ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG THỊ DUNG
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN VĂN CHẤN
TỈNH YÊN BÁI NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Thái Nguyên, năm 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
HOÀNG THỊ DUNG
KINH TẾ, VĂN HÓA HUYỆN VĂN CHẤN
TỈNH YÊN BÁI NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Đàm Thị Uyên
Thái Nguyên, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết
quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để
bảo vệ một học vị nào. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng.
Thái Nguyên, năm 2017
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Dung
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy giáo, cô giáo đã tham gia
giảng dạy lớp Cao học Lịch sử Việt Nam, những người thầy đã trang bị cho tôi tri
thức và kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực khoa học giáo dục.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo khoa Đào tạo sau đại học, khoa
Lịch sử trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, các bạn bè đồng nghiệp đã
động viên, nhiệt tình giúp đỡ tôi và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong khóa học.
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn PGS.TS Đàm Thị Uyên đã tận tình hướng dẫn
và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, năm 2017
Tác giả luận văn
Hoàng Thị Dung
ii
Trang
Trang bìa phụ
L i cam đoan ................................................................................................................... i
L
m ơn ...................................................................................................................... ii
Mục lục .........................................................................................................................iii
Danh mục các từ viết tắt ................................................................................................ iv
Danh mục các bảng ......................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..........................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................6
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................6
6. Đóng góp của luận văn ...............................................................................................7
7. Cấu trúc của luận văn..................................................................................................8
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI ...................11
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên. .........................................................................11
1.2. Lịch sử hành chính huyện Văn Chấn .....................................................................15
1.3. Đặc điểm cư dân và các thành phần dân tộc ..........................................................19
1.4. Tình hình chính trị - xã hội ....................................................................................23
Tiểu kết chương 1 .........................................................................................................30
Chƣơng 2. KINH TẾ CỦA HUYỆN VĂN CHẤN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX........31
2.1. Tình hình ruộng đất ở huyện Văn Chấn nửa đầu thế kỉ XIX. ...............................31
2.1.1. Sở hữu ruộng đất huyện Văn Chấn theo địa bạ Gia Long 4 (1805)...........................32
2.1.2. Sở hữu ruộng đất huyện Văn Chấn theo địa bạ thời Minh Mệnh 21 (1840) ......39
2.1.3. So sánh sở hữu ruộng đất ở Văn Chấn theo địa bạ Gia Long 4 (1805) và
Minh Mệnh 21 (1840) ...................................................................................................46
2.2. Hoạt động kinh tế ...................................................................................................51
2.2.1. Nông nghiệp ........................................................................................................51
2.2.2.Thủ công nghiệp và thương nghiệp .....................................................................53
iii
2.3. Thuế khóa ..............................................................................................................56
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................................58
Chƣơng 3. VĂN HÓA HUYỆN VĂN CHẤN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX ...............59
3.1. Làng bản và nhà cửa ..............................................................................................59
3.2. Ẩm thực .................................................................................................................63
3.3. Trang phục .............................................................................................................67
3.4. Phong tục, tập quán ................................................................................................69
3.5. Lễ hội .....................................................................................................................81
Tiểu kết chương 3 .........................................................................................................87
KẾT LUẬN ..................................................................................................................88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................91
PHỤ LỤC.....................................................................................................................95
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND
Hội đồng Nhân dân
UBND
Ủy ban Nhân dân
TS
Tiến sỹ
PGS
Phó Giáo sư
GS
Giáo sư
TƯ
Trung ương
QSQTN
Quốc sử quán triều Nguyễn
TCN
Trước công nguyên
TTLTQGI
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Nxb
Nhà xuất bản
Tr
Trang
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thành phần các dân tộc huyện Văn Chấn ......................................... 22
Bảng 2.1. Tình hình ruộng đất huyện Văn Chấn thời Gia Long (1805) ............ 33
Bảng 2.2. Bình quân thửa và bình quân số chủ thời Gia Long (1805) .............. 35
Bảng 2.3: Quy mô sở hữu ruộng đất tư thời Gia Long (1805) .......................... 36
Bảng 2.4: Sự phân bố ruộng đất các nhóm họ thời Gia Long (1805) ................ 37
Bảng 2.5: Chức sắc thời Gia Long 4 (1805) ...................................................... 38
Bảng 2.6: Thống kê tình hình ruộng đất thời Minh Mệnh 21 (1840) ................ 40
Bảng 2.7: Quy mô sở hữu ruộng đất thời Minh Mệnh 21 (1840) ...................... 41
Bảng 2.8: Bình quân thửa và bình quân sở hữu một chủ thời Minh Mệnh ....... 42
Bảng 2.9: Sở hữu ruộng đất nhóm họ theo địa bạ Minh Mệnh 21 (1840) ......... 43
Bảng 2.10: Sở hữu ruộng đất các chức dịch thời Minh Mệnh 21 (1840) .......... 44
Bảng 2.11: Quy mô chức sắc thời Minh Mệnh 21 (1840) ................................. 45
Bảng 2.12: So sánh ruộng đất thời Gia Long (1805) và Minh Mệnh (1840) .... 46
Bảng 2.13: Quy mô sở hữu thời Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) ..... 48
Bảng 2.14: So sánh chức sắc thời Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840) ... 49
Bảng 2.15: So sánh nhóm họ thời Gia Long 4 (1805) và Minh Mệnh 21 (1840)... 50
Bảng 2.16: Biểu thuế ruộng công, tư năm 1803 ................................................ 57
Bảng 2.17. Biểu thuế thời Minh Mệnh năm 1840 ............................................. 57
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử dân tộc là lịch sử chung, bên cạnh đó mỗi địa phương lại có lịch sử
riêng về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
phong tục tập quán có khác nhau. Đó là một thực tế khách quan, vừa mang tính địa
phương vừa hòa đồng với quốc gia, dân tộc chung.
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XIX - thời Nguyễn, các triều vua Gia Long, Minh
Mệnh đã thực hiện nhiều chính sách tích cực về kinh tế, chính trị, đặc biệt là việc
cho lập địa bạ trong quản lí ruộng đất của nhà nước trên phạm vi toàn quốc và tiến
hành cải cách hành chính. Do vậy, thời điểm lịch sử này đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều nhà sử học, nhằm đánh giá lại một cách khách quan, cụ thể và
hệ thống hơn. Trong cuộc hội thảo quốc gia về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX (ngày 18,19/10/2008, tại
Thanh Hóa), GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam nhận định:
thời kì các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX là
một thời kì lịch sử đã trải qua những cách nhìn nhận và đánh giá hết sức khác nhau
có những lúc gần như đảo ngược lại. Triều Nguyễn được đặt trong khung lí thuyết
hình thái kinh tế xã hội là triều đại suy vong, lâm vào khủng hoảng nặng nề và chịu
nhiều phán xét không công bằng [43, tr.11]
Văn Chấn, là huyện miền núi của tây bắc nằm ở phía tây nam tỉnh Yên Bái, có
lịch sử lâu đời. Thời Hùng Vương, thuộc bộ Tân Hưng, đến thời Âu Lạc thuộc bộ
Giao Chỉ. Qua hàng nghìn năm lịch sử, nhiều lần thay đổi địa danh, địa giới hành
chính, đến triều Nguyễn (Thế kỉ XIX) thuộc vùng Thập Châu, tỉnh Hưng Hoá, sau là
vùng Tam tổng Nghĩa Lộ, thuộc tỉnh Hưng Hoá.
Hiện nay, huyện Văn Chấn có tổng diện tích tự nhiên 121.090,02 ha. Đây là
vùng có địa hình khá phức tạp nên chia thành 3 tiểu vùng kinh tế: Vùng trong (vùng
cánh đồng Mường Lò), vùng ngoài và vùng cao thượng huyện. Giao thông khá
thuận lợi có đường quốc lộ 32 và 37 đi qua nên có thể thông thương với các tỉnh
miền xuôi và miền núi. Văn Chấn là vùng đất có thể coi “đất lành chim đậu” nơi
1
hội tụ của nhiều dân tộc. Trên địa bàn Văn Chấn có 18 dân tộc anh em cùng sinh
sống. Dân tộc Thái, Tày là những người cư trú trên địa bàn từ lâu đời. Mường Lò Văn Chấn còn là trung tâm đầu tiên của người Thái ở Việt Nam rồi từ đây toả đi các
địa bàn khác. Các tộc người ở Văn Chấn mặc dù có nguồn gốc lịch sử khác nhau, có
dân tộc là cư dân bản địa, có dân tộc hay bộ phận dân tộc từ miền xuôi lên, có dân
tộc từ các vùng khác nhau của Trung Quốc di cư sang vào những thời điểm lịch sử
khác nhau nhưng khi đã định cư tại địa phương họ đã cùng nhau khai sơn lập
nghiệp, mở mang ruộng đồng, xây làng lập bản mới sinh sống lâu dài. Văn Chấn trở
thành quê hương của nhiều tộc người.
Quá trình cộng cư của nhiều thành phần tộc người gắn liền với quá trình phát
triển lâu dài của đất nước. Việc xây dựng cộng đồng chính trị - xã hội trong lịch sử
không tách rời việc xây dựng cộng đồng quốc gia dân tộc bao gồm nhiều thành phần dân
tộc. Trong lịch sử, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có những chính sách cụ thể để
đoàn kết cư dân vùng miền núi, củng cố quốc gia thống nhất, đẩy lùi các thế lực cát cứ
và các thế lực can thiệp từ bên ngoài. Việc nghiên cứu lịch sử của huyện miền núi
trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc không chỉ có ý nghĩa khoa học mà
còn có ý nghĩa thực tiễn.
Đất nước đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế. Song song với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, công cuộc
đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền trở nên quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi mỗi người
dân Việt Nam phải có sự hiểu biết đầy đủ hơn, khách quan hơn về Lịch sử dân tộc, về
quá trình dựng nước và đấu tranh giữ nước của cha ông ta. Từ đó, rút ra những bài
học kinh nghiệm sâu sắc mà trong đó có cả việc hay việc dở. Tuy nhiên, trên thực tế
hiện nay, một bộ phận người dân Việt Nam chưa có những hiểu biết căn bản về Lịch
sử dân tộc, chưa quan tâm đến lịch sử địa phương nơi mình sinh ra.
Là giáo viên dạy bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông thuộc khu vực miền núi tây
bắc, nay được tham gia khóa học cao học chuyên ngành Lịch sử Việt Nam tại Trường
Đại học Sư phạm Thái Nguyên, được lĩnh hội những kiến thức lịch sử quý báu do các
Giáo sư, phó Giáo sư, Tiến sĩ truyền thụ, đây vừa là vinh dự vừa là cơ hội để bản thân
trau dồi kiến thức, được nghiên cứu sâu sắc hơn về Lịch sử dân tộc. Tôi nhận thức được
2
vai trò đặc biệt quan trọng của Lịch sử dân tộc trong đó có lịch sử địa phương, góp phần
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng khối đoàn kết các dân tộc khu vực
miền núi phía bắc. Đến nay, việc nghiên cứu lịch sử địa phương huyện Văn Chấn một
cách có hệ thống, nhất là giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX, chưa được các nhà sử học
quan tâm, nghiên cứu. Từ đó, tôi lựa chọn đề tài làm luận văn thạc sỹ, đó là: “ Kinh tế,
văn hóa huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái nửa đầu thế kỉ XIX”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phạm Thận Duật viết: Tiên nho xưa cho rằng “Miệng muốn nói hãy nói bằng
miệng của người xưa. Tay muốn viết hãy viết bằng tay của người xưa”. Có lẽ vì cái mà
người xưa nói đã rất đầy đủ rồi, người sau không nên nói thêm nữa [9, tr.121]. Có thể
thấy việc nghiên cứu lịch sử là rất quan trọng. Nhưng trước khi nghiên cứu một vấn đề
lịch sử việc đầu tiên quan trọng nhất đó là việc tiếp cận các nguồn tài liệu đặc biệt là
các nguồn tài liệu có liên quan trực tiếp đến vấn đề đang nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi được thừa hưởng khá nhiều các kết quả nghiên
cứu của những người đi trước. Bởi vì, một công trình nghiên cứu về một huyện trong
thời gian như đã giới hạn vào nửa đầu thế kỉ XIX từ trước tới nay chưa được thực
hiện. Tuy nhiên, ở từng lĩnh vực và khía cạnh khác nhau các nhà nghiên cứu đã đề
cập đến vấn đề này một cách trực tiếp hay gián tiếp. Để phục vụ cho việc nghiên cứu
đề tài, tôi đã tiếp cận được với các nguồn tài liệu của các tác giả có uy tín liên quan
đến đề tài nghiên cứu. Những nguồn tài liệu này là cơ sở quan trọng tạo điều kiện cho
tôi thực hiện đề tài.
Trước hết là cuốn Hưng Hóa ký lược của Phạm Thận Duật (1825 - 1858) là tác
phẩm được viết bằng chữ Hán năm 1856 khi ông đang làm tri châu ở Tuần Giáo, tỉnh
Hưng Hóa. Trong cuộc đời hoạt động chính trị và văn hóa đa diện của mình, Phạm
Thận Duật trên phương diện học thuật đã để lại cho đời một tác phẩm địa phương chí
đặc sắc. Hưng Hóa kí lược gồm 12 mục, trình bày các phương diện lịch sử, địa lí, kinh
tế và văn hóa ... của tỉnh Hưng Hóa trong đó có huyện Văn Chấn lúc bấy giờ. Hưng
Hóa là tên một đạo trong 13 đạo thừa tuyên lập ra từ niên hiệu Quang Thuận của vua
Lê Thánh Tông, đến đầu thời Nguyễn (năm 1831) là một tỉnh gồm 3 phủ, 5 huyện 16
châu, địa vực khá rộng, phía đông liền với huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây;
3
phía tây giáp các huyện Kiến Thủy, Văn Sơn, phủ Khai Hóa nước Trung Quốc và các
nước Nam Chưởng, Xa Lí, phía nam giáp huyện Trình Cố, châu Quan Hóa, tỉnh Thanh
Hóa và huyện Lạc Yên, tỉnh Ninh Bình; phía bắc giáp châu Thu, tỉnh Tuyên Quang.
Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, tác phẩm nghiên cứu về địa lí
hành chính để nhận định cương vực của nước Việt Nam và vị trí các khu vực hành
chính trải qua các đời từ thời Văn Lang - Âu Lạc cho đến thời Nguyễn. Đây là một bức
tranh rộng lớn, mô tả sự phát triển và biến đổi của lãnh thổ Việt Nam.
Cuốn Đồng Khánh địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí đã khái quát về vị trí
địa lí, khí hậu, sông ngòi, phong tục tập quán…của các huyện, tỉnh trong cả nước,
trong đó có huyện Văn Chấn.
Trong kỷ yếu Hội thảo quốc gia Chúa Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch sử
Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX do Hội khoa học Lịch sử Việt Nam và Ủy ban
nhân dân tỉnh Thanh Hóa phối hợp tổ chức, ngày 18-19/10/2008. Cuốn Kỷ yếu này
đã được Nxb Thế Giới ấn hành năm 2008. Nội dung cơ bản của cuộc Hội thảo là nhìn
nhận và đánh giá toàn diện, cả mặt tích cực lẫn mặt hạn chế đối với chúa Nguyễn và
vương triều Nguyễn trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Điều cần nhấn mạnh là trong
cuốn kỷ yếu này có một số bài dù nội dung không liên quan trực tiếp tới đề tài nhưng
đã giúp cho tác giả luận văn có thêm nhận thức. Có thể kể đến Vấn đề ruộng đất
trong chính sách đối nội của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Vũ Văn
Quân; Bộ máy hành chính làng xã thời Nguyễn (nửa đầu thế kỷ XIX) của tác giả Vũ
Duy Mền; Sự phục hồi kinh tế và sự phát triển của quan hệ thương mại giữa hai nước
Trung Việt vào những năm đầu nhà Nguyễn (1802 – 1858) của tác giả Lương Chí
Minh; Ruộng của các chùa ở Thừa Thiên Huế dưới thời Nguyễn (1802 - 1945) của
Nguyễn Văn Phụng (Thiện Tuệ); Quản lý ruộng đất của nhà Nguyễn qua tư liệu địa
bạ của Phan Phương Thảo; Triều Nguyễn với thành tựu khai hoang ở đồng bằng Bắc
Bộ nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Đào Tố Uyên; Cải cách hành chính mới dưới triều
Minh Mệnh (1820 - 1840) của tác giả Nguyễn Minh Tường.
Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Thanh Xuyên (2015), kinh tế, văn hóa huyện
Trấn Yên tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX. Luận văn nghiên cứu sâu sắc, toàn cảnh về kinh tế,
văn hóa huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái thế kỷ XIX. Huyện Trấn Yên phía nam giáp
huyện Văn Chấn
4
Cuốn Văn hóa và lịch sử người Thái ở Việt Nam của Cầm Trọng, cuốn sách
gồm hai phần: phần chung và phần cụ thể. Cuốn sách tổng hợp những bài viết của
một số nhà nghiên cứu Thái học ở Việt Nam bao gồm về ngôn ngữ Thái, hình thái
kinh tế, xã hội, văn hóa của người Thái ở miền Bắc từ thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ
XX, đặc biệt là người Thái ở khu vực tây bắc.
Luật tục của người Thái ở Việt Nam của Ngô Đức Thịnh, Cầm Trọng. Luật tục
Thái phản ánh các sự chuyển động của cư dân Thái theo hai con sông Đà và sông
Thao suốt trong thời kì trung cổ cho đến thời kì cận đại, do đó những tài liệu trong
luật tục Thái rất có ích cho việc nghiên cứu địa lý, lịch sử của vùng tây bắc Việt Nam.
Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh Yên Bái đã xuất bản cuốn Tỉnh Yên Bái một
thế kỷ (Nxb Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2000), cuốn sách trình
bày về lịch sử Yên Bái với điều kiện tự nhiên và các nền văn hóa cổ đã từng tồn tại
trên đất Yên Bái xưa và về tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, truyền thống
yêu nước, cách mạng, sáng tạo của nhân dân Yên Bái từ đó đến nay.
Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nhân dân dưới triều Nguyễn do
Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang chủ biên đã nghiên cứu một cách sâu sắc về vấn đề
ruộng đất và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn.
Cuối cùng là bộ Văn Hóa dân gian gồm 11 tập, Sở văn hóa- thông tin tỉnh Yên
Bái đã tập hợp các phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo… của các tộc
người trong tỉnh Yên Bái.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu toàn diện về huyện
Văn Chấn tỉnh Yên Bái đặc biệt là giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Bởi vậy, còn nhiều
vấn đề quan trọng chưa được làm sáng tỏ như về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, kinh
tế, văn hóa, nguồn gốc các dân tộc. Tuy nhiên, tôi vẫn xem các thành quả nghiên cứu
của các nhà nghiên cứu đi trước là những ý kiến gợi mở quý báu, tạo điều kiện cho tôi
tiếp tục thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thực hiện đề tài này với tư cách là một người dân tộc miền núi phía bắc. Trước
hết, việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm hiểu sâu về tình hình kinh tế - văn hóa khu vực
5
miền núi phía bắc nửa đầu thế kỉ XIX trong đó có huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái, góp
thêm cơ sở khoa học về cư dân miền núi nói chung và cư dân miền núi phía bắc nói
riêng, lâu nay còn ít người quan tâm.
Rút ra những kết luận, đánh giá khách quan trên sở khoa học và rút ra bài học
kinh nghiệm cho thực tiễn. Với mong muốn góp phần tái hiện một cách chân thực,
khách quan, khoa học về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và con người trên mảnh
đất Văn Chấn, Yên Bái trong quá khứ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ vấn đề kinh tế của huyện Văn Chấn ở nửa đầu thế kỷ XIX.
Trình bày văn hóa của huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái nửa đầu thế kỷ XIX .
Nhận xét một cách khách quan về những vấn đề kinh tế, văn hóa huyện Văn Chấn
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tác giả tập trung nghiên cứu về kinh tế, văn hóa huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
nửa đầu thế kỷ XIX. Ngoài ra đề tài còn đề cập đến các vấn đề về vị trí địa lí, điều
kiện tự nhiên, đặc điểm dân cư hồi nửa đầu thế kỉ XIX và hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian: Nửa đầu thế kỉ XIX.
Phạm vi không gian: Văn Chấn thuộc phủ Quy Hóa tỉnh Hưng Hóa, đến nay Văn
Chấn thuộc tỉnh Yên Bái. Tác giả tập trung nghiên cứu theo địa danh lãnh thổ với hai
thời kì: thời Gia Long 4 (năm 1805) gồm 9 xã (Thượng Bằng La, Hạ Lộ, Phù Nham,
Sơn Bộc, Thạch Lương, Hương Sơn, Tú Dung, Hạ Bằng La và Đại Lịch) và thời Minh
Mệnh 21 (năm 1840) gồm 4 tổng 7 xã (Tổng Sơn A: xã Sơn A, Gia Nguyên; tổng Phù
Nham: xã Hạ Lộ, Sơn Bộc; tổng Hương Sơn: xã Hương Sơn, Thạch Lương và tổng Đại
Lịch: xã Đại Lịch).
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu chung: Đại Việt sử kí toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí,
Việt sử thông giám cương mục, Đồng Khánh Dư địa chí, Kiến Văn tiểu lục, Đại Nam
nhất thống chí…
6
Nguồn tư liệu địa phương: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái; Lịch sử Đảng bộ
huyện Văn Chấn, Tỉnh Yên Bái một thế kỉ…
Nguồn tư liệu địa bạ được sử dụng trong công trình nghiên cứu gồm 16 đơn vị
địa bạ trong đó 9 đơn vị địa bạ thời Gia Long 4 (năm 1805) và 7 đơn vị địa bạ thời
Minh Mệnh 21 (năm 1840), có 5 đơn vị địa bạ trùng nhau ở hai thời điểm. Các bản
địa bạ trên hiện đang lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Hà Nội. Đây là cơ sở
quan trọng để tác giả phục hồi lại các đơn vị hành chính cơ sở ở địa phương và phần
nào kết cấu kinh tế, xã hội, văn hóa của huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái.
Nguồn tư liệu điền dã: Nguồn tư liệu lịch sử có liên quan đến vấn đề kết cấu kinh
tế, xã hội, văn hóa, tổ chức chính trị ở khu vực miền núi ở giai đoạn nửa đầu thế kỷ
XIX rất ít. Do vậy, tác giả đã đi thực tế tại địa phương, thu thập được một số tài liệu do
địa phương cung cấp, trực tiếp đến làng bản của đồng bào dân tộc thiểu số quan sát,
phỏng vấn, ghi chép về phong tục tập quán, sinh hoạt, các câu ca dao, tục ngữ, cốt
truyện truyền miệng của họ nhằm liên hệ với các vấn đề có thật trong lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đây là đề tài lịch sử nên tác giả sử dụng các phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgic, phân tích, mô tả, so sánh, đối chiếu các nguồn tư liệu.
Bên cạnh đó còn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, hệ thống hóa. Đề tài
sử dụng nhiều tư liệu địa bạ nên khâu giám định tư liệu là đặc biệt quan trọng, nhất là
các tư liệu bằng chữ Hán để thấy được mức độ chính xác của nó. Đồng thời, kết hợp
với việc khảo cứu các nguồn tư liệu thành văn và tư liệu điền dã thực tế tại địa
phương để làm rõ nội dung chính của luận văn. Ngoài ra, luận văn còn kết hợp với
một số phương pháp liên ngành như địa lí học, văn hóa học để từ đó rút ra những
nhận xét, luận điểm khoa học. Phương pháp đồng đại và lịch đại giúp tác giả đặt
việc nghiên cứu lịch sử địa phương Văn Chấn nửa đầu thế kỉ XIX trong mối quan
hệ với lịch sử dân tộc để thấy được những tác động ảnh hưởng giữa lịch sử địa
phương và lịch sử dân tộc.
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài bước đầu nghiên cứu một cách cụ thể về kinh tế, văn hóa của huyện Văn
Chấn tỉnh Yên Bái nửa đầu thế kỷ XIX. Dựa vào nguồn tài liệu khai thác được, luận
7
văn bước đầu khôi phục một cách có hệ thống bức tranh về kinh tế, mối quan hệ tộc
người, những bản sắc văn hóa của cộng đồng cư dân, gắn với môi trường sinh thái địa
phương, vùng miền. Luận văn lần đầu công bố 16 đơn vị địa bạ của huyện Văn Chấn
nửa đầu thế kỉ XIX. Từ tài liệu địa bạ giúp chúng ta hiểu được chế độ sở hữu ruộng
đất và đơn vị hành chính cơ sở của huyện Văn Chấn dưới thời Nguyễn. Đồng thời,
góp phần tìm hiểu những nét chính về quan hệ cộng đồng làng xã, phong tục tập
quán, tín ngưỡng và sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người trên địa bàn.
Luận văn còn có thể là tài liệu giúp các nhà nghiên cứu, giảng dạy tham khảo.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, Tài liệu tham khảo, phụ lục, cầu trúc luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái.
Chương 2: Kinh tế huyện Văn Chấn nửa đầu thế kỷ XIX.
Chương 3: Văn hóa huyện Văn Chấn nửa đầu thế kỷ XIX
8
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH YÊN BÁI
Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Yên Bái
9
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI
Nguồn: Cổng thông tin điện tử huyện Văn Chấn
10
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN VĂN CHẤN TỈNH YÊN BÁI
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Vị trí địa lý
Nửa đầu thế kỉ XIX, huyện Văn Chấn thuộc phủ Quy Hóa tỉnh Hưng Hóa. Sách
Đại Nam nhất thống chí có ghi: huyện Văn Chấn đông tây cách nhau 184 (164) dặm,
nam bắc cách nhau 149 dặm, phía đông đến địa giới huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây 22
dặm, phía tây đến địa giới châu Quỳnh Nhai 142 dặm, phía nam đến địa giới châu
Phù Yên 111 dặm, phía bắc đến địa giới huyện Trấn Yên 38 dặm. Xét Hưng hóa
phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính chép: đất huyện Văn Chấn phía trên giáp các
châu Quỳnh Nhai và Sơn La, phía dưới giáp huyện Yên Lập, phía nam giáp châu Phù
Hoa và huyện Thanh Xuyên, phía bắc giáp huyện Trấn Yên và sông Thao [18, tr.327].
Sách Đồng Khánh địa dư chí chép như sau: “Văn Chấn là huyện thống hạt của phủ Quy
Hóa. Huyện lỵ đặt ở xã Đại Lịch, chu vi 40 trượng, bốn phía trồng rào tre, mở một cửa
trước. Huyện hạt phía đông giáp huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây, phía tây giáp châu Quỳnh
Nhai, phía nam giáp châu Phù Yên, phía bắc giáp huyện Trấn Yên. Đông tây cách nhau
164 dặm, nam bắc cách nhau 149 dặm” [13, tr.725]. Theo Hưng Hóa ký lược: huyện
Văn Chấn, đông giáp huyện Hạ Hòa, tây giáp châu Quỳnh Nhai, nam giáp châu Sơn La,
Phù Yên; bắc giáp huyện Trấn Yên [9, tr.148].
Văn Chấn ngày nay là một huyện miền núi, tổng diện tích tự nhiên là
121.090,02 ha, chiếm 17% diện tích toàn tỉnh. Huyện nằm ở phía tây nam tỉnh Yên
Bái, phía bắc giáp huyện Mù Cang Chải, phía đông giáp huyện Văn Yên và Trấn
Yên, phía tây giáp huyện Trạm Tấu, phía nam giáp tỉnh Sơn La. Văn Chấn cách trung
tâm chính trị, kinh tế, văn hoá tỉnh 72 km; cách thị xã Nghĩa Lộ 10 km; cách Hà Nội
200 km. Với vị trí địa lí này Văn Chấn có thể giao lưu với các huyện miền núi phía
bắc và một số tỉnh thuộc Trung du, đây là điều kiện thuận lợi cho giao lưu phát
triển kinh tế với các huyện trong tỉnh và các tỉnh Sơn La, Phú Thọ, Lai Châu.
Như vậy, trải qua những biến đổi về lịch sử địa giới hành chính và diện tích,
huyện Văn Chấn xưa rộng hơn nhiều so với ngày nay.
11
Điều kiện tự nhiên
Những cuộc vận động kiến tạo địa chất từ hàng chục triệu năm trước đây đã
tạo ra cho Văn Chấn một địa hình phức tạp có rừng, núi, hang động, suối khe chằng
chịt, thung lũng bằng phẳng. Văn Chấn nằm ở sườn phía đông bắc của dãy Hoàng
Liên Sơn. Độ cao trung bình so với mặt nước biển 400m. Sách Đại Nam nhất thống
chí chép: “Đất này bốn mặt đều là núi. Hạ Lộ có núi Khau Bút [18, tr.328]. “Xã
Thượng Bằng La có núi Chi Sơn, xã Đại Lịch có núi Khau Bút” [13, tr.726], “núi
Khau Bút ở huyện Văn Chấn, núi nhiều rắn độc, không ai dám qua” [18, tr.259].
Sách Hưng Hóa ký lược viết: huyện Văn Chấn có núi Khau Bút (tục gọi là Đèo
Chiến), có nhiều rắn độc, không ai dám đến; có Khe Vận, Khe Uyển, Khe Lao và ở
xã Hạ Lộ có nhiều suối độc [9, tr.155]. Vùng thượng huyện có một bộ phận thuộc dãy
Hoàng Liên Sơn hùng vĩ kéo dài quá đông bắc Mù Cang Chải về gần đến Tú Lệ hình
thành đèo Khau Phạ nổi tiếng. Vùng ngoài có đèo Lũng Lô và dãy núi Đá Xô, đèo
ách hùng vĩ. Đồng bằng Mường Lò, phía đông có dãy núi Bu và núi Dông; phía tây là
dãy núi Sà Phình, hai dãy núi này vòng ra như một vành đai kiên cố bảo vệ 9 xã vùng
đồng bằng Mường Lò. Nhìn từ núi cao xuống, theo quan niệm xưa, đây là thế “tả
Thanh Long - hữu Bạch Hổ”, một địa thế để dựng nghiệp muôn đời. Bên cạnh đó,
Văn Chấn còn có các hang Thẩm Lé, Thẩm Han, Thẩm Kia, Thẩm Thoóng, Thẩm
Bu. Địa hình khá phức tạp, chia thành 3 tiểu vùng kinh tế: Vùng trong (vùng cánh
đồng Mường Lò) gồm 12 xã, là vùng tương đối bằng phẳng, có cánh đồng Mường
Lò rộng trên 2.400 ha đứng thứ 2 trong 4 cánh đồng Tây Bắc. Vùng ngoài: gồm 9
xã, thị trấn, có lợi thế về phát triển vườn đồi, vườn rừng và trồng lúa nước. Vùng
cao thượng huyện: gồm 10 xã, có độ cao trung bình 600m trở lên, có tiềm năng về
đất đai, lâm sản, khoáng sản, chăn nuôi đại gia súc.
Sản vật tự nhiên khá phong phú và đa dạng mang đặc trưng của miền núi phía
bắc. Tài nguyên khoáng sản, có mỏ bạc Tú Lệ, mỏ chì, kẽm có trữ lượng hàng triệu
tấn, mỏ sắt ở Mỵ, mỏ nhiên liệu như than đá ở Phù Nham, vật liệu xây dựng như đá
vôi ở Đồng Khê. Theo ghi chép trong sách Đại Nam nhất thống chí: “Hương Sơn có
mỏ bạc, Sơn A có mỏ diêm tiêu” [18, tr.328], “Vàng…mỏ Gia Nguyên huyện Văn
Chấn đều có thuế” [18, tr.383]. Và, “Lúa thì có ngô, lúa nếp, lúa tẻ. Tre thì có tre
12
vầu, nứa. Gỗ thì phần nhiều là gỗ tạp. Các súc vật chăn muôi thông thường thì các
nơi trong huyện đều có. Thú rừng thì rải rác vài nơi cũng có hươu, nai, hổ, báo. Xã
Gia Hội có mỏ vàng đã đóng cửa, hiện đang sức cho khám thực” [13, tr.726].
Văn Chấn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa đông lạnh, khô hạn
và mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều. Sách Đồng Khánh địa dư chí chép: “Mùa xuân, mùa
hè mưa nhiều. Mùa thu, mùa đông rét nhiều. Việc nông chỉ làm ruộng vụ thu, cây cối
rậm rạp, sương mù bốc ngùn ngụt, khí lam chướng rất nặng nề” [13, tr.726]. Sách
Đại Nam nhất thống chí – mục tỉnh Hưng Hóa có viết: “Khắp tỉnh, tháng giêng mưa
nhiều, tháng 2, tháng 3 khí trời ấm áp, tháng 5, tháng 6 nóng bức, tháng 7, tháng 8
mưa nhiều, thỉnh thoảng có bão, tháng 10 bắt đầu hết sấm, tháng 11 gió rét, tháng 12
giá buốt, không mưa, sấm bắt đầu nổi… Các châu, huyện thượng du, nhân dân ở núi,
khí trời thay đổi, nóng lạnh không giống nơi khác, bắt đầu mùa nóng đã thấy nực,
chưa đến mùa đông đã thấy rét. Khí núi mù mịt, hàng ngày đến giờ Thìn, giờ Tỵ vẫn
chưa tan hết sương” [18, tr.347].
Khí hậu của huyện Văn Chấn đặc trưng là nhiệt đới gió mùa, nắng và mưa
nhiều, độ ẩm cao. Nhiệt độ trung bình ít biến động trong năm khoảng 18oc - 20 oc ,
cao nhất là 37 oc - 39 oc, mùa đông rét đậm nhiệt độ xuống dưới tới -2oc đến -4oc.
Tổng nhiệt độ cả năm khoảng 7.500oc - 8.100oc; lượng mưa được chia thành hai mùa
rõ rệt, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa mưa ít, từ tháng 4 đến tháng 10 hàng
năm là mùa mưa nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1200mm đến 1600mm.
Số ngày mưa trong năm 140 ngày. Độ ẩm bình quân từ 83% - 87%, thấp nhất là 50%.
Thời gian chiếu sáng nhiều nhất từ tháng 5 đến tháng 9, ít nhất từ tháng 11 đến tháng
3 năm sau; lượng bức xạ thực tế đến được mặt đất bình quân cả năm đạt 45%, thích
hợp phát triển các loại động thực vật Á nhiệt đới, ôn đới và các loại cây lương thực,
thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp. Nhìn chung, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Lượng bức xạ phong phú, nền nhiệt lượng cao đã
tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và cây lương thực ngắn
ngày, các ngành khai thác và chế biến có nhiều thuận lợi, các ngành du lịch và giao
thông có thể hoạt động quanh năm. Khí hậu mát ở vùng cao nên có thể trồng các loại
cây dược liệu và chăn nuôi gia súc. Bên cạnh những thuận lợi trên địa phương cũng
13
gặp nhiều khó khăn do điều kiện tự nhiên đem lại. Mùa đông gió rét lạnh buốt, sương
muối dẫn đến khô hạn, mùa hè nóng nực, mưa nhiều gây lũ lụt đặc biệt là lũ quét, mưa
đá làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống con người và sản xuất của địa phương.
Do điều kiện địa hình đồi núi dốc mạnh, lượng mưa lớn và tập trung nên tạo
cho Văn Chấn một hệ thống ngòi suối khá dày đặc, có tốc độ dòng chảy lớn và lưu
lượng nước thay đổi theo từng mùa. Suối Thia được hợp thành bởi các suối: Ngòi
Nhì, Nậm Tăng, Nậm Mười, Nậm Đông và được bắt nguồn từ vùng núi cao trên
2000m, ngoài việc cung cấp nước để tưới cho sản xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt
còn là tiềm năng phát triển thuỷ điện nhỏ và vừa. Theo sách Kiến văn tiểu lục thì sông
Thao lớn nhất chảy qua địa phận của huyện. Sông này bắt nguồn từ “nước Thổ Phồn,
chảy qua tỉnh Vân Nam Trung Quốc, hợp với các ngọn sông khác chảy ra địa giới
huyện Mông Tự, đến xứ Hưng Hóa chảy qua các xứ Ngòi mật, Ngòi Quyền, Ngòi Bắc
Sát thuộc ba động Trình Lan, Hoa Quán, Hương Sơn … Sông Thao có nhiều sa cát,
nước đỏ và đục, hạ lưu qua các trang Châu Quế” [11, tr.346]. Sách Đồng Khánh địa
dư chí cũng ghi chép:“Một dòng sông lớn từ chỗ giáp giang huyện Trấn Yên đến giáp
giang phận huyện Hạ Hòa tỉnh Sơn Tây. Đó là sông Thao, dài 10 dặm, rộng trên
dưới 100 trượng, sâu 1 trượng 5 thước” [13, tr.726].
Văn Chấn có nhiều tiềm năng về rừng và khai thác lâm sản. Rừng của Văn
Chấn có hàng trăm loại gỗ cùng tre, nứa, song, mây, trong đó có các loại gỗ quý như:
lát, pơmu, vàng tâm, đinh, lim, sến, táu, chò, re mít, gội, kháo… Bên cạnh các loại gỗ
quý còn có các loại dược liệu có giá trị như: thiên niên kiện, ba kích, sa nhân, hoài
sơn; nhiều loại thực phẩm tự nhiên như măng, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong, cánh
kiến và nhiều loại thú rừng. Sách Đồng Khánh địa dư chí ghi: “Tre thì có tre vầu,
nứa. Gỗ thì phần nhiều là gỗ tạp. Thú rừng thì rải rác vài nơi cũng có hươu, nai, hổ,
báo” [13, tr.726]. Địa hình chủ yếu là đồi núi cùng với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa
đã tạo điều kiện cho rừng ở Văn Chấn phát triển và trở thành một trong những nguồn
lợi chủ yếu của huyện. Hiện nay, diện tích rừng của huyện là 84.356 ha trong đó đất
có rừng 67.015 ha được phân chia gồm: rừng phòng hộ 20.488 ha, rừng sản xuất
46.527 ha và đất chưa có rừng 17.314 ha với các loại cây chủ yếu như keo lai, quế,
mỡ, bồ đề… Đặc biệt thời gian gần đây việc đưa cây cao su vào trồng trên địa bàn 11
14
xã, thị trấn đã góp phần quan trọng trong việc phủ xanh đất trống, đồi trọc, bảo vệ
môi trường sinh thái, hạn chế hậu quả thiên tai, tạo việc làm và tăng thu nhập cho
người lao động. Lợi ích từ rừng ở Văn Chấn đang được phát huy.
Về giao thông vận tải, từ huyện lỵ Văn Chấn đến Yên Bái gần 80km, nhưng từ
địa giới phía đông bắc của huyện đến thành phố Yên Bái chỉ gần 30km. Văn Chấn có
đường Quốc lộ 32 chạy dọc theo chiều dài của huyện, là cửa ngõ đi vào thị xã Nghĩa
Lộ, huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, huyện Phù Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn La và tỉnh
Lai Châu. Đường quốc lộ 37 chạy qua 4 xã, đây là điều kiện thuận lợi cho giao lưu
phát triển kinh tế với các huyện trong tỉnh, giữa tỉnh Yên Bái với các tỉnh Sơn La,
Phú Thọ, Lai Châu.… Hệ thống đường liên xã, đã được xây dựng rộng hơn với
đường ô tô có thể đến trung tâm tất cả các xã. Đây là điều kiện quan trọng để thúc
đẩy nền kinh tế hàng hóa, thương mại, dịch vụ. Sách Đại Nam nhất thống chí viết: “
Đường bộ từ sông Thao qua khe Vận đi vào phải 3 ngày, nhưng đi bộ nhiều chỗ hiểm
trở, qua 23 sách khe Vận. Mỗi khi nước lũ thì không đi được, cách trấn sở 6 ngày”
[18, tr.328]. Sách Đồng Khánh địa dư chí cũng viết: “Một đường nhỏ từ huyện lỵ đi
về phía tây qua các xã Đại Lịch, Sơn Bộc, Hạ Lộ đến giáp châu Quỳnh Nhai, dài 230
dặm, 10 trượng, rộng 3 thước” [13, tr.726].
1.2. Lịch sử hành chính huyện Văn Chấn
Văn Chấn là địa phương có lịch sử lâu đời, trải qua quá trình lịch sử với nhiều
biến đổi về tên gọi, địa giới hành chính. Hiện nay, Văn Chấn có 31 đơn vị hành chính cơ
sở, gồm 28 xã và 3 thị trấn (Tú Lệ, Nậm Búng, Gia Hội, Sơn lương, Nậm Mười, Sùng
Đô, An Lương, Nậm Lành, Sơn A, Nghĩa Sơn, Hạnh Sơn, Phúc Sơn, Suối Quyền, Suối
Giàng, Suối Bu, Cát Thịnh, Phù Nham, Minh An, Thanh Lương, Thạch Lương, Sơn
Thịnh, Đồng Khê, Tân Thịnh, Chấn Thịnh, Bình Thuận, Nghĩa Tâm, Thượng Bằng La,
thị trấn nông trường Liên Sơn, thị trấn nông trường Nghĩa Lộ, thị trấn nông trường Trần
Phú và Đại Lịch). Huyện lỵ đóng trên địa bàn xã Sơn Thịnh. Qua những cuộc khai quật,
các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều công cụ bằng đá (thời kì đá cũ) và xương cốt
động vật cách ngày nay khoảng 10 vạn năm ở hang dưới Thẩm Thoóng (Thượng Bằng
La). Tìm thấy trống đồng và một số công cụ đồ đá mới thuộc nền văn hóa Hòa Bình và
nền văn hóa Đông Sơn, có niên đại từ 8 đến 10 ngàn năm ở hai xã Phù Nham và Thạch
15
Lương [2, tr.7- 8]. Điều đó chứng tỏ Văn Chấn là một địa bàn sinh tụ của người Việt Cổ.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, mục tỉnh Hưng Hóa: “Đời Hùng Vương xưa là bộ
Tân Hưng. Thời Âu Lạc thuộc bộ Giao Chỉ. Thời Bắc thuộc: Đời Tần thuộc Tượng
Quận, đời Hán là đất Nam Trung (Dư địa chí của Nguyễn Trãi ghi chép: Hưng Hóa là
bộ Tân Hưng, Xưa đời Hán là Nam Trung), đời Ngô là đất các huyện Lâm Tây và Tây
Đạo thuộc quận Tân Hưng, đời Đường là huyện Tân Xương, lệ vào Châu Phong” [18,
tr.309]. Sau kháng chiến chống quân Nam Hán của Ngô Quyền năm 938 thắng lợi, đất
nước ta bước vào thời kì độc lập tự chủ lâu dài. Trải qua các đời Ngô, Đinh, Tiền Lê các
đơn vị hành chính hầu như không thay đổi. Năm 1009, nhà Lý được thành lập, năm 1010
rời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long tiếp tục củng cố và xây dựng chính
quyền từ trung ương đến địa phương cụ thể ở địa phương chia thành 12 Lộ. Sách Đại
Nam nhất thống chí ghi chép: tỉnh Hưng Hóa “Nước ta là đất đạo Lâm Tây và Châu
Đằng. Đời Trần đặt làm đạo Đà Giang; lại đặt làm trấn, cuối đời Trần đổi làm trấn
Thiên Hưng” [18, tr.309]. Thời nhà Trần, Văn Chấn thuộc trại Quy Hóa (Nay thuộc
Văn Chấn, Trấn Yên, Văn Bàn). Thời thuộc Minh đặt 2 châu Gia Hưng và Quy Hóa.
Sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư chép: Năm Vĩnh Lạc thứ 5 đổi hai trấn Gia
Hưng và Quy Hóa làm châu, lệ thẳng vào ty Bố chính … Đời Lê Thuận Thiên đặt 2
lộ Gia Hưng và Quy Hóa thuộc tây đạo. Thời Hồng Đức, đổi 2 lộ làm phủ, đặt Hưng
Hóa thừa tuyên, cũng gọi là xứ Hưng Hóa lãnh 3 phủ 4 huyện và 17 châu. Trong đó,
phủ Quy Hóa lãnh 3 huyện là Trấn Yên, Yên Lập, Văn Chấn và châu là Văn Bàn,
Thủy Vĩ. Như vậy, đến đời Lê mới thấy xuất hiện danh xưng Văn Chấn thuộc phủ
Quy Hóa.
Thời Nguyễn, Sách Đại Nam nhất thống chí ghi chép: “Bản triều năm Gia
Long năm thứ 1 vẫn để tên trấn như cũ, lãnh 3 phủ, 4 huyện và 16 châu. Trong đó,
phủ Quy Hóa lãnh 3 huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên lập và 2 châu Thủy Vĩ, Văn
Bàn” [18, tr.310]. Tuy đơn vị hành chính là những châu, huyện cùng một trấn nhưng
đơn vị hành chính cấp cơ sở ở miền núi thường gọi là sách, động, trang còn miền
xuôi gọi là tổng, xã. Sách Đại Nam nhất thống chí có ghi: Trước có 20 sách. Năm
Quý Hợi đời Cảnh Hưng làm sổ bình lệ còn 8 sách, số đinh 222 suất. Thổ nghi và
phong tục gần giống huyện Thanh Xuyên và Yên Lập. Họ Hà ở núi Thạch Lương nối
16
đời làm Phụ đạo, sách Hạ Lộ thì họ Lê được thế tập, cũng như các châu khác. Năm
Canh Thân phụ đạo là Đanh Nghĩa làm phản. Sầm Thừa Tiến, người nước Thanh
đem dân người Thanh đánh dẹp được nên cho được đóng đồn phòng thủ (tức đông Hạ
Lộ), chiêu tập dân binh, kiêm quản các sách Sơn A và Hương Sơn. Nay con cháu là
Sầm Quản, Sầm Trọng nối nghiệp. Đầu đời Gia Long vẫn theo như thế. Năm Minh
Mệnh thứ 17 mới đặt lưu quan, đổi sách làm xã và đặt tên tổng. Lãnh 4 tổng, 10 xã
[18, tr.327, 328]. Sách Đồng Khánh địa dư chí có ghi huyện Văn Chấn có 4 tổng,
tổng Hương Sơn gồm 2 xã là Hương Sơn và Thạch Lương; tổng Phù Nham gồm 3 xã
là Phù Nham, Sơn Bộc và Hạ Lộ; tổng Sơn A gồm 3 xã là Sơn A, Gia Hội và Tú Lệ;
tổng Đại Lịch gồm 3 xã là Đại Lịch, Thượng Bằng La và Hạ Bằng La [13, tr.725].
Theo sách Hưng Hóa kí lược, huyện Văn Chấn có 12 sách: Đại Lịch, Thượng Bằng,
La Hạ, Bằng La, Hương Sơn, Thanh Lương, Phù Nham, Hạ Lộ, Sơn Bộc, Sơn A,
Mẫn Tuyền, Tú Dung. Năm Minh Mệnh 17 (1836) đổi sách làm xã, chia đặt tên tổng:
tổng Đại Lịch có 4 xã (Đại Lịch, Thượng Bằng, La Hạ, Bằng La); tổng Hương Sơn có
2 xã (Hương Sơn, Thanh Lương); tổng Phù Nham có 3 xã (Phù Nham, Hạ Lộ, Sơn
Bộc); tổng Sơn A có 3 xã (Sơn A, Mẫn Tuyền, Tú Dung). Năm Thiệu Trị thứ 3
(1843) cải Mẫn Tuyền thành Gia Nguyên, Tú Dung thành Tú Lệ [9, tr.135]. Như vậy,
phủ Quy Hóa xưa là đất tỉnh Lào Cai, các huyện Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên tỉnh
Yên Bái, huyện Yên Lập và một số xã thuộc các huyện Sông Thao, Tam Thanh tỉnh
Phú Thọ.
Theo sách Yên Bái một thế kỉ: hồi nửa đầu thế kỉ XIX, Văn Chấn gồm 10 sách:
Thạch Lương, Tú Lệ, Mẫn Tuyền, Phù Nham, Đại Lịch, Sơn Bộc, Hương Sơn,
Thượng Bằng La, Sơn A, Nghĩa Lộ [37, tr.82].
Thời Pháp thuộc, tháng 2 năm 1886, sau khi làm chủ được Hưng Hóa và
Tuyên Quang, đội quân viễn chinh Pháp tiếp tục kéo đến thượng lưu sông thao tấn
công vào phòng tuyến kéo dài từ Hào Gia, Tuần Quán đến Giới Phiên, Bách Lẫm.
Vừa đánh dẹp các cuộc nổi dậy, thực dân Pháp vừa ra sức củng cố những vùng đất
vừa bình định xong. Thực dân Pháp cắt đất Hưng Hóa đặt tỉnh Lào Cai làm đạo
quan binh thứ tư của miền thượng du Bắc Kỳ tỉnh lỵ đặt ở Lào Cai gồm 4 hạt là
Lào Cai, Bảo Hà, Nghĩa Lộ, Yên Bái và hai châu Chiêu Tấn và Thủy Vĩ.
17