6
Tuy nhiên với việc chơi các games đua xe hoặc các tác vụ khác liên quan
đến thay đổi hình ảnh liên tục thì người sử dụng nên chọn thời gian đáp
ứng càng thấp càng tốt. Hiện nay nhiều hãng sản xuất màn hình tinh thể
lỏng đã quảng cáo sản phẩm của mình có thời giam đáp ứng đạt mức 2
ms (mức có thể đáp ứng mọi vấn đề về hiển thị).
Tuy nhiên, có rất nhiều vấn đề còn tranh cãi trong việc tính thời
gian đáp ứng trên màn hình tinh thể lỏng của các hãng, bởi mỗi hãng
tính theo một cách khác nhau và công bố theo kết quả riêng của họ.
2.4 Kích thước điểm ảnh
Kích thước điểm ảnh là một thông số cố định và không thay đổi
được, nó là kích thước điểm ảnh nhỏ nhất - tương ứng với độ phân giải
lớn nhất. Các kích thước điểm ảnh còn có thể thay đổi đến lớn hơn tuỳ
thuộc vào người sử dụng khi thiết lập độ phân giải màn hình thấp hơn
so với thiết kế của nhà sản xuất.
Kích thước điểm ảnh của mỗi hãng, mỗi model đều có thể khác
nhau. Thấy rõ nhất là với các màn hình tinh thể lỏng có giá phổ thông
hai loại màn hình có kích thước đường chéo khác nhau 17" và 19"
thường cùng độ phân giải (lớn nhất) 1280x1024 (cùng so sánh với thể
loại không phải màn hình rộng (non-wide) )
Kích thước điểm ảnh càng nhỏ hình ảnh hiển thị sẽ nét hơn và nếu
kích thước điểm ảnh càng lớn thì ngược lại.
3. Các đặc trưng kỹ thuật cơ bản
7
3.1 Nguyên lý của phương pháp hiển thị hình ảnh video
Màn hình máy tính có kích thước xác định, trên đó có thể chứa một
số hữu hạn điểm ảnh. Để có thể hiển thị thông tin cần phải lưu trữ
các thông tin mô tả thuộc tính sáng của từng điểm ảnh trên màn
hình và bộ nhớ, ngoài ra còn phải truyền thông tin của từng điểm
ảnh từ bộ nhớ ra màn hình. Con người cảm nhận được hình ảnh do
tính chất lưu ảnh trên võng mạc, khi một hình ảnh hiện rồi lại tắt với
tần số lớn hơn 25 lần/giây thì mắt người vẫn cảm giác hình ảnh hiện
liên tục.
Dựa trên hiện tượng trên, người ta đã xây dựng nên phương pháp
quét mành để hiện thị thông tin tĩnh và động trên màn hình.
3.2 Phương pháp quét mành
Hình ảnh trên màn hình được chia thành một số hữu hạn dòng,
tập hợp các dòng tạo nên một hình gọi là một mành. Trên mỗi mành chỉ
cần hiển thị một số hữu hạn điểm được gọi là pixel, như vậy pixel là đơn
vị nhỏ nhất của hình ảnh.
Để hiển thị hình ảnh, chúng ta sẽ hiển thị từng dòng một, sau khi
hiển thị xong tất cả các dòng của mành chúng ta lại lặp lại quá trình
trên. Nếu được chia thành số dòng đủ lớn thì mắt ta sẽ thấy nó là mịn
và nếu tần số hiển thị mành đủ lớn thì ta sẽ cảm thấy hỉnh ảnh tồn tại
liên tục trên màn hình chứ không phải là gián đoạn.
4. Phân loại màn hình
8
Đối với máy vi tính hiện nay, phương tiện giao tiếp chủ yếu là
người – máy là bàn phím và màn hình. Màn hình là phương tiện hiển thị
thông tin thuận lợi và kinh tế. Thông tin hiển thị là chữ hoặc số hoặc đồ
họa. Hiện nay có rất nhiều loại màn hình với các công nghệ khác nhau,
dưới đây xin giới thiệu một số loại màn hình được sử dụng phổ biến:
4.1 Màn hình CRT (Màn hình tia âm cực)
4.2 Màn hình LCD (Màn hình tinh thể lỏng)
4.3 Màn hình Plasma
4.4 Một số loại màn hình khác
(Nội dung chi tiết xin giới thiệu ở chương sau)
9
Chương II:
CÁC LOẠI MÀN HÌNH
Đối với hầu hết mọi người, màn hình là thứ gì đó đi kèm với máy
tính mà họ đã mua. Ít người từng nghĩ về việc nâng cấp màn hình của
họ. Thậm chí hệ thống nhanh nhất, mới nhất bị cản trở bởi một màn
hình mờ, nhoè. Thật may, việc nâng cấp màn hình máy tính thật dễ
dàng, nó là một vấn đề đơn giản của việc mua và cắm nó vào và bây giờ
nó rẻ hơn bao giờ hết.
Hai công nghệ màn hình đang tranh giành những đồng đô la của
những người tiêu dùng. Một màn hình CRT (Cathode Ray Tube) sử dụng
công nghệ cũ hơn nhưng các CRT có giá đáng kể và những ưu điểm
khác và do đó duy trì thị phần đáng kể. Một màn hình LCD (Liquid
Crystal Diode) sử dụng công nghệ mới hơn và có những ưu điểm của nó.
Ngoài ra, hiện nay còn có một số loại khác như Plasma, màn hình diode
phát quang …
Sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một số loại màn hình thông dụng và
cách chọn các loại màn hình
1. Màn hình CRT (Cathode Ray Tube)
Các màn hình CRT sử dụng cùng một công nghệ đèn hình với
nhiều cải tiến như các máy truyền hình màu đầu tiên cách đây hơn nửa
10
thế kỷ. Nhưng cũ cũng không nhất thiết có nghĩa là lỗi thời. Các màn
hình CRT tốt như model 19” Samsung 997DF, cung cấp chất lượng hình
ảnh tuyệt vời với một giá cả hợp lý. Các mang hình CRT là một lựa chọn
hoàn hảo cho nhiều người và sẽ vẫn như vậy trong nhiều năm.
Màn hình Samsung 19”997DF
1.1 Ưu và nhược điểm
Ưu điểm: Thể hiện màu sắc rất trung thực, tốc độ đáp ứng cao,
độ phân giải có thể đạt được cao. Phù hợp với games thủ và các nhà
thiết kế, xử lý đồ hoạ.
Nhược điểm: Chiếm nhiều diện tích, tiêu tốn điện năng hơn các
loại màn hình khác, thường gây ảnh hưởng sức khoẻ nhiều hơn với các
loại màn hình khác.
1.2 Nguyên lý hiển thị hình ảnh
11
Màn hình CRT sử dụng phần màn huỳnh quang dùng để hiển thị
các điểm ảnh, để các điểm ảnh phát sáng theo đúng màu sắc cần hiển
thị cần các tia điện tử tác động vào chúng để tạo ra sự phát xạ ánh
sáng. Ống phóng CRT sẽ tạo ra các tia điện tử đập vào màn huỳnh
quang để hiển thị các điểm ảnh theo mong muốn. Để tìm hiểu nguyên lý
hiển thị hình ảnh của các màn hình CRT, ta hãy xem nguyên lý để hiển
thị hình ảnh của một màn hình đơn sắc (đen trắng), các nguyên lý màn
hình CRT màu đều dựa trên nền tảng này.
a. Nguyên lý hiển thị hình ảnh của màn hình đen - trắng
Ở các màn hình CRT cổ điển: Toàn bộ lớp huỳnh quang trên bề
mặt chỉ hiển phát xạ một màu duy nhất với các mức thang xám khác
nhau để tạo ra các điểm ảnh đen trắng. Một điểm ảnh được phân thành
các cường độ sáng khác nhau sẽ được điều khiển bằng chùm tia điện tử
có cường độ khác nhau.
Chùm tia điện tử được xuất phát từ một ống phát của đèn hình.
Tại đây có một dây tóc (kiểu giống dây tóc bóng đèn sợi đốt) được nung
nóng, các điện tử tự do trong kim loại của sợi dây tóc nhảy khỏi bề mặt
và bị hút vào điện trường tạo ra trong ống CRT. Để tạo ra một tia điện
tử, ống CRT có các cuộn lái tia theo hai phương (ngang và đứng) điều
khiển tia này đến các vị trí trên màn huỳnh quang. Để đảm bảo các tia
điện tử thu hẹp thành dạng điểm theo kích thước điểm ảnh thiết đặt,
ống CRT có các thấu kính điện từ (hoàn toàn khác biệt với thấu kính
quang học) bằng các cuộn dây để hội tụ chùm tia.
12
Tia điện tử được quét lên bề mặt lớp huỳnh quang theo từng
hàng, lần lượt từ trên xuống dưới, từ trái qua phải một cách rất nhanh
để tạo ra các khung hình tĩnh, nhiều khung hình tĩnh như vậy thay đổi sẽ
tạo ra hình ảnh chuyển động. Cường độ các tia này thay đổi theo điểm
ảnh cần hiển thị trên màn hình, với các điểm ảnh màu đen các tia này có
cường độ thấp nhất (hoặc không có), với các điểm ảnh trắng thì tia này
lớn đến giới hạn, với các thang màu xám thì tuỳ theo mức độ sáng mà
tia có cường độ khác nhau.
b. Nguyên lý hiển thị hình ảnh của màn hình màu
Nguyên lý hiển thị hình ảnh của màn hình màu loại CRT giống với
màn hình đen trắng đã trình bày ở trên. Các màu sắc được hiển thị theo
nguyên tắc phối màu phát xa: Mỗi một màu xác định được ghép bởi ba
màu cơ bản.
Trên màn hình hiển thị lớp huỳnh quang của màn hình đen trắng
được thay bằng các lớp phát xạ màu dọc từ trên xuống dưới màn hình
(điều này hoàn toàn có thể quan sát được bằng mắt thường).
Như vậy, có thể thấy ở màn hình CRT, mỗi hình ảnh được hiển thị
không tức thời, mà từ phía trên xuống phía dưới. Nếu dùng máy ảnh
chụp ảnh màn hình CRT với tốc độ nhanh sẽ nhận thấy các hình ảnh
xuất hiện theo từng khối ngang màn hình. Đây chính là nguyên nhân có
sự cảm nhận về rung hình. Đối với màn hình tinh thể lỏng, các hình ảnh
tỉnh được hiển thị gần như tức thời nên không có cảm giác này (do đó ở
tần số làm tươi 60 Hz vẫn không có cảm giác rung hình.
13
1.3 Cách chọn màn hình CRT
Sử dụng các hướng dẫn sau đây khi chọn một màn hình CRT:
• Nhớ rằng một màn hình CRT là một món hàng mua dài hạn.
Thậm chí được sử dụng rất nhiều, một CRT chất lượng cao có
thể mong đợi kéo dài 5 năm hoặc nhiều hơn, do đó hãy mua
chất lượng và chọn một model sao cho sẽ làm cho bạn hài lòng
không chỉ trên hệ thống hiện hành của bạn mà cho một hoặc
thậm chí hai hệ thống sau đó.
• Hãy chắc chắn rằng CRT đủ lớn nhưng không quá lớn. Kiểm tra
cẩn thận các kích thước và trọng lượng vật lý trước khi mua.
Các CRT lớn thường nặng 50 lbs hoặc nhiều hơn và một số vượt
quá 100 lbs.
• Bám theo các nhãn hiệu tốt và mua một model hạng vừa hoặc
cao hơn từ trong nhãn hiệu đó. Điều đó không bảo đảm rằng
bạn có được một CRT tốt nhưng nó tăng đáng kể những cơ hội
của bạn. Thị trường CRT cực kì cạnh tranh, nếu hai model
tương tự có giá rất khác nhau, model rẻ hơn có thể có các
thông số kĩ thuật tệ hơn rất nhiều.
• Nếu có thể hãy kiểm tra CRT chính xác mà bạn dự định mua
trước khi mua nó. Đề nghị cửa hàng chứng nhận sự bảo hành
của nhà sản xuất, nghĩa là đồng ý rằng nếu CRT bị hỏng bạn có
thể mang nó trở lại cửa hàng để đổi cái khác thay vì phải giải
quyết điều phiền phức là phải trả nó về nhà sản xuất .
14
• Chọn CRT cụ thể mà bạn mua dựa vào diện mạo của nó đối với
bạn. Việc so sánh các thông số kĩ thuật giúp thu hẹp danh sách
các ứng cử thích hợp nhưng không có gì thay thế cho việc xem
thật sự ảnh được hiển thị bởi CRT.
• Bảo đảm CRT có đủ độ sáng dự trữ. Các CRT mờ đi theo thời
gian sử dụng và một trong những khiếm khuyết phổ biến nhất
trong CRT mới. Đặc biệt các CRT từ các nhà sản xuất có quy
mô nhỏ là ánh sáng không đầy đủ. Một CRT vốn chỉ vừa đủ
sáng khi còn mới có thể đủ mờ để không thể sử dụng được sau
một hoặc hai năm. Một CRT mới nên cung cấp một chất lượng
ảnh tốt có độ sáng được xác lập không quá 50%.
2. Màn hình LCD (Liquid Crystal Diode)
Màn hình máy tính loại tinh thể lỏng dựa trên công nghệ về tinh
thể lỏng nên rất linh hoạt, có nhiều ưu điểm hơn màn hình CRT truyền
thống, do dó hiện nay đang được sử dụng rộng rãi, dần thay thế màn
hình CRT.
1.1 Ưu và nhược điểm
Ưu điểm: Mỏng nhẹ, không chiếm diện tích trên bàn làm việc. Ít
tiêu tốn điện năng so với màn hình loại CRT, ít ảnh hưởng đến sức khoẻ
người sử dụng so với màn hình CRT.
Nhược điểm: Giới hạn hiển thị nét trong độ phân giải thiết kế
(hoặc độ phân giải bằng 1/2 so với thiết kế theo cả hai chiều dọc và
ngang), tốc độ đáp ứng chậm hơn so với màn hình CRT (tuy nhiên năm
15
2007 đã xuất hiện nhiều model có độ đáp ứng đến 2 ms), màu sắc chưa
trung thực bằng màn hình CRT.
Màn hình LCD 19” ViewSonic VP191
1.2 Một vài đặc điểm về màn hình LCD
a. Độ phân giải
Độ phân giải của màn hình tinh thể lỏng dù có thể đặt được theo
người sử dụng, tuy nhiên để hiển thị rõ nét nhất phải đặt ở độ phân giải
thiết kế của nhà sản xuất. Nguyên nhân là các điểm ảnh được thiết kế
cố định (không tăng và không giảm được cả về số điểm ảnh và kích
thước), do đó nếu thiết đặt độ phân giải thấp hơn độ phân giải thiết kế
sẽ xảy ra tình trạng tương tự việc có 3 điểm ảnh vật lý (thực) dùng để
hiển thị 2 điểm ảnh hiển thị (do người sử dụng thiết đặt), điều xảy ra lúc
này là hai điểm ảnh vật lý ở sẽ hiển thị trọn vẹn, còn lại một điểm ảnh ở
giữa sẽ hiển thị một nửa điểm ảnh hiển thị này và một nửa điểm ảnh
16
hiển thị kia - dẫn đến chỉ có thể hiển thị màu trung bình, dẫn đến sự
hiển thị không rõ nét.
b. Điểm chết trong màn hình tinh thể lỏng
Một trong các tiêu chí quan trọng để đánh giá về màn hình tinh
thể lỏng là các điểm chết của nó (khái niệm điểm chết không có ở các
loại màn hình CRT).
Điểm chết được coi là các điểm mà màn hình không thể hiển thị
đúng màu sắc, ngay từ khi bật màn hình lên thì điểm chết chỉ xuất hiện
một màu duy nhất tuỳ theo loại điểm chết. Điểm chết có thể xuất hiện
ngay từ khi xuất xưởng, có thể xuất hiện trong quá trình sử dụng. Điểm
chết có thể là điểm chết đen hoặc điểm chế trắng. Với các điểm chết
đen chúng ít lộ và dễ lẫn vào hình ảnh, các điểm chết trắng thường dễ
nổi và gây ra sự khó chịu từ người sử dụng.
Theo công nghệ chế tạo các điểm chết của màn hình tinh thể lỏng
không thể sửa chữa được. Thường tỷ lệ xuất hiện điểm chết của màn
hình tinh thể lỏng chiếm khoảng 30% tổng sản phẩm xuất xưởng nên
các hãng sản xuất có các chế độ bảo hành riêng. Một số hãng cho phép
đến 3 điểm chết (mà không bảo hành), một số khác là 5 điểm do đó khi
lựa chọn mua các màn hình tinh thể lỏng cần chú ý kiểm tra về số lượng
các điểm chết sẵn có.
Để kiểm tra các điểm chết trên các màn hình tinh thể lỏng, tốt
nhất dùng các phần mềm chuyên dụng (dẫn dễ tìm các phần mềm kiểu
này bởi chúng thường miễn phí), nếu không có các phần mềm, người sử
dụng có thể tạo các ảnh toàn một màu đen, toàn một màu trắng, toàn
17
một màu khác và xem nó ở chế độ chiếm đầy màn hình (full screen) để
kiểm tra.
c. Đèn nền trong màn hình tinh thể lỏng
Công nghệ màn hình tinh thể lỏng phải sử dụng các đèn nền để
tạo ánh sáng đến các tinh thể lỏng. Khi điều chỉnh độ sáng chính là điều
chỉnh ánh sáng của đèn nền. Điều đáng nói ở đây là một số màn hình
tinh thể lỏng có hiện tượng lọt sáng tại các viền biên của màn hình (do
cách bố trí của đèn nền và sự che chắn cần thiết) gây ra cảm giác hiển
thị không đồng đều khi thể hiện các bức ảnh tối. Khi chọn mua cần thử
hiển thị để tránh mua các loại màn hình gặp lỗi như vậy, cách thử đơn
giải nhất là quan sát viền màn hình trong thời điểm khởi động Windows
xem các vùng sáng có quá lộ hay không.
d. Màn hình rộng và màn hình chuẩn 4:3 thông thường
Trong màn hình tinh thể lỏng thường có hai loại, màn hình theo
chuẩn 4:3 thông thường và màn hình theo chuẩn rộng. Với màn hình
kiểu CRT thì thông dụng nhất vẫn theo chuẩn thông thường, rất cá biệt
mới có màn hình rộng.
Màn hình theo chuẩn thông thường có tỷ lệ tính theo điểm ảnh
đường ngang và điểm ảnh đường đứng có tỷ lệ 4:3. Với màn hình theo
chuẩn rộng sẽ có tỷ lệ (như trên) thường là 16:10.
Tuỳ theo nhu cầu công việc mà nên chọn màn hình theo chuẩn
nào. Với chơi game thông thường, lướt web, soạn thảo văn bản thì nên
chọn loại thường. Với mục đích xem phim, dùng nhiều đến bảng tính
18
excel thì nên chọn màn rộng để đảm bảo hiển thị được nhiều nội dung
hơn.
Tuy nhiên hiện nay xu thế người sử dụng đang dần chuyển sang
sử dụng màn hình rộng bởi dần các game hỗ trợ màn hình rộng tốt hơn.
Vấn đề lựa chọn giữa loại thường và rộng hiện nay cũng hay gây nhiều
tranh cãi trên các diễn đàn bởi thói quen sử dụng của từng người.
1.3 Cách chọn màn hình LCD
• Các LCD hiện đại thì có sẵn trong các model chỉ analog, chỉ
digital và các model có các đầu vào analog và digital. Đầu
vào analog có thể chấp nhận cho các model 15” (1024x768),
nhưng đối với các model 17” (1280x1024), tiếng ồn video
analog trở thành một vấn đề. Với kích cỡ màn hình và độ
phân giải đó, tiếng ồn analog không nhìn thấy rõ ràng tức thì
đối với hầu hết nhiều người nhưng nếu bạn sử dụng trong
khoảng thời gian dài, sự khác biệt giữa việc sử dụng một
màn hình có một tín hiệu digital sạch và một màn hình có tín
hiệu analog ồn sẽ ảnh hưởng đến bạn hầu như trên một mức
độ tiềm thức. Đối với một LCD 19” (1280x1024) chúng ta
xem một tín hiệu digital là cực kì mong muốn nhưng không
hoàn toàn cần thiết. Đối với một màn hình lớn hơn hoặc trên
1280x1024, chúng ta sẽ không xem xét sử dụng tín hiệu
analog.
19
• Yêu cầu sự hỗ trợ màu 24 bit thật sự, vốn có thể được mô tả
là sự hỗ trợ cho 16.7 triệu màu. Hầu hết các LCD đều hỗ trợ
màu 24 bit, cấp phát một byte đầy đủ cho mỗi trong ba màu
chính, vốn cho phép 256 sắc thái của mỗi màu và tổng cộng
16.7 triệu màu được hiển thị. Nhiều LCD trược đó và một số
model hiện hành rẻ chỉ hỗ trợ 6 bit mỗi màu trong tổng cộng
màu 18 bit. Những model này sử dụng sự ngoại suy để mô
phỏng sự hộ trợ màu 24 bit đầy đủ, điều này dẫn đến chất
lượng màu kém. Nếu một LCD được quảng cáo là “tương
thích 24 bit”, đó là “lí do tốt” để tìm ở nơi khác. Điều kì lạ là
nhiều LCD vốn hỗ trợ màu 24 bit thực không đề cập nó trong
các bảng thông số của chúng trong khi nhiều LCD vốn hỗ trợ
màu chỉ 18 bit thì tuyên bố việc chúng “tương thích 24 bit”
• Hầu hết các nhà sản xuất LCD đều sản xuất 3 hoặc nhiều
series LCD. Các model tối thiểu thường chỉ là analog, thậm
chí kích cỡ 19” và 21” và có thời gian đáp ứng chậm. Các
model hạng vừa thường chấp nhận các đầu vào analog hoặc
digital và thường có thời gian đáp ứng đủ nhanh cho bất cứ
thứ gì ngoại trừ việc chơi game 3D và những công việc khác
đòi hỏi nhiều khả năng tương tự. Các model tốt nhất là các
model lai analog/digital hoặc chỉ digital và có thời gian đáp
ứng rất nhanh. Chọn một model thường chỉ khi bạn chắc
chắn rằng bạn không bao giờ sử dụng màn hình cho bất cứ
thứ gì khác ngoại trừ xử lí văn bản, duyệt web và các tác vụ
20
không đòi hỏi nhiều khả năng tương tự. Nếu bạn cần một
màn hình thay thế CRT thật sự, hãy chọn một model hạng
vừa hoặc cao cấp hơn có một giao diện digital và thời gian
đáp nhanh nhất mà bạn sẵn sàng trả tiền để có được.
• Quyết định kích cỡ panel và độ phân giải nào thích hợp cho
bạn. Hãy nhớ rằng khi bạn chọn một panel LCD cụ thể, thực
sự bạn cũng đang chọn độ phân giải mà bạn sẽ luôn sử dụng
trên màn hình đó.
• Nếu có thể, hãy kiểm tra LCD chính xác mà bạn dự định mua
nó trước khi mua nó. Nếu bạn sử dụng giao diện analog, bạn
nên kiểm tra LCD bằng hệ thống riêng của bạn hoặc ít ra
bằng một hệ thống có một adapter đồ hoạ giống với
adapter mà bạn dự định sử dụng. Nhưng nếu điều đó không
thể thực hiện được vì một lí do nào đó, vẫn đề nghị xem LCD
thật sự mà bạn muốn mua. Theo cách đó, ít ra bạn có thể
xác định xem có các pixel khiếm khuyết ở những vị trí làm
bạn không hài lòng hay không. Cũng sử dụng một màn hình
xám trung hoà không có ảnh để kiểm chứng rằng ánh sáng
đằng sau chiếu sáng toàn bộ màn hình.
• Bám theo các nhãn hiệu tốt và mua một model hạng vừa
hoặc cao cấp hơn từ nhãn hiệu đó.
So sánh màn hình CRT và màn hình LCD
21
1. Ưu điểm của CRT so với LCD
a. Giá
Các màn hình CRT có giá ít hơn LCD. Đối với cùng một loại giá
như một LCD 17” thường bạn có thể mua một CRT 19” hạng vừa hoặc
hai CRT 17” tốt. Sự chênh lệch về giá cả gần đây đã được thu hẹp một
phần nhưng các LCD trong tương lai có thể có giá nhiều hơn các CRT có
kích cỡ, những tính năng và chất lượng tương tự.
b. Độ phân giải khả biến
Các LCD được thiết kế để hoạt động với một độ phân giải thường
là 1024x768 cho các model 15” và 1280x1024 cho các model 17”, 18”
và 19”. Mặc dù, bạn có thể chạy một LCD với độ phân giải thấp hơn độ
phân giải đã được thiết kế để sử dụng nhưng bạn không muốn. Với độ
phân giải riêng, bạn phải chọn lựa giữa việc có một số ảnh sắc nét
chiếm chỉ một phần của màn hình hoặc sử dụng sự ngoại suy pixel này
tạo ra một ảnh toàn màn hình có chất lượng ảnh giảm đi đáng kể. Trái
lại, các CRT có thể chạy với các độ phân giải khác nhau, nghĩa là bạn có
thể chọn độ phân giải phù hợp với các sở thích và thị giác riêng của bạn.
c. Thời hạn phục vụ
Một CRT chất lượng cao thường kéo dài trong nhiều năm. Một CRT
thường được sử dụng trong 5 năm hoặc nhiều hơn thậm chí 10 năm.
Các LCD sử dụng một mảng các ống tia catốt nguội (CCRT), tương tự
như các ống đèn huỳnh quang để cung cấp ánh sáng đằng sau được yêu
cầu để xem ảnh. Một CCRT bị hỏng không thể sửa chữa được về mặt
kinh tế. Khi một CCRT bị cháy, màn hình LCD phải được thay.
22
d. Hiển thị Video chuyển động nhanh cao cấp
Các CRT sử dụng các pixel (điểm ảnh) phốt pho, các panel này có
thể mở hoặc tắt hầu như tức thì. Các LCD sử dụng các pixel được
Transitor hoá vốn đáp ứng chậm hơn. Sự đáp ứng chậm hơn này có thể
nhìn thấy được dưới dạng một hiệu ứng nhoè hoặc quầng sáng khi một
LCD hiện thị một video hiển thị nhanh, chẳng hạn như video DVD hoặc
các game đòi hỏi nhiều đồ hoạ.
e. Góc xem
Các CRT về cơ bản có cùng một chất lượng ảnh bất kể góc xem.
Trái lại, các LCD có chất lượng ảnh tốt nhất chỉ trong một góc xem
tương đối nhỏ, mặc dù các model LCD hạng vừa và tốt hơn thường có
các góc xem lớn hơn các model tối thiểu.
f. Tái tạo màu chính xác
Nhiều “hoạ sĩ” đồ hoạ từ chối sử dụng các LCD bởi vì diện mạo của
các màu và mối quan hệ giữa chúng thay đổi theo góc xem. Vấn đề này
đặc biệt đúng với các LCD rẻ, mặc dù thậm chí LCD cao cấp bộc lộ điều
này tối thiểu ở một phạm vi nào đó. Các model LCD tốt nhất đủ tốt về
khía cạnh này để sử dụng hàng ngày nhưng hầu hết những người đòi
hỏi sự tái tạo màu chính xác vẫn thích các monitor CRT chất lượng cao
hơn.
g. Khiếm khuyết pixel
Một CRT không bao giờ có các pixel khiếm khuyết. Một panel LCD
được sản xuất dưới dạng một món hàng nguyên khối chứa hơn một triệu
pixel và trong một số panel LCD, một hoặc một vài pixel đó bị khiếm
23
khuyết. Các pixel khiếm khuyết có thể luôn mở (màu trắng), luôn tắt
(màu đen) hoặc một màu nào đó. Hầu hết các giấy tờ bảo hành của các
nhà sản xuất đặc biệt loại trừ một số pixel khiếm khuyết thường giữa
năm và mười, mặc dù con số này có thể thay đổi với kích thước màn
hình và đôi khi thay đổi với vị trí của các pixel khiếm khuyết và chúng
được tập trung với mức độ gần như thế nào. Miễn là màn hình đáp ứng
những yêu cầu đó, nhà sản xuất có thể xem màn hình là có thể chấp
nhận được.
h. Kết xuất màu sống động
Mặc dù độ tương phản và độ sáng của các LCD cao cấp gần đây
tuyệt vời nhưng hầu hết LCD cung cấp màu sắc ít sặc sỡ hơn một CRT
tốt. Điều này đặc biệt rõ ràng trong các vùng sáng nhất và tối nhất, nơi
các tông màu dường như được nén, điều đó giới hạn những sự phân cấp
tinh vi giữa các tông màu sáng hoặc các tông màu tối vốn luôn nhìn thấy
rõ ràng trên một CRT. Một số LCD cũng thêm một gam màu vào những
gì mà sẽ là các tông màu sáng hoặc tối trung hoà. Ví dụ, các tông màu
tối trung hoà có thể dường như bị dịch chuyển đến đến các dãy màu
xanh dương (mát hơn) hoặc đỏ (ấm hơn). Vấn đề này ít phổ biến trong
các LCD chất lượng cao so với trong các LCD tối thiểu về khả năng nhiều
hơn nó cũng xảy ra nếu bạn sử dụng một giao diện analog thay vì một
giao diện digital.
2. Ưu điểm của LCD so với CRT
a. Độ sáng
24
Các LCD sáng hơn các CRT. Một CRT điển hình có độ sáng khoảng
100 candela/mét vuông, một đơn vị số đo được gọi là một nit. Một số
màn hình được định mức bằng foot Lambertd (fL), một fL bằng khoảng
3,43 nit. Một LCD điển hình được định mức với 250 đến 350 nit, sáng
hơn một CRT điển hình khoảng ba lần. Các CRT mờ đi theo thời gian sử
dụng, mặc dù có một nút điều khiển độ sáng có đủ dãy nằm ở đầu phía
trên thường có thể được sử dụng để xác lập một CRT cũ sang gần độ
sáng ban đầu . Các CCRT vốn được sử dụng để chiếu sáng đằng sau các
LCD cũng mờ theo thời gian sử dụng nhưng thường hoàn toàn bị hỏng
trước khi độ sáng bị giảm trở thành một vấn đề lớn.
b. Độ tương phản
Độ tương phản đo hiệu số về độ sáng giữa phần sáng nhất và
phần mờ nhất của một ảnh có độ tương phản cao là một khía cạnh quan
trọng của chất lượng ảnh, đặc biệt cho text. Một CRT trung bình có thể
có một hệ số tương phản 200:1 và một CRT cao cấp có hệ số độ tương
phản 250:1. Một LCD rẻ có thể có một hệ số độ tương phản 400:1 và
một LCD cao cấp có thể có một hệ số độ tương phản 1000:1. Nói cách
khác, thậm chí một LCD rẻ có thể có độ tương phản cao hơn một CRT
hoàn hảo.
c. Tính khả dụng trong các môi trường sáng
Thậm chí các CRT màn hình phẳng tốt vẫn chịu các phản chiếu
khó chịu khi được sử dụng trong các môi trường sáng, chẳng hạn như có
màn hình đối diện với cửa sổ. Các LCD tốt thì cao cấp hơn nhiều trong
khía cạnh này. Không có ánh sáng mặt trời trực tiếp tác động lên màn
25