1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay, việc duy trì sĩ số, đảm bảo chuyên cần ở trường tiểu học đóng
một vai trò rất quan trọng trong việc học tập của học sinh nói riêng và trong việc
thực hiện phổ cập giáo dục nói chung. Nó là nền tảng giúp các em lĩnh hội kiến
thức một cách đầy đủ và mang lại kết quả học tập tốt. Nhưng hiện nay, một số
học sinh trong địa phương thuộc con em gia đình lao động nghèo, đa phần các
em con của gia đình làm nông nghiệp. Chính vì mãi lo cho kinh tế gia đình một
số phụ huynh ít quan tâm đến việc học tập của các em. Nên việc các em nghỉ
học, bỏ học trong thời gian nhiều ngày ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài và kết
quả học tập là điều không tránh khỏi.
Trong những năm gần đây tình trạng học sinh bỏ học ngày càng phổ biến.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh bỏ học nhưng trong đó
nguyên nhân chính là các em học tập tiếp thu bài rất chậm nên không thích đi
học, không thích đến trường.
Xã hội ngày càng phát triển, thì yêu cầu về giáo dục cũng được nâng cao.
Đòi hỏi trong xã hội ai cũng được học hành, được tiếp thu được kiến thức kĩ
năng, kĩ xảo từ nhà trường để phục vụ cuộc sống sau này. Chúng ta ngày đêm
đang ra sức phổ cập giáo dục ở các cấp học. Nhưng trên thực tế có biết bao
nhiêu học sinh bỏ học giữa chừng. Biết bao nhiêu trẻ em không biết đọc, đọc
viết không thông thạo mà đã nghỉ học.
Vì thế, qua nhiều năm công tác bản thân tôi luôn suy nghĩ và đặt cho
mình câu hỏi: “ Làm thể nào để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ? ” Từ
những trăn trở đó ,tôi đã có quyết định tìm hiểu và viết sáng kiến kinh nghiệm
về “ Biện pháp vận động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở
lớp 1 trường Tiểu học Tén Tằn ”. Đây cũng là một vấn đề giúp các em tiếp thu
bài đầy đủ, có kết quả tốt trong học tập và tiếp tục con đường học tập của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Nhằm đánh giá lại môi trường giáo dục, chất lượng giảng dạy học sinh
chậm tiếp thu ở trường tiểu học Tén Tằn trong những năm qua và hiện nay nói
chung và học sinh lớp 1 nói riêng.
- Tìm ra những nguyên nhân tại sao việc học sinh chán học và hiện tượng
học sinh có nguy cơ bỏ học vì không tiếp thu được bài học vẫn còn.
- Đưa ra một số giải pháp trong việc đổi mới phương pháp giúp đỡ học sinh
chậm tiếp thu học tập có tiến bộ hơn, tạo môi trường học thân thiện, gần gũi
giúp học sinh ham thích học tập, thích đi học nhiều hơn
1. 3. Đối tượng nghiên cứu.
Qua nhiều năm được phân công giảng dạy lớp 1. Tôi thấy học sinh hay vắng học
vào các ngày gia đình có việc như làm vía,đám cưới,làm nhà mới hoặc nhà hàng
xóm có việc gì đó ,các em còn nhỏ chưa làm giúp được việc gì nhưng các em vẫn
thích ở nhà để được chơi rồi nghỉ học đến 2,3 ngày liền. Nên bị gián đoạn kiến thức
ở các nội dung bài học.Dẫn đến việc học sinh chán học và vắng học vô lí do thường
1
xuyên xảy ra.Vì vậy tôi đã chọn đề tài Sáng kiến kinh nghiệm: Biện pháp vận
động học sinh để duy trì sĩ số và đảm bảo chuyên cần ở lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
+ Phương pháp lấy tư liệu :
Trong quá trình nghiên cứu cần rất nhiều ý kiến, thông tin, tư liệu. Trong
các cuộc họp có các ý kiến từ các giáo viên khác, Ban giám hiệu nhà trường,
phụ huynh học sinh vv…Trong quá trình làm công tác giảng dạy, một số kinh
nghiệm từ đồng nghiệp là nền tảng giúp tôi nghiên cứu đề tài này.
+ Phương pháp học mà chơi, chơi mà học :
Tổ chức nhiều sân chơi, đây là phương pháp giúp học sinh tham gia nhiều
vào các hoạt động nhóm và tập thể, giúp các em có hứng thú trong học tập, vui
chơi từ đó bớt rụt rè, e thẹn và có thêm tự tin.
+ Phương pháp đàm thoại :
Đây là phương pháp nhằm tiếp thu ý kiến của phụ huynh, học sinh, của
giáo viên chủ nhiệm. Đối với học sinh khi chúng ta trò chuyện trực tiếp với các
em tạo cho các em sự gần gũi, thương yêu. Từ đó các em nói lên tâm tư tình cảm
của mình về sự học tập, từ đó hiểu được nguyên nhân vì sao các em học không
tiếp thu được. Sàng lọc học sinh thành nhiều cấp độ nhận thức và nắm bắt được
cụ thể các học sinh tiếp thu chậm, cá biệt.
+ Phương pháp xử lý thông tin :
Hàng ngày tôi kịp thời xử lý các thông tin, kết quả thu thập được trong quá
trình nghiên cứu nhằm loại bỏ các biện pháp không thích hợp, đi sâu các biện
pháp có tác dụng tích cực. Có được những hiểu biết sâu hơn về vấn đề đang
nghiên cứu.
+ Phương pháp thực nghiệm :
Đề xuất với phụ huynh một số phương pháp đổi mới nhằm nâng cao kết
quả học tập cho học sinh chưa hoàn thành. Sau đó cùng nhau phối hợp đánh giá.
+ Phương pháp cải tiến :
Qua việc tìm ra nguyên nhân của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra một số
phương pháp cải tiến để tìm ra giải pháp tốt nhất làm cơ sở nghiên cứu.
Chỉ ra rõ được những thuận lợi, khó khăn và nguyên nhân của thực trạng.
Từ đó đưa ra những biện pháp khắc phục thực trạng và phát huy những thuận lợi
đã có như lập kế hoạch dạy phụ đạo kết hợp với phương pháp dạy học bằng tình
thương, Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành, phương pháp thư
giãn, tạo môi trường giáo dục tốt, duy trì tốt công tác chủ nhiệm lớp trong các
buổi tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, hình thành và phát huy ở lớp phong
trào “Giúp bạn vượt khó”. Ngoài ra để công tác chủ nhiệm lớp đạt kết quả cao
thì giáo viên cần phối kết hợp chặt chẽ với gia đình phụ huynh
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm :
+ Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi :
2
Học sinh tiểu học nói chung và lớp 1 nói riêng các em rất nghịch, hiếu
động, chưa làm chủ được bản thân, chưa nhận thức được điều gì là đúng và điều
gì là sai, hay bắt chước và chịu tác động của mọi việc xảy ra xung quanh mình.
Khả năng tiếp thu kiến thức nhanh hay chậm của từng nhóm đối tượng học sinh
cũng khác nhau. Ở các em ý thức học tập chưa có, chưa hiểu rõ mục đích của
việc học. Các em đi học phần lớn là do sự bắt buộc của gia đình, chỉ một phần
nhỏ là ham thích đi học ( vì đi học được cô khen, được dán bông hoa học tốt…,
được chơi cùng bạn vv…). Do đó ý thức tự giác học tập của các em chưa có (với
những em đi học vì sự bắt buộc của gia đình ) nên các em thiếu sự cần cù, sự cố
gắng vượt qua khó khăn để học tập dễ sinh ra lười biếng, ham chơi và dẫn đến
học tập chưa hoàn thành , chán học và bỏ học…
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học ,nhất là học sinh lớp Một tính tò mò phát triển,
các em thường ham thích cái mới, cái lạ. Dễ nhàm chán trong các hoạt động kéo
dài, không thay đổi hình thức. Nếu chúng ta những người làm công tác giáo dục
biết quan tâm tạo sự ham thích cho các em trong học tập, trong các hoạt động ở
trường, lớp thì mới có động lực thúc đẩy việc học, nâng cao được khả năng tiếp
thu, và thực hành các kĩ năng, kĩ xảo mà chúng ta cung cấp cho các em. Từ đó
các em học tập có tiến bộ.
Ở lứa tuổi này tâm sinh lý các em rất hiếu động, hay bắt chước, dễ thích
nghi với môi trường sinh hoạt ở trường, lớp. Đây là điều kiện tốt để giáo viên tạo
sự hứng thú cho các em. Nếu hàng ngày khi đến trường các em được thầy cô ân
cần chỉ bảo. Trong học tập các em được hoạt động nhóm, được làm thí nghiệm,
chơi các trò chơi học tập thì các em sẽ ham học hơn và thích đi học hơn.
Sự ham thích học tập ở học sinh chủ yếu hình thành thông qua các hoạt
động thực tế như hoạt động giao lưu, tập thể và nhóm ; Qua sự tác động của môi
trường cơ sở vật chất như trường, lớp, qua thái độ của thầy cô, bạn bè. Do đó
trong nhà trường chúng ta phải tìm ra những giải pháp thích hợp để giáo dục đối
với từng đối tượng trẻ em, định hướng đúng đắn cho trẻ trong các hoạt động
giáo dục, dạy học và vui chơi của trẻ một cách phù hợp nhất, tạo một bầu không
khí, một môi trường thật thân thiện để mỗi học sinh thấy vui thích và trông đợi
được đến trường. Xem trường lớp như ngôi nhà thứ hai của mình. Trong mỗi
giai đoạn phát triển khác nhau của học sinh chúng ta cũng không thể áp dụng
một cách cứng nhắc, dập khuôn hình mẫu phát triển của học sinh trong giai đoạn
đó mà còn tuỳ thuộc vào tố chất, năng lực, thể lực của học sinh đó cũng như
những tác động của gia đình và xã hội của mỗi một cá nhân học sinh mà ta có
những cách thức giáo dục thích hợp nhất cho chúng để chúng có thể phát triển
một cách hài hoà trong học tập, nhận thức và hành vi khi chúng tham gia vào
các mối quan hệ với cộng đồng xã hội trong tương lai.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1: Thực trạng
a. Về phía nhà trường và giáo viên.
3
Trường tiểu học Tén Tằn là thuộc xã vùng cao, vùng sâu biên giới của
huyện Mường Lát, cách thị trấn Mường Lát 13 km về phía Tây và có ranh giới
tiếp giáp như sau:
Phía Nam giáp xã Pù Nhi;
Phía Tây giáp nước CHDCND Lào;
Phía Đông giáp xã Tam Chung và Thị trấn Mường Lát;
Phía Bắc giáp nước CHDCND Lào và xã Tam Chung.
Là trường có khá nhiều học sinh dân tộc cùng học tập, môi trường học tập
tương đối khó khăn, cơ sở vật chất chưa đầy đủ, có 5 điểm trường nằm rải rác ở
các khu lẻ, điều kiện đi lại còn nhiều khó khăn, trong đó có đa số học sinh là con
em các dân tộc Thái, Dao, Khơ Mú nên nhận thức có sự chênh lệch. Để hoàn
thành tốt nhiệm vụ của mình, người giáo viên chủ nhiệm lớp ở tiểu học như
chúng tôi phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, bao nhiêu vất vả. Những ngày
bắt đầu vào năm học mới, học sinh lớp tôi đến lớp chưa đủ, em thì chưa muốn đi
học, có em còn theo cha mẹ vào tận nương rẫy trên núi cao chưa về.
Bản thân tôi là một người giáo viên được sinh ra và lớn lên tại quê hương
Tén Tằn, huyện Mường Lát, nên tôi thấu hiểu hơn ai hết nỗi khó khăn vất vả của
những người học sinh vùng cao nơi đây, trình độ dân trí còn thấp, số hộ nghèo
còn nhiều, nhiều người dân còn mù chữ, học sinh dân tộc ít người lại đông
chiếm 98% số học sinh toàn trường.
b. Về phía học sinh :
Trong cuộc sống hàng ngày ngoài giờ lên lớp các em còn phải phụ giúp cha
mẹ công việc gia đình như lên nương, đi chăn bò,trông em.... Hoàn cảnh của gia
đình em học sinh quanh vùng. Những ngày bắt đầu vào năm học mới, học sinh
lớp 1A của tôi chưa đến lớp đủ, em thì chưa muốn đi học, có em còn theo cha
mẹ vào tận nương rẫy trên núi cao chưa về.
c. Về phía phụ huynh
Trình độ học sinh trong một lớp không đồng đều, số em học tốt thì rất ít,
em chưa hoàn thành thì còn nhiều. Việc giáo dục con cái phụ huynh thường phó
mặc cho nhà trường. Như chúng ta đã biết một phần nhỏ các bậc cha mẹ của học
sinh là người đi trước không được học hành nên ảnh hưởng đến vấn đề nhận
thức của các bậc phụ huynh, phụ huynh xem nhẹ việc học tập của con em mình.
Trong nhiều năm qua có rất nhiều em trong trường cuối năm còn lưu ban, các
em không thích đến trường, tới lớp (các em đi học vì sự bắt buộc của gia đình,
vì sợ bố mẹ cho ăn đòn nhiều hơn tự nguyện đến trường). Nhiều em rất ít tiếp
xúc với các thầy cô, chán học và trốn học đi học không đều.
2.2.2. Nguyên nhân
a. Về phía học sinh :
Những nguyên nhân học sinh đi học không chuyên cần :
Học sinh ham chơi ,… chểnh mảng việc học.
Học sinh thích thể hiện cá tính của mình bằng cách chống đối : chống đối
trường lớp, thầy cô, cha mẹ và chống lại việc học.
4
Bị mất kiến thức … hoặc do một nguyên nhân nào đó mà học sinh không
đi học được… khi học những bài học sau không hiểu từ đó sinh ra chán học, dẫn
đến học tập sa sút.
c. Về phía phụ huynh:
Do gia đình vì một lí do nào đó (về kinh tế, tình cảm vv...) không quan tâm
đến sự học hành của con cái. Phó mặc mọi việc cho nhà trường. Dẫn đến các em
không có ý thức tự giác trong học tập.
Do trong gia đình có sự thay đổi lớn như: bố uống rượu, hay cãi vã đánh
nhau, gia đình tan vỡ vv… Làm cho trẻ bị thay đổi về tâm lí dẫn đến chán học…
Một số cha mẹ quá nuông chìu con cái, quá tin tưởng vào chúng nên học
sinh lười học xin nghỉ để làm việc riêng (như đi chơi la cà ...) cha mẹ đi làm
không biết con cái đi đâu, làm gì, vô tình là đồng phạm góp phần làm học sinh
lười học, mất dần căn bản...và rồi yếu kém dẫn đến chán học!
Để đổi mới phương pháp dạy học sinh chưa hoàn thành thì việc đầu tiên
nhà trường luôn quan tâm đến việc tạo sự hứng thú cho học sinh trong học tập,
tạo sự ham thích trong học tập, ham thích được đi đến trường và cần chú ý
những phương pháp, biện pháp sau:
2.2.3. Tiến hành khảo sát:
Tôi đã tiến hành khảo sát mức độ đi học đầy đủ và chuyên cần của học
sinh lớp 1A từ đó lấy căn cứ để làm cơ sở kiểm chứng sau này. Kết quả thu được
như sau
Đi học chuyên cần
Đi học chưa chuyên cần
Số học sinh
SL
%
SL
%
24
5
21%
19
79%
Qua số liệu khảo sát trên cho ta thấy mức độ học sinh đi học đầy đủ và
chuyên cần là rất ít và rất đáng lo ngại, điều này ảnh hưởng trực tiếp tới chất
lượng dạy của giáo viên và chất lượng học của học sinh. Vậy vấn đề đặt ra ở đây
chính là cần phải có những biện pháp cụ thể, hiệu quả và phù hợp để cải thiện
tình trạng học sinh nghỉ học nhiều. Là một giáo viên đã nhiều năm đứng trên bục
giảng, bản thân tôi lại là giáo viên địa phương được dạy ngay chính con em của
quê hương mình, sau những chăn trở tôi xin mạnh dạn được đưa ra những biện
pháp để cải thiện những hiện trạng trên.
2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1: Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy phụ đạo
Ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê được số lượng học sinh tiếp thu bài
chậm và có nguy cơ trở thành học sinh Chưa hoàn thành các hoạt động giáo dục
ở lớp mình. Phải tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự tiếp thu bài chậm đó ở
học sinh. Phân loại học sinh theo những nguyên nhân chủ yếu và có kế hoạch
giúp đỡ thích hợp với từng loại. VD: Học sinh học có kết quả Chưa hoàn thành
vì ham chơi và hay chơi với bạn xấu,nhác học hoặc vì hoàn cảnh gia đình.
5
Từ đó giáo viên có kế hoạch dạy phụ đạo vào các buổi cho thích hợp, giải
quyết việc học không tập trung,tiếp thu chậm của học sinh, từ những nguyên nhân
trên. VD: Học sinh Chưa hoàn thành vì mất kiến thức từ ban đầu thì tổ chức phụ
đạo cho các em lấy lại kiến thức, Chưa hoàn thành vì ham chới thì quản lí các em
tốt hơn tổ chức các hình thức vui chơi để các em ham thích học tập… học sinh
Chưa hoàn thành vì hoàn cảnh gia đình thì giáo viên phối hợp với phụ huynh để
tìm biện pháp tháo gỡ… Giáo viên cần xác định được mức độ học sinh tiếp thu của
từng em, như các em còn học chậm môn gì ?… kiến thức gì ?… Tôi có một cuốn
sổ để theo dõi chất lượng học sinh tiếp thu chậm ở lớp mình… biện pháp đã đề ra,
sự chuyển biến của học sinh theo từng tuần ,từng tháng…
Giải pháp 2: Phương pháp dạy học bằng tình thương:
Để giúp đỡ học sinh tiếp thu bài chậm giáo viên phải biết sử dụng lời nói,
cử chỉ, tổ chức các hoạt động dẫn dắt các em vào bài học, giúp các em yêu mến
bạn bè, trường lớp, thầy cô...Giáo viên muốn học sinh ham thích học thì trong
tiết dạy điều cần thiết là phải thể hiện được tác phong sư phạm mẫu mực, gần
gũi, ân cần với học sinh. Tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh.
Trong giảng dạy giáo viên lưu ý lời nói phải nhẹ nhàng, giữa giáo viên và
học sinh luôn có sự ăn ý nhịp nhàng, khi giảng bài giáo viên phải luôn quan sát
học sinh trong lớp, đặc biệt những em tiếp thu bài chậm hay nghịch ngợm. Mỗi
lần học sinh có ý kiến nếu trả lời sai thì phải giúp học sinh hiểu cái sai, không
nên để cho học sinh ngồi xuống mà không biết mình sai điểm nào, đừng để học
sinh bị mất mặt trước mặt bạn bè, làm trò cười cho lớp học. Không sử dụng
thước làm công cụ doạ học sinh, sử dụng thước nhẹ nhàng tránh việc gõ thước
quá mạnh làm học sinh giật mình. Biết động viên, khích lệ học sinh dù các em
chưa thật sự tiến bộ hay tiến bộ rất chậm. Giáo viên biết sử dụng năng khiếu của
mình làm tiết học thêm sinh động. Ví dụ: Tìm những câu truyện vui kể cho các
em, hay pha một vài câu hài hước để học sinh cảm thấy thoải mái... Một tiết học
mà học sinh hoạt động vui vẻ, có tiếng cười sẽ có hiệu quả hơn.
6
Để các em tiếp thu bài chậm mạnh dạn hơn thì giáo viên phải biết yêu
thương, gần gũi, tạo sự thân tình để các em hòa đồng vào môi trường học tập ở
trường lớp. Để từ đó các em có ấn tượng tốt với trường lớp, thầy cô mà ham
thích học tập. Giáo viên phải biết gần gũi tâm sự, với trò chuyện với những học
sinh Chưa hoàn thành đặc biệt những em nhút nhát. Hỏi các em về chuyện gia
đình, về chuyện học hành, để các em cảm thấy thân thiện với giáo viên hơn và
qua đó giáo viên sẽ hiểu được nguyên nhân vì sao các em học Chưa hoàn thành,
hiểu về tâm tư tình cảm, hoàn cảnh các em để có biện pháp dục tốt hơn.
Ví dụ : Nhà em ở đâu? Bố mẹ làm gì ? Hôm nay ai chở em đi học? Hôm
nay em có hiểu bài không? Có cần cô giúp gì không vv...
Nhiều khi chỉ một câu nói, một cử chỉ của thầy cô mà thay đổi cả cuộc đời
các em. Làm cho các em thấy thầy cô luôn quan tâm đến mình, không ghét bỏ
mình và các em thêm gần gũi, yêu mến thầy cô, tự tin vào bản thân mình (Như
một lời khen hay một lời khuyến kích, động viên, một cử chỉ thân mật). Đối với
những em còn thiếu tự tin thì giáo viên nên tìm lấy một ưu điểm nào đó của các
em để khen ngợi động viên. Hãy luôn khen học sinh, cố tìm ưu điểm dù nhỏ
nhất để khen. Ngoài ra nếu có thể cuối học kì cần phải khen thưởng một mặt
cho các em Chưa hoàn thành mà học tập có tiến bộ ở một mặt nào đó. Nhằm
động viên các em có thêm hứng thú trong học tập, tránh tình trạng chỉ khen
thưởng cho học sinh học tốt ...
Giải pháp 3: Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành.
Để học sinh chưa hoàn thành học tập có kết quả chúng ta cần cho học sinh
thấy các em luôn được thầy cô tin tưởng, thương yêu, được làm việc có ích cho
trường, lớp thầy cô bằng cách giao việc cho các em làm.
Giáo viên thường xuyên tìm những việc nhỏ, thích hợp hàng ngày ở lớp để
giao các em làm. Đặc biệt những học sinh chậm tiếp thu lại có tính nhút nhát,
rụt rè để các em mạnh dạn, gần gũi thầy cô hơn. Và các em này sẽ rất vui, rất tự
hào và cảm thấy mình đã làm việc có ích và từ đó học tập được tốt hơn.
VD : Nhờ các em cắt dán tranh ảnh vào góc học tập, quét lớp, nhờ tưới cây,
khiêng bàn ghế,…Làm cho các em thêm gần gũi với thầy cô và cảm thấy mình
được thầy cô tin tưởng giao phó nhiệm vụ trước lớp từ đó các em có thêm chút tự
tin vào bản thân mình, gần gũi trường, lớp hơn. Ham học và cố gắng học tập hơn...
Đặt biệt là những học sinh chưa hoàn thành vì ham chơi, vì không chịu
học thì chúng ta cần làm cho các em này yêu thích trường lớp, rồi mới yêu thích
học tập.
VD: Có một học sinh cá biệt lớp 1A: Em Vi Văn Nghị, Lương Văn Thành
nhìn khuôn mặt các em rất hiền, học tiếp thu rất chậm, đến trường lại hay đánh
bạn, nghịch ngợm...là học sinh lưu ban nhiều năm. Tôi hay phân cho các em đó
làm trực nhật. (nói rằng đây là nhiệm vụ rất quan trọng các em phải cố gắng làm
thật tốt). Chỉ trong vòng vài ngày em đó không còn nghịch phá nữa. Đến trường
ăn mặc gọn gàng và làm công tác trực nhật rất tích cực. Và trong vòng một
tháng học lực của em Vi Văn Nghị đã chuyển biến từ học Chưa hoàn thành
7
chuyển lên Hoàn thành. Đó là do khi được phân công làm trực nhật em đó thấy
mình được tôn trọng và cố gắng xứng đáng với sự tôn trọng đó, xứng đáng với
nhiệm vụ được giao nên đã tự giác sửa mình tốt hơn, cố gắng học tập tốt để các
bạn, thầy cô tôn trọng mình hơn.
Trong giảng dạy ở lớp cũng vậy tôi cũng giao cho các em học chưa hoàn
thành bài tập ở lớp, (nhằm giúp các em lấy lại kiến thức đã mất) lưu ý là ở mức
độ vừa phải tránh ngay lúc đầu đưa ra một lượng kiến thức quá lớn khiến các em
thấy việc học quá nặng nề. Khi giao việc giáo viên phải biết được việc đó các
em làm được không quá sức, và phải kiểm tra thường xuyên việc thực hiện ở các
em,phải khen ngợi khi em hoàn thành công việc...Tránh không kiểm tra công
việc đã giao...
Giải pháp 4: Phương pháp thư giản (vui chơi) trong các tiết học:
Trong học tập có rất nhiều môn học khô khan, nặng về kiến thức như toán,
chính tả vv…Đối với học sinh thường không có hứng thú học những môn này (trừ
những em Hoàn thành tốt thì ham học ). Như vậy để tạo được sự hứng thú, ham
thích việc học ở học tiếp thu chậm giáo viên cần tăng cường các trò chơi, hình thức
học tập sinh động trong tiết học. Khi tổ chức một trò chơi thì học tiếp thu chậm sẽ
tham gia hết mình và qua trò chơi giáo viên giúp học sinh nắm được kiến thức, hiểu
được bài hơn. Ngoài các trò chơi giáo viên cần tổ chức các hình thức học tập sinh
động khác để giúp học tiếp thu chậm có hứng thú trong học tập như đóng kịch,
phỏng vấn…Trong các tiết ôn, giáo viên đều phải tổ chức giờ học sinh động, vui
tươi như vậy mới mang được hiệu quả cao. Nhiều hình thức học tập sinh động khi
tổ chức không nên cầu kì quá dẫn đến mất thời gian, tốn kém… giáo viên nên chọn
các hình thức học tập đơn giản nhưng mang hiệu quả cao…
Giải pháp 5: Tạo môi trường giáo dục tốt
Với trường lớp như hiện nay, đội ngũ GV nhiệt tình, sự quan tâm của BGH,
có sân chơi thoáng mát đó là một thuận lợi rất lớn để xây dựng một môi trường
sư phạm tốt cho học sinh vui chơi, học tập. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung
cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú
không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn cùng học sinh lưu ý về tài sản của trường, chăm
sóc trường lớp như nhà của mình để cùng nhau lao động, làm vệ sinh, trang trí
trường lớp....
Giờ ra chơi, tôi tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo để
tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần gủi thân mật giữa học sinh
với giáo viên. Trong chương trình kế hoạch hàng tháng tôi tổ chức những buổi
vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt sao nhi đồng, sinh hoạt theo chủ điểm với
hình thức đố vui, ôn tập, thể dục thể thao... Các hoạt động ngoại khóa như thi kể
chuyện, vẽ tranh, hát ….
8
Học sinh lớp 1A khu Chính trường Tiểu học Tén Tằn đọc sách báo giờ ra chơi
Bằng hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích, tìm tòi tham gia tích
cực cho phong trào của lớp của trường tổ chức. Vì vậy cứ đến ngày cuối tuần là
các em rất buồn vì sắp phải xa không khí học tập, hứng thú ấy và mong gặp
nhau trong những tuần học tới, kể cho nhau nghe những gì vui nhất mà các em
đã tham gia và chứng kiến .
Tôi cũng thường xuyên quan tâm đến hoàn cảnh sống của một số em học
sinh nghèo đa số là ở Bản Chiềng Cồng nhằm tìm ra phương pháp khắc phục
khó khăn. Thỉnh thoảng tôi thường cùng một số em đến nhà chơi thăm những
em có hoàn cảnh gia đình khó khăn để động viên, giúp các em tiếp tục đến
trường. Liên lạc, trực tiếp trao đổi với phụ huynh học sinh về việc học tập, tâm
tư, tình cảm của các em. Từ đó động viên khuyến khích phụ huynh học sinh có
hướng khắc phục cho con em đến trường đều đặn ( đối với những gia đình có
hoàn cảnh khó khăn, ít quan tâm đến việc học tập của con cái hoặc có ý định
cho con nghỉ học ).
Giáo dục riêng đối với những trường hợp học sinh trốn học, nghỉ học không
phép, hay liên tục nghỉ học nhiều ngày và báo về để gia đình kịp thời nắm rõ có
biện pháp kết hợp với nhà trường quản lý các em.
Giải pháp 6: Phương pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp:
Để giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành ngoài các tiết học chính khóa, giáo
viên cần thông qua các tiết hoạt động ngoài giờ lên lớp. Như tiết sinh hoạt lớp
các hoạt động ngoài trời…
9
Trong tiết sinh hoạt lớp giáo viên có thể tổ chức tuyên dương các em học
tiếp thu chậm (dù đó là những tiến bộ nhỏ nhất) nhằm làm cho các em có thêm
hứng thú trong học tập và để cho các em thấy mọi nỗ lực các em luôn được giáo
viên và bạn bè đánh giá cao. Hoặc giáo viên có thể tổ chức cho lớp mình hoạt
động đọc lập. Giáo viên có thể soạn một số câu hỏi (Nội dung câu hỏi là các
kiến thức các em chưa nắm bắt được) giao cho các em chưa hoàn thành đại diện
cho các tổ về học và tìm hiểu để hôm sau lên thi…Và khi nhận trách nhiệm này
các em chưa hoàn thành sẽ cố gắng để làm và tìm hiểu để hôm sau lên thi đua
với các bạn. Một khi có hình thức thi đua trong các hoạt động sẽ luôn kích thích
các em cố gắng và làm những việc hàng ngày các em không làm được… VD:
trong lớp 1A một số em chưa thuộc bảng chữ hoa, chữ thường , giáo viên giao
cho các em đó về học để hôm sau thi với các tổ khác. Tất nhiên khi được giao
các em đó sẽ cố gắng về học để thi được tốt hơn…
(HS tham gia hoạt động NGLL múa hát sân trường)
Giải pháp 7: Phong trào “Giúp bạn vượt khó ”.
Trong lớp có một vài em học sinh vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn,
thiếu điều kiện học tập, thiếu sự quan tâm của bố mẹ, làm cho các em buồn nản,
tủi thân mà không muốn đến lớp. Cụ thể, trong năm 2016 - 2017 phong trào
“Giúp bạn vượt khó ” luôn được sự quan tâm rất nhiều, ngay từ đầu năm tôi lên
kế hoạch và phát động. Kêu gọi các em làm kế hoạch nhỏ, đóng góp lại mua vở ,
bút, sách vở… Mục đích giáo dục các em tinh thần tương thân tương ái giúp bạn
có điều kiện học tập tiến bộ, vơi đi những khó khăn mà các em phải gánh chịu.
Món quà dù nhiều hay ít nhưng đó là nguồn an ủi, động viên rất lớn đối với các
em có hoàn cảnh khó khăn giúp các em vui vẻ và thích đi học hơn.
Ngoài ra, hàng tuần trong giờ sinh hoạt lớp tôi nhắc nhở học sinh không
nghỉ học với những lý do không chính đáng như đi ăn cưới,làm nhà mới ,…. Tôi
tổng kết ngày nghỉ của các em từ các lớp phân tích cho các em thấy nghỉ học
10
như thế nào là chính đáng và không chính đáng, và việc nghỉ học của mình làm
ảnh hưởng đến lớp, thầy cô bạn bè phiền lòng như thế nào, đến kết quả học tập
và xếp loại của bản thân. Vì vậy, mà các em có hơi đau đầu vẫn cố gắng đến lớp
chứ không dám nghỉ học.
(HS tham gia học nhóm)
Giải pháp 8: Phối hợp với phụ huynh học sinh.
Học sinh học Tốt hay chưa hoàn thành trước hết phụ thuộc vào rất nhiều từ
phía gia đình, gia đình thiếu sự quan tâm trong việc giáo dục, chăm lo việc học
hành của con em mình. Thêm vào đó, những tác động xấu của môi trường xã hội
đã lôi kéo các em như ham chơi, đua đòi, nghe bạn bè xấu rủ rê, dẫn đến lơ là
việc học hành, không có kiến thức căn bản gây nên chán nản, bỏ học. Một gia
đình êm ấm, hòa thuận, cha mẹ biết chăm lo cho con cái, tạo điều kiện thuận lợi
để con em học hành, biết giáo dục con ích lợi của việc học thì học sinh sẽ học
tốt hơn. Ví dụ: Một học sinh làm hư bút, không có bút đến trường, học sinh đó
sẽ sợ đi học vì không có bút chép bài, làm bài được, có thể sợ cô phạt. Nếu cha
mẹ kịp thời mua bút cho con, yêu cầu con cẩn thận hơn thì học sinh đó sẽ vui vẻ
đi học. Nếu bố mẹ la mắng hoặc không mua bút thì sẽ làm cho em đó đi học với
tâm trạng lo sợ thầy cô phê bình và có thể trốn học. Từ đó trở thành học sinh học
chưa hoàn thành.
Vậy giáo viên cần biết phối hợp với phụ huynh trong việc tạo sự ham thích
cho học sinh khi đến trường. Hiện nay một số phụ huynh không biết cách giáo
dục con cái, thường đánh đập, la mắng khi con em mình mắc phải một lỗi lầm
11
nào đó ở trường lớp (như đánh nhau với bạn), làm cho các em sợ sệt, ức chế khả
năng học tập, giảm đi niềm ham thích học tập. Do đó giáo viên chủ nhiệm cần
trao đổi, hướng dẫn phụ huynh nên tạo điều kiện tốt để cho để con em mình đến
trường (bảo đảm thời gian đến trường, sắm dụng cụ học tập, giúp con học ở
nhà, cùng vui chơi học tập với con em mình, nhắc nhở con cái giờ học…), khi
giáo dục con em nên nhẹ nhàng, cần cho các em hiểu việc đó đúng sai thay vì la
mắng trừng phạt.
Việc quan tâm đến bạn bè của con em cũng rất quan trọng. Chơi với bạn
xấu trước sau gì các em cũng nhiễm thói xấu. Phụ huynh chú ý đến những thời
gian rảnh rỗi của con em mình, cần biết các em đi đâu, chơi chỗ nào. Đừng cho
các em quá nhiều thời gian tự do một mình mà cha mẹ không biết. Cần liên lạc
với giáo viên để biết tình hình của con em mình, như có đến trường không? Học
có tiến bộ không ? Có hành vi gì cần sửa chữa vv...
Khi học sinh học chưa hoàn thành phụ huynh cần giúp con em lấy lại niềm
tin học tập, nhận thức được học là một hoạt động đầy hứng thú. Cần có sự ham
thích mới học tốt được. Giúp con em thấy được từ những bài học trên lớp con sẽ
học được rất nhiều điều thú vị mà đều là những tri thức có lợi cho bản thân. Cần
giúp trẻ vượt qua khó khăn để lấy lại kiến thức đã mất, động viên con khi chưa
được bông hoa học tốt, hoa tiến bộ thì cũng không nên quá chán nản, mà nên
tìm ra nguyên nhân để lần sau cố gắng làm bài tốt hơn.
Giáo viên thường xuyên thông tin cho phụ huynh có con em học chưa hoàn
thành để phụ huynh biết. Trao đổi các biện pháp giúp học sinh học ở nhà.
(Giáo viên chủ nhiệm đến vận động và trao đổi với phụ huynh)
12
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua một thời gian cố gắng và áp dụng thường xuyên những biện pháp nêu
trên, tình trạng học sinh vắng học vô lí do đã được cải thiện rõ rệt, cũng từ đó
mà các em luôn có hứng thú khi tới trường, luôn tự tin khi vào lớp, giữa giáo
viên và học sinh đã trở nên gần gũi hơn, thân thiện hơn.
Dưới đây là bảng khảo sát chất lượng duy trì sĩ số của học sinh lớp 1A
Đi học chuyên cần
Đi học chưa chuyên cần
Số học sinh
SL
%
SL
%
24
22
91.6%
2
8,4%
Qua việc thực hiện các biện pháp trên để giúp đỡ học sinh học chưa hoàn
thành. Kết quả cho thấy học sinh ham học hơn, học tập có tiến bộ, năng động
trong học tập cũng như sinh hoạt vui chơi. Số lượng học sinh nghỉ học vì chán
học không có. Từ đầu năm học số học sinh chưa hoàn thành môn Tiếng Việt là 9
em, môn toán là 8 em thì cuối học kì một vừa qua đã giảm xuống môn Tiếng
Việt còn 4 em, môn toán 4 em, trong thời gian tới cô trò cùng phấn đấu để giảm
số lượng học sinh chưa hoàn thành xuống. Những gì viết trong bài này có thể
ứng dụng riêng đối với từng cá nhân giáo viên đứng lớp trong từng tiết dạy,
cũng như giáo viên đặc thù. Tất nhiên nội dung bài viết chưa được sâu, và còn
nhiều mặt chưa được đề cập đến việc thực hiện với thời gian còn ngắn. Nên khi
vận dụng cần cố gắng rút thêm kinh nghiệm từ thực tế trường mình vì mỗi
trường có một điều kiện khác nhau để công việc đạt kết quả hơn.
Tóm lại, cần tạo được môi trường thân thiện trong nhà trường. Sự gắn bó
mật thiết giữa thầy với trò, giữa học sinh với học sinh, tạo được không khí vui
vẻ học tập, vui chơi trong suốt thời gian ở trường thì chắc chắn các em sẽ đến
lớp đến trường đều đặn, bằng sự tự giác, tích cực và sẽ cảm thấy tiếc nuối khi
phải bỏ học, nghỉ học.
13
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Để duy trì và đảm bảo sĩ số đạt kết quả tốt, mỗi giáo viên chúng ta nói
chung và đối với riêng tôi phải luôn tìm tòi biện pháp thích hợp mang lại hiệu
quả cao nhất cho từng năm học. Bản thân tôi luôn coi trọng những biện pháp đã
trình bày ở trên.
Qua bao năm tận tụy với nghề nghiệp, hết lòng yêu nghề, mến trẻ thực hiện
phương châm “Tất cả vì học sinh thân yêu” và theo định hướng của bộ giáo dục
và đào tạo về xây dựng “trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Kết hợp với
kinh nghiệm bao năm gắn bó với nghề,đặc đã nhiều năm được phân công giảng
dạy lớp 1 , tôi đã phối hợp tốt với bạn bè đồng nghiệp ,với ban giám hiệu đưa ra
nhiều biện pháp duy trì sĩ số lớp chủ nhiệm và sĩ số học sinh toàn trường. Đây là
một trong những tác động lớn đã đưa tôi đến việc nghiên cứu đề tài thiết thực
hơn nhằm thực hiện đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả cao nhất.Thực
hiện đúng nguyên lý Giáo dục của Đảng,Giáo dục kết hợp với gia đình – Nhà
trường và xã hội ,mỗi thầy cô giáo là một tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Vâng lời Bác Hồ dạy ,bản thân tôi là người ươm mầm cho đất nước,tôi nguyện
ra sức phấn đấu hết sức để tạo cho các em một tương lai tốt đẹp,góp một phần
công sức nhỏ bé của mình vào việc xây dựng quê hương đất nước.
3.2. Kiến nghị.
Chính quyền địa phưong cần phải tuyên truyền giáo dục nhận thức cho
nhân dân,đặc biệt là phụ huynh học sinh ,để có nhận thức đúng đắn về Giáo dục,
từ đó có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi và đưa con em ra lớp đều hơn.
Nhà trường nên thường xuyên tổ chức các phong trào thi đua học tập, để
các em được tham gia và phải có khen thưởng kịp thời nhằm khuyến khích,động
viên các em.
Trên đây là toàn bộ sáng kiến kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút ra
được trong quá trình dạy học. Tuy chưa phải là hoàn hảo nhưng tôi hi vọng rằng
phần nào sẽ giúp ích rất nhiều trong công tác chủ nhiệm, đặc biệt là việc vận
động học sinh ra lớp và duy trì sĩ số lớp Một mình chủ nhiệm và học sinh của
toàn trường trường Tiểu học Tén Tằn ngày càng được nâng cao. Góp phần đưa
phong trào Giáo dục của xã nhà ngày một đi lên.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
Thanh hóa, ngày 8 tháng 4 năm 2017
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Hà Thị Đầm
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tranh ảnh, số liệu của lớp 1A khu chính, trường Tiểu học Tén Tằn năm học:
2016 – 2017.
2. Thông tư, công văn của BGD& ĐT về việc xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực.
3. Điều lệ trường Tiểu học.
4. Sách tâm lý lứa tuổi, NXH Quốc gia Hà Nội.
15
MỤC LỤC
1. Mở đầu..............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................1
1. 3. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................2
1.4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................2
1.5 Những điểm mới của ssáng kiến kinh nghiệm................................................2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................3
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm........................................................3
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.........................4
2.3. Các giải pháp đã áp dụng để giải quyết vấn đề..............................................5
Giải pháp 1: Xác định nguyên nhân, lập kế hoạch dạy phụ đạo...........................6
Giải pháp 2: Phương pháp dạy học bằng tình thương...........................................6
Giải pháp 3: Phương pháp giao việc cho học sinh chưa hoàn thành.....................7
Giải pháp 4: Phương pháp thư giản (vui chơi) trong các tiết học........................8
Giải pháp 5: Tạo môi trường giáo dục tốt.............................................................9
Giải pháp 6: Phương pháp tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp...................10
Giải pháp 7: Phong trào “Giúp bạn vượt khó ”...................................................11
Giải pháp 8: Phối hợp với phụ huynh học sinh...................................................11
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.........................................................................14
3. Kết luận, kiến nghị..........................................................................................16
3.1. Kết luận........................................................................................................16
3.2. Kiến nghị......................................................................................................16
Tài liệu tham khảo...............................................................................................17
16