BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG
“TRUYỆN THƠ THÍCH CA MÂU NI PHẬT”
CỦA THÁI BÁ TÂN
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Thị Thu Hường
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của TS. Trần Thị Thu Hường, luận văn được hoàn thiện trên sự kế
thừa một số kết quả nghiên cứu liên quan đã được công bố. Các tài liệu, trích
dẫn trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, có nguồn gốc và
trích dẫn rõ ràng.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Hội đồng khoa học về luận văn
của mình.
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Phương
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, em xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới các
thầy cô giáo trong khoa Triết học trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã giảng
dạy, giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Em xin bày tỏ tình cảm trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trần
Thị Thu Hường - cô giáo hướng dẫn, người đã định hướng cho em nghiên
cứu đề tài, cung cấp cho em những kiến thức lý luận, thực tiễn cùng những
kinh nghiệm quý báu, yêu cầu nghiêm khắc và nhiệt tình hướng dẫn, động
viên khích lệ em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thiện luận văn.
Em cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, phòng Sau đại học
của trường Đại học Sư phạm Hà Nội, các bạn cùng lớp Cao học Triết học K25
đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình em học
tập nâng cao trình độ.
Xin gửi lời cảm ơn gia đình, đồng nghiệp đã luôn quan tâm, giúp đỡ và
động viên tác giả luận văn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Xin trân trọng cám ơn!
Hà Nội, tháng 4 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Phương
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................... 9
5. Giả thuyết khoa học ..................................................................................... 9
6. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 10
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 10
8. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 10
9. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 10
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn ......................... 10
Chương 1: TRUYỆN THƠ PHẬT GIÁO - MỘT HÌNH THỨC NGHỆ
THUẬT CHUYỂN TẢI QUAN NIỆM VỀ NHÂN SINH ............................... 12
1.1. Triết lý nhân sinh, nhân sinh quan Phật giáo .................................... 12
1.1.1. Triết lý, triết lý nhân sinh ................................................................. 12
1.1.2. Triết lý nhân sinh Phật giáo ............................................................. 17
1.1.2.1. Khái giáo quát về Phật giáo ..................................................... 17
1.1.2.2. Nội dung triết lý nhân sinh Phật giáo ....................................... 21
1.2. Truyện thơ Phật giáo của Thái Bá Tân - cuộc đời và sự nghiệp ....... 32
1.2.1. Truyện thơ, truyện thơ Phật giáo ..................................................... 32
1.2.1.1. Khái quát truyện thơ ................................................................. 32
1.2.1.2. Truyện thơ Phật giáo ................................................................ 39
1.2.2. Truyện thơ Thích Ca Mâu Ni Phật của Thái Bá Tân ...................... 43
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 48
Chương 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN
SINH TRONG “TRUYỆN THƠ THÍCH CA MÂU NI PHẬT” ............. 50
2.1. Quan niệm về con người trong “Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” .... 50
2.1.1. Con người trong “vô thường” ......................................................... 50
2.1.2 Con người trong luật nhân quả ........................................................ 59
2.1.3. Con người trong nghiệp báo luân hồi .............................................. 67
2.2. Quan niệm về cuộc đời con người trong “Truyện Thơ Thích Ca
Mâu Ni Phật” ................................................................................................ 77
2.2.1. Cuộc đời con người là bể khổ .......................................................... 77
2.2.2. Con đường giải thoát con người khỏi bể khổ cuộc đời ................... 85
2.2.2.1. Diệt khổ bằng con đường tuệ giác ............................................ 86
2.2.2.2. Diệt khổ bằng con đường đạo đức ............................................ 91
2.3. Giá trị trong Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật của Thái Bá Tân ...... 97
2.3.1. Giá trị định hướng nhân sinh quan .................................................. 97
2.3.2. Giá trị giáo dục đạo đức ................................................................ 103
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................... 108
KẾT LUẬN ................................................................................................. 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................. 114
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu gọi Phương Đông là chiếc nôi của văn minh nhân loại thì Ấn Độ là
một trong những trung tâm văn hóa và triết học cổ xưa, rực rỡ, phong phú
nhất của nền văn minh ấy - nó có một vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng
của Châu Á nói riêng, lịch sử văn minh nhân loại nói chung. Trong nền văn
minh ấy tồn tài rất nhiều tôn giáo khác nhau nhưng chỉ có Phật Giáo nhanh
chóng phát triển, trở thành quốc giáo của Ấn Độ. Với hạt nhân là triết lý nhân
sinh - mang đậm tính nhân văn, bình đẳng, hướng thiện, Phật giáo có sức lôi
cuốn, hấp dẫn mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều quốc gia trên thế giới
trong đó có Việt Nam.
Nhân sinh quan là những quan niệm về con người, về cuộc sống, tâm tư
tình cảm, ước mơ, khát vọng, lý tưởng sống… của con người. Nhân sinh quan
Phật giáo tập trung luận giải về cuộc đời con người, chỉ ra nguyên nhân khổ
đau và con đường thoát khổ bằng cách tu thân, tích đức, gột rửa tâm hồn trong
sạch, hướng thiện. Nhiều khi, những quan niệm sống đó không được bày tỏ
trực tiếp mà thông qua một số hình thức để bộc lộ, phản ánh tồn tại xã hội.
Truyện thơ về Phật giáo là một trong số những hình thức đó - chuyển thể
những áng truyện, điển tích về cuộc đời Đức Phật, về những lời thuyết pháp,
răn dạy của Phật thành thơ, một thể thơ năm chữ với ngôn từ hết sức đơn
giản, dễ hiểu khiến từ trẻ tới già ai ai cũng có thể đọc, ai ai cũng có thể hiểu.
Tác giả luận văn rất yêu thích những truyện thơ Phật giáo của Thái Bá
Tân, bởi những câu truyện thơ như viết về chính cuộc sống xung quanh mình,
những câu chuyện nhỏ nhưng chứa đựng trong đó những giá trị nhân văn sâu
sắc và đặc biệt sau mỗi câu chuyện lại gửi gắm một kinh nghiệm sống, một
bài học làm người, thông qua quan niệm nhân sinh Phật giáo giúp định hướng
đúng trong cuộc đời và tìm được hạnh phúc, bình an cho con người trong
cuộc đời của họ.
1
Tìm hiểu về nhân sinh quan Phật giáo, qua đó hiểu rõ hơn về Phật giáo,
một tôn giáo đang tồn tại và có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội ở
Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó có thể khai thác những giá trị tích cực trong
giáo lý của Phật giáo vì một cuộc sống tốt đời, đẹp đạo đang rất cần những
nghiên cứu cơ bản và hệ thống. Nghiên cứu truyện thơ Phật giáo dưới góc độ
triết học là một dịp để tác giả luận văn bộc lộ niềm say mê đồng thời cũng là
dịp để đào sâu hơn, nghiền ngẫm kỹ hơn và vận dụng những kiến thức triết
học vào hoạt động thực tiễn. Trước hết là nhằm nâng cao nhận thức của chính
mình sau đó đi sâu khám phá và tìm ra điểm cốt lõi làm nên sức sống, sự hấp
dẫn ẩn trong những câu truyện thơ của Phật Giáo.
Với sự cấp thiết và tâm huyết trên nên tác giả luận văn quyết định chọn
đề tài Triết lý nhân sinh trong Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật của Thái Bá
Tân làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có nhiều tài liệu đề cập tới vấn đề nhân sinh quan nói chung và nhân
sinh quan Phật Giáo nói riêng, đó là những tài liệu cung cấp nguồn tri thức cơ
bản để tác giả đi sâu nghiên cứu và thực hiện luận văn: Triết lý nhân sinh
trong Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật của Thái Bá Tân..
Nhóm vấn đề về nhân sinh, nhân sinh quan Phật Giáo
Cuốn Nhân sinh quan mới của tác giả Du Minh Hoàng (Trần Quang
dịch) đã đề cập đến vấn đề nhân sinh quan của con người, nhà nghiên cứu cho
rằng: Nhân sinh quan tức là đạo làm người. Tác giả có so sánh sự khác nhau
giữa nhân sinh quan trước kia và ngày nay, giữa nhân sinh quan cách mạng
với nhân sinh quan của giai cấp khác. Trên cơ sở đó, tác giả cung cấp cái nhìn
tổng quát về vấn đề nhân sinh quan để chúng tôi có điều kiện nhìn nhận vấn
đề trong những câu truyện thơ của Phật giáo.
2
Tác giả Nguyễn Lang với Việt Nam Phật giáo sử luận, nhà xuất bản
Văn học, Hà Nội, năm 1994 đã phần nào làm sáng tỏ nguồn gốc nguyên thủy
từ Ấn Độ của Phật giáo Việt Nam: “Các tu sĩ đi theo thuyền buôn Ấn Độ là
những người đầu tiên truyền đạo Phật vào nước ta với tín ngưỡng đơn sơ như
thờ Phật, đốt trầm, tụng kinh, chữa bệnh, trừ tà và bày phép cúng dường, bố
thí cho dân bản địa cùng truyền pháp Tam quy Ngũ giới cho cư dân ở đây chứ
chưa có sự truyền giảng kinh điển”. [26, tr.24]
Những vấn đề về nhân sinh quan Phật giáo với tư cách là một nội dung
tư tưởng triết học cũng được đề cập rải rác trong từng nội dung cụ thể hoặc
toàn bộ giáo lý qua một số công trình tiêu biểu như Đại cương triết học Phật
giáo Việt Nam, tập một: từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV của GS. TS Nguyễn
Hùng Hậu, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2002. Trong công
trình này, tác giả Nguyễn Hùng Hậu đã dành chương cuối của cuốn sách để
trình bày về nhân sinh quan Phật giáo và nhân sinh quan Phật giáo Việt Nam.
Những lý giải của tác giả từ góc độ triết học đã giúp người đọc hình dung một
cách có hệ thống những tư tưởng cơ bản của nhân sinh quan Phật giáo từ quan
niệm về con người đến quan niệm về cuộc đời con người để từ đó khảo sát
các quan niệm khác nhau về nhân sinh quan của Phật giáo Việt Nam qua các
thời kỳ lịch sử.
Luận án tiến sĩ của tác giả PGS. TS Nguyễn Thị Toan Quan niệm về
giải thoát trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với đời sống người Việt
Nam hiện nay, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2006 lại bàn đến một
trong những nội dung cơ bản nhất của nhân sinh quan Phật giáo: vấn đề giải
thoát, từ đó làm rõ ảnh hưởng của quan niệm này của Phật giáo đến đời sống
người Việt Nam hiện nay trên những bình diện cơ bản của đời sống như: kinh
tế, chính trị, xã hội, đạo đức…
3
Cuốn: Tứ diệu đế của Đức Đạt - Lai Lạt Ma XIV, nhà xuất bản Tôn
giáo, năm 2012, là cuốn sách có tính chất kinh điển ghi lại những bài giảng
của Đức Đạt - Lai Lạt Ma XIV với ngôn ngữ hiện đại để dẫn dắt người đọc
đến với nội dung cơ bản nhất trong giáo lý của Phật giáo: Tứ diệu đế, giúp
người đọc hình dung phần nào những giáo pháp cơ bản của Phật giáo được áp
dụng để giải thích và quán chiếu, nhằm khai mở con đường nhận thức ra đau
khổ, để đi đến hạnh phúc viên mãn.
Trong cuốn: Đạo đức Phật giáo với đạo đức người Việt Nam của tác giả
Đặng Thị Lan, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2006, trên cơ sở
phân tích mối liên hệ giữa đạo đức Phật giáo với đạo đức truyền thống dân tộc
đã phân tích một cách thuyết phục ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức
người Việt Nam hiện nay. Chính sự hòa quyện này đã tạo nên sức mạnh đoàn
kết của dân tộc Việt Nam để chiến thắng kẻ thù xâm lược.
Cuốn Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo của hòa thượng Thích Tâm
Thiện, là công trình chuyên bàn về nhân sinh quan Phật giáo. Trong công
trình này, tác giả đã lấy Duyên sinh - Vô ngã làm điểm trung tâm để nghiên
cứu nhân sinh quan Phật giáo.
Những công trình trên tiếp cận Phật giáo ở các mức độ và khía cạnh
khác nhau, đã thể hiện được tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đối với xã hội Việt Nam. Thông qua các công trình này, tác giả đã bước đầu
nhận diện nội dung của triết lý nhân sinh trong giáo lý Phật giáo, các khái
niệm cơ bản như vô thường, nhân quả, nghiệp báo, luân hồi, khổ, giải thoát…
đã được tiếp cận. Đó chính là cơ sở để tác giả khai thác và triển khai khi trình
bày các vấn đề lý luận trong đề tài của mình.
Nhóm vấn đề về truyện thơ
Những công trình nghiên cứu về truyện thơ theo thập niên
Truyện thơ các dân tộc thiểu số là một thể loại độc đáo trong bộ phận văn
học dân gian Việt Nam. Thể loại truyện thơ từ khi ra đời đã thu hút sự quan
4
tâm của nhiều nhà khoa học và giới nghiên cứu trong nước. Trong những năm
1960, nghiên cứu truyện thơ chỉ dừng lại là những bài giới thiệu phần mở đầu
các cuốn sách sưu tầm, hợp tuyển, các bài tạp chí… Đến những năm 1980,
truyện thơ được khẳng định như một thể loại riêng với các công trình nghiên
cứu như: Lịch sử văn học Việt Nam (tập 1, năm 1980) của tác giả Nông Quốc
Chấn và Phan Đăng Nhật, Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (1981) của
tác giả Phan Đăng Nhật, Văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam (1983)
của PGS.TS Võ Quang Nhơn… Đến những năm 1990, qua công trình
Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số (luận án TS năm 1997)
của tác giả Lê Trường Phát đã xác lập các yếu tố thi pháp của thể loại độc
đáo này.
Công trình nghiên cứu Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
(trước cách mạng tháng tám) của GS.TSKH Phan Đăng Nhật xuất bản năm
1981, ông đã dành chương IV để bàn về thể loại truyện thơ. Bằng việc phân
tích một số truyện thơ theo từng nhóm, tác giả đã kết luận truyện thơ bắt
nguồn từ dân ca và truyện kể, đã phát huy những đặc điểm sáng tác về nghệ
thuật của loại hình này, do đó nó có khả năng diễn tả mọi tình cảm tinh vi,
phức tạp, lại vừa hấp dẫn người nghe bằng phương pháp kể chuyện lý
thú. Nhân dân đã tiếp thu được giá trị tự sự và giá trị trữ tình của các loại hình
văn học dân gian kết hợp lại trong loại hình mới là truyện thơ.
Năm 1983, trong công trình Văn học các dân tộc ít người PGS. Võ
Quang Nhơn đã bàn về truyện thơ các dân tộc thiểu số một cách toàn diện,
tổng thể. Trong công trình này, căn cứ theo theo phương thức diễn xướng, lưu
truyền và nguồn gốc kế thừa của truyện thơ các dân tộc, tác giả chia thể loại
truyện thơ thành bốn nhóm lớn sau đây:
+ Nhóm truyện thơ gắn liền với sinh hoạt nghi lễ dân gian
+ Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian
5
+ Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca
+ Nhóm truyện thơ thiên về khuynh hướng thuyết giáo đạo đức
của truyện Nôm Kinh.
Như vậy, với công trình nghiên cứu này, truyện thơ đã xem xét một
cách toàn diện, tổng thể về mặt nội dung và cả phương diện thi pháp.
Việc nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số với tư cách là thể
loại độc đáo được đánh dấu bằng công trình nghiên cứu của PGS. TS Lê
Trường Phát qua Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số (1997).
Trong công trình nghiên cứu của mình, sau khi xem xét truyện thơ các dân tộc
thiểu số Việt Nam trong bối cảnh truyện thơ các dân tộc Đông Nam Á, tác giả
đi sâu tìm hiểu đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số qua việc
khảo sát chủ yếu trên 6 truyện thơ Thái và 14 truyện thơ Tày. Luận án cũng đi
sâu vào tìm hiểu một số đặc điểm của ngôn ngữ truyện thơ các dân tộc thiểu
số như công thức mở đầu, kết thúc và chuyển đoạn, hiện tượng đan xen ngôn
ngữ trong một truyện thơ, truyện thơ và việc sử dụng dân ca. Mặc dù phạm vi
nghiên cứu ở số lượng 20 tác phẩm, công trình nghiên cứu chủ yếu ở truyện
thơ của dân tộc Thái và dân Tày nhưng những đóng góp của tác giả Lê
Trường Phát trong luận án có vai trò quan trọng trong việc mở ra con đường
nghiên cứu thi pháp văn học văn học dân gian nói chung và thi pháp thể loại
truyện thơ nói riêng.
Những công trình nghiên cứu về truyện thơ theo vùng dân tộc thiểu số
Vấn đề bi kịch tình yêu trong truyện thơ các dân tộc thiểu số đã
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm chú ý. Tác giả Hà Văn Thư đã nhận
định: “Các truyện thơ dài từ năm bảy trăm cho tới trên dưới hai nghìn câu
cũng có khá nhiều và phần lớn đều ca ngợi những mối tình chung thủy. Yêu
nhau phải mong đến cái chết mới được gần nhau, cái kết cục bi thảm của đôi
nhân vật trong truyện đã làm rơi không biết bao nhiêu nước mắt. Những
6
truyện thơ trữ tình này đã tố cáo một xã hội ngột ngạt đầy rẫy những phong
tục tập quán lạc hậu” [18, tr.31].
Tác giả Phan Đăng Nhật cũng có những ý kiến tương tự. Ông cho rằng:
“về mặt nội dung, vấn đề trung tâm của các truyện tình yêu là cuộc sống đau
khổ của những trai gái bị thất bại trong tình yêu do xã hội cũ gây nên. Đại
diện cho xã hội bất công thường là bố mẹ, là những người trực tiếp chịu
trách nhiệm gả bán [35, tr.84]. Ông nhấn mạnh thêm vai trò của nhân vật nữ
với kết cục của những mối tình ấy đôi trai gái trong truyện thơ tình yêu của
các dân tộc thiểu số một mực kiên tâm chờ đợi, theo đuổi, bảo vệ và còn đấu
tranh để giành lại hạnh phúc đã bị cướp mất. Trong đó vai trò của người phụ
nữ rất quan trọng.
Tác giả Tô Ngọc Thanh trong Vùng văn hoá Tây Bắc (1996) còn có
một phát hiện tinh tế về tính cách tộc người thông qua những cái chết của
nhân vật chính. Ông nhận thấy, nhiều dân tộc Tây Bắc có một cốt truyện tình
bi đát. Cốt truyện đó là: Một đôi trai gái yêu nhau, vì lí do nào đó họ không
lấy được nhau và cùng tự tử. Đối với người Thái, người con gái treo cổ lên
một thân cây thẳng cao hàng chục mét. Xác nàng toả mùi, hương thơm cả
cánh rừng. Người con trai nghe tin dữ, liền đi vào rừng và cũng treo cổ. Khi
ấy, trời nổi gió đưa thân thể hai người chạm vào nhau, toé lửa, biến thành
ngôi sao Hôm và sao Mai mãi mãi theo nhau trên nền trời. Còn người
H’mông thì để cho người con gái nằm chết giữa đỉnh đồi, mặt ngửa nhìn trời
xanh, chết không thèm nhắm mắt. Ông phân tích: “Liệu có thể gọi cái chết
thứ nhất là “chết trữ tình, đầy chất thơ” và cái chết thứ hai là “chết quyết liệt,
đầy phẫn nộ” không? với hai “kiểu cách chết”, liệu có cần nói thêm gì về tính
riêng trong tâm hồn và nhân cách văn hoá mỗi dân tộc không.
Truyện thơ Phật giáo
Qua 45 năm thuyết pháp độ sinh, Đức Phật đã để lại cho nhân loại một
kho tàng giáo lý vô tận, những quy luật đạo đức cao siêu, để hướng dẫn con
7
người hướng thiện và giải thoát. Nguồn ánh sáng vô lượng ấy đã soi sáng cho
hành động, cho tư duy và soi sáng trên lộ trình giác ngộ và giải thoát của con
người. Trong tác phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện thuộc Kinh Hoa Nghiêm, có
dạy rằng: Nhất giả lễ kính chư Phật, tức là lễ lạy và cung kính chư Phật là
công hạnh tu tập trước tiên của mọi hành giả. Muốn lễ bái và tôn kính Phật,
hành giả phải hiểu Phật một cách tường tận. Chúng ta không thể tôn kính Phật
nếu chưa hiểu được Phật. Muốn hiểu Phật chúng ta phải: Biết rõ cuộc đời Đức
Phật, hiểu những lời dạy vàng ngọc cao quý của Ngài, phải thông hiểu hành
trình giáo hóa kỳ vĩ của Như Lai và nhất là phải tinh tấn tu tập để thực
nghiệm và cảm nhận được những giá trị vô biên mầu nhiệm trong kho tàng
giáo lý giải thoát của Như Lai.
Trên tinh thần đó, Đạo hữu Tâm Minh Ngô Tầng Giao ấn hành tập
truyện thơ Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca, cuốn truyện thơ kể lại cuộc đời của
Đức Phật từ khi giáng sinh cho đến khi lập gia đình vào năm 16 tuổi, năm 29
tuổi quyết chí xuất gia tu hành tìm đạo, năm 35 tuổi giác ngộ ra chân lý, thành
đạo và trở thành Phật. Trong suốt 45 năm sau đó Ngài đi thuyết pháp, giáo
hóa chúng sinh rồi cuối cùng nhập niết bàn vào năm 80 tuổi. Cuốn truyện thơ
với 1.634 câu lục bát chỉ diễn tả được ngắn gọn về cuộc đời Đức Phật, cuộc
đời của một người đã được tôn xưng là bậc đại hùng đại lực, đại từ đại bi, đại
hỷ đại xả. Tác giả cuốn truyện thơ đã dựa vào một số tài liệu và nhất là phỏng
theo các chi tiết trong cuốn sách bằng Anh ngữ có tựa đề là "The Story Of
Buddha" của Jonathan Landaw mà viết lại cuộc đời Đức Phật bằng một ngôn
từ bình dị dưới hình thức thơ lục bát, một thể loại thơ thuần túy dân tộc, để
người đọc, người nghe dễ hiểu và dễ nhớ.
Qua những công trình trên, có thể thấy rằng những vấn đề về nhân sinh
quan Phật giáo hay truyện thơ đã được nghiên cứu dưới nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Đó là những đóng góp quan trọng, bổ ích trong công tác tìm hiểu,
8
đánh giá, nghiên cứu trong quá trình làm luận văn của tôi. Nhưng vận dụng
triết học vào nghiên cứu những câu truyện thơ của Phật giáo thì đây là một
cửa ngõ mới và chưa có công trình nào đề cập đến nội dung này. Từ việc
nghiên cứu lịch sử vấn đề trên đã thôi thúc tác giả luận văn lựa chọn và
nghiên cứu đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn Triết lý nhân sinh trong Truyện
Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật của Thái Bá Tân là chỉ ra quan niệm về con
người và cuộc sống con người thông qua nội dung của truyện thơ, từ đó rút
ra ý nghĩa của bài học triết lí sâu sắc và giá trị trong truyện thơ Phật giáo
của Thái Bá Tân.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của luận văn Triết lý nhân sinh trong Truyện Thơ
Phật giáo của Thái Bá Tân là các bài truyện thơ về Phật giáo trong cuốn
“Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” của tác giả Thái Bá Tân.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn Triết lý nhân sinh trong “Truyện
Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” của Thái Bá Tân là các bài truyện thơ trong
cuốn “Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” thể hiện quan niệm nhân sinh của
Phật giáo, chứa đựng những nội dung nói về con người và cuộc sống của con
người, những lời răn dạy và thuyết pháp của Phật Thích Ca.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu làm rõ được nhân sinh quan Phật giáo thể hiện trong tác phẩm
“Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật” sẽ cung cấp cho những người nghiên
cứu Phật giáo nói chung, nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo nói riêng một
9
góc độ tiếp cận mới - góc độ truyện thơ, gợi ý và mở ra nhiều hướng nghiên
cứu về triết học, Phật giáo thông qua các tác phẩm truyện thơ.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, đề tài cần phải thực hiện
các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ những vấn đề về triết lý nhân sinh của Phật giáo và
truyện thơ Phật giáo.
Hai là, làm rõ nhân sinh quan trong tác phẩm Truyện Thơ Thích Ca
Mâu Ni Phật từ đó rút ra bài học mang tính chất khuyên răn, giáo dục đạo
đức, lối sống mà đạo Phật gửi gắm trong mỗi bài thơ.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Tác giả luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các bài truyện thơ thể hiện
triết lý nhân sinh quan Phật giáo trong cuốn “Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni
Phật” của tác giả Thái Bá Tân.
8. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các nhóm phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại
- Phương pháp phân tích, chứng minh
- Phương pháp so sánh, tổng hợp
- Phương pháp quan sát, tìm hiểu thông tin thư viện
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được triển khai thành: 2 chương, 5 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1. Những luận điểm cơ bản
- Quan niệm về triết lý nhân sinh, nội dung của nhân sinh quan Phật Giáo.
- Đặc điểm của truyện thơ và truyện thơ Phật Giáo.
10
- Nội dung triết lý nhân sinh Phật giáo trong tác phẩm truyện thơ Thích
Ca Mâu Ni Phật.
- Giá trị của tác phẩm Truyện Thơ Thích Ca Mâu Ni Phật .
10.2. Đóng góp mới của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu nhân sinh quan Phật giáo với đối
tượng nghiên cứu các bài truyện thơ - một hướng nghiên cứu mới, khơi gợi
cho các nhà nghiên cứu nhiều cách tiếp cận trong nhiều lĩnh vực như Triết
học, Tôn giáo, Văn học…
Về mặt thực tiễn, luận văn nghiên cứu truyện thơ Phật giáo dưới góc độ
triết học là một cửa ngõ mới, có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy
triết học, lịch sử triết học, triết học Phật giáo…
11
Chương 1
TRUYỆN THƠ PHẬT GIÁO - MỘT HÌNH THỨC
NGHỆ THUẬT CHUYỂN TẢI QUAN NIỆM VỀ NHÂN SINH
1.1. Triết lý nhân sinh, nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1. Triết lý, triết lý nhân sinh
Triết lý là thuật ngữ thường được đề cập đến trong triết học phương
Đông, thể hiện nét đặc thù của văn hóa phương Đông. Trong từ điển và từ
ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998) có giải
nghĩa triết lý là sáng suốt, lý lẽ. Về vấn đề này, ý kiến của các nhà khoa học
Việt Nam là khá phong phú.
Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: “Trong tiếng Pháp chỉ có một từ
philosophie, không có từ thứ hai. Còn dân Việt Nam mình thì vừa nói triết lý
vừa nói triết học. Tôi nghĩ triết lý và triết học không hoàn toàn giống nhau.
Triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức (théorie de la connaissance), tức
nhận thức luận, hay nói một cách cụ thể hơn, đó là phương pháp luận tổng
quát của các khoa học. Có người ngày xưa gọi triết học là khoa học của các
khoa học. Nói một cách nôm na, triết học đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay
không phải. Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý (éthique). Nó chủ yếu đặt
vấn đề tốt hay xấu, nên hay chăng, chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải
hay không phải. Hai loại vấn đề ấy tuy có quan hệ với nhau, những có khác
nhau.” [30, tr.21]
Giáo sư Vũ Khiêu thì quan niệm “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về
mình. Triết lý không thể hiện tầm khái quát vũ trụ và nhân sinh quan mà thể
hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa chỉ đạo cuộc sống con người.” [30, tr.21]
Giáo sư Hoàng Trinh lại đưa ra định nghĩa: “Triết lý là những nguyên
lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng làm nền tảng cho sự tìm tòi và
12
suy lý của con người về cội nguồn, bản chất và các hình thái tự nhiên xã hội
và bản thân, làm phương châm cho sự xử thế và xử sự của con người trong
các hành động sống hàng ngày… Có những dân tộc có những triết lý từ rất
lâu mặc dầu chưa có triết học với hệ thống các khái niệm của nó.” [30, tr.8]
Khác với triết học, triết lý không phải là môn khoa học đề cập đến
những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Nhưng triết lý có
quan hệ khá mật thiết với triết học. Bởi từ hệ thống những nguyên lý, những
luận điểm của một triết thuyết nhất định, người ta có thể rút ra những triết lý
về cách ứng xử, phương châm sống và hành động của những cá nhân và cộng
đồng đó tin theo.
Trong cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu, tác giả
Phạm Xuân Nam định nghĩa: “Triết lý là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm
nghiệm và đúc kết thành những công thức, những phương châm, những tư
tưởng cơ bản và cốt lõi nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực
tiễn rất đa dạng của con người trong xã hội. Chúng có vai trò định hướng trực
tiếp ngược trở lại đối với cuộc sống và những hoạt động thực tiễn rất đa dạng
ấy. Do đó, ta thấy không chỉ những triết lý của các triết thuyết khác nhau mà
còn có triết lý nhân sinh, triết lý lịch sử, triết lý kinh tế, triết lý chính trị, triết
lý đạo đức, triết lý pháp luật, triết lý ngoại giao… và cả những triết lý đời
thường nữa.” [30, tr.32]
Trên cái nền chung ấy về nội hàm của khái niệm triết lý, cũng còn phải
hình dung, nhận diện cho hết các hình thức thể hiện khác nhau của nó. Chúng
ta nói đến những hình thức thể hiện phổ biến của triết lý là những mệnh đề,
những câu ngắn gọn, hàm súc. Nhưng không phải tất cả mọi triết lý đều được
thể hiện như vậy. Thực tế là có những triết lý không được trình bày trực tiếp
bằng ngôn từ dưới dạng những mệnh đề cô đúc nào đó mà lại toát ra từ ý
nghĩa tiềm ẩn của một số truyện cổ tích, một số áng văn thơ, một số công
trình kiến trúc, một số pho tượng, một số bức chạm khắc, vv…
13
Về khái niệm nhân sinh, theo nghĩa gốc của tiếng Hán: Nhân nghĩa là
người, Sinh là sự sống, theo Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam: Nhân sinh là sự
sống của con người. Từ cách lí giải trên, ta có thể thấy rằng, nhân sinh là sự
xem xét, suy nghĩ về sự sống của con người. Nhân sinh là bộ phận của thế
giới quan. Nhân sinh thường trả lời cho những câu hỏi như: Lẽ sống của con
người là gì? Ý nghĩa, mục đích sống của con người ra sao? Con người phải
sống như thế nào cho xứng đáng? Vai trò và vị trí của con người cũng như
tương lai của con người sẽ ra sao?.
Nhân sinh trong thời đại mới được đưa ra nhằm mục đích bóc tách và
vạch trần những sai lầm của quan niệm cũ, quan niệm phản tiến bộ và xây
dựng một quan niệm mới về cuộc sống và cách mạng. Quan niệm cũ nói ở
đây gồm có những tư tưởng phong kiến của các học thuyết Khổng Tử, Mạnh
Tử, Trang Tử, Chu Hy… nó gồm cả những tư tưởng an phận, thiếu chí tiến
thủ, hoài nghi là những tư tưởng độc hại của giai cấp tư sản gieo rắc xung
quanh trong thời kì mới.
Nhân sinh quan cũ ở Trung Quốc có nhiều điểm tương tự nhân sinh
quan trong xã hội nước ta trước kia, kể cả trong thời kì thực dân Pháp đang
thống trị. Nọc độc và những tác hại của nó đọng lại trong nhiều người chịu tác
động của Nho học hoặc lớn lên trong những trường học tư sản mà ngày nay
những quan điểm đó vẫn còn tồn tại.
Mỗi người có một nhân sinh quan khác nhau, tùy thuộc vào thời đại,
giai cấp, hoàn cảnh sống của họ. Trong đời thường bất kì người nào cũng có
quan niệm của mình về cuộc sống, nhân sinh quan của con người thường tự
phát, “ngây thơ” nhưng khi được các nhà tư tưởng nhìn nhận đánh giá thì vấn
đề đó được nâng lên thành lí luận mang tính triết học
Nhân sinh quan tức là đạo làm người, phản ánh tồn tại xã hội của con
người. Nội dung của nó biểu hiện những nhu cầu lợi ích, khát vọng và hoài
14
bão của con người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể. Trong xã hội có giai cấp,
nhân sinh quan cũng mang tính giai cấp. Giai cấp đang lên trong lịch sử có
nhân sinh quan lạc quan, tích cực, cách mạng, nhân sinh quan của giai cấp
đang đi xuống thường mang tính bi quan, yếm thế. Nhân sinh quan có tác
dụng to lớn đến hoạt động của con người: tạo niềm tin, lối sống, tạo ra
phương hướng mục tiêu cho hoạt động (lí tưởng sống). Nếu như phản ánh
đúng khuynh hướng khách quan của lịch sử thì nó là nhân tố mạnh mẽ để cải
tạo xã hội một cách hợp lí, nhưng nếu phản ánh không đúng thì nó có tác
dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về các quy luật vận động, phát triển
của tự nhiên, xã hội và tư duy, chỉ rõ hoạt động của con người có tác dụng cải
tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy,
sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín
muồi, lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp tự do,
ấm no, hạnh phúc, trên cơ sở đó hoàn thiện năng lực trí tuệ, tình cảm của bản
thân mình. Nhân sinh quan cách mạng mang tính chất của giai cấp vô sản và
của con người mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Để làm cho nhân sinh quan
cách mạng chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống xã hội, phải cố gắng về
nhiều mặt, trong đó giáo dục chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Có kẻ thấy người chết thì than vãn: Ôi! Người ta sinh ra ở đời thật là tối
tăm, không được bằng loài cây cỏ. Những người già cho rằng: Người ta sinh
ra sướng hay khổ, vui hay buồn đều do tám chữ nhà Phật mà ra “Họa phúc
sinh tử, bách bất thất nhân” và cho rằng sự sống hay cái chết đều phụ thuộc
vào số mệnh con người đã được an bàn định sẵn [40, tr.5]. Như vậy, nhân
sinh quan là gì? Nói vắn tắt, đó là cách người ta nhìn nhận cuộc đời, hay là cái
đạo làm người. Xã hội có bao nhiêu loại người ta lại thấy có bấy nhiêu kiểu
nhân sinh quan, cùng với đó nảy sinh ra nhiều thứ đạo làm người khác nhau.
15
Nhà Nho phong kiến có quan niệm: Sống thác đều có mệnh, giàu nghèo
là tại trời. Họ dán lên cửa lớn hai câu đối sau: “An phận thủ kỷ, thuận thời
thích thiên” [40, tr.6] nghĩa là bằng lòng với số phận thuận theo ý trời.
Những người theo đạo Phật cho rằng: Người ta sinh ra không thể thoát
khỏi bát khổ: “Sinh, lão, bệnh, tử”; “Thụ biệt li”; “Sở cầu bất đắc”; “Oán tăng
hội”; “Ngũ thụ uẩn” [40, tr.6]. Bể khổ mênh mang, quay lại không thấy bờ,
chi bằng lo sửa mình, thoát nới cuộc đời trần tục về nơi Tây Trúc.
Người thanh niên cũng tự đặt ra cho mình quan niệm về lẽ sống cho
riêng mình với chủ trương: “Đã mang tiếng ở trời đất, phải có danh gì với
núi sông” [40, tr.6].
Người nông dân hay người công nhân cũng hô lớn những khẩu hiệu
cách mạng nhấn mạnh được nhiệm vụ vai trò của mình: “Chúng ta như những
chiến sĩ ngoài mặt trận chỉ biết tiến không biết lùi” [40, tr.6].
Nghiên cứu vấn đề nhân sinh tức là việc trả lời những câu hỏi: Người ta
sinh ra ở đời để làm gì? Muốn cái gì? Sống như thế nào? Bản thân mình có vị trí,
vai trò gì trong xã hội? Nói một cách khác, nghiên cứu vấn đề nhân sinh tức là
nghiên cứu về bản chất, mục đích, thái độ và hành vi của đời sống con người.
Sự khác nhau về nhân sinh của con người được biểu hiện thông qua
các thời kỳ lịch sử, hiện hữu rõ nét nhất trong các hình thái xã hội. Nhân
sinh phản ánh tồn tại xã hội của con người, nội dung của nó biểu hiện ở
quan điểm, lẽ sống, khát vọng, nhu cầu của con người trong từng hoàn
cảnh cụ thể. Nó không thể tách rời sự phát triển của thời đại do ảnh hưởng
của những yếu tố khác nhau từ lối ăn, mặc, giao tiếp. Theo đó, có thể hiểu
“triết lý nhân sinh” là những quan điểm, quan niệm về con người về cuộc
sống, sinh mệnh, phương hướng sống của con người, mục đích, ý nghĩa,
giá trị của cuộc sống mà con người hướng tới, có vai trò định hướng đối
với cuộc sống con người.
16
1.1.2. Triết lý nhân sinh Phật giáo
1.1.2.1. Khái giáo quát về Phật giáo
Phật giáo là một trào lưu tư tưởng lớn xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ
VI trước Công nguyên, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng
biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan bây giờ. Sự ra đời của tư tưởng Phật giáo gắn
liền với hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội của Ấn Độ đương thời.
Đây là thời kỳ chế độ nô lệ kiểu phương Đông đã phát triển với sự phân biệt
đẳng cấp khắc nghiệt và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền
là sở hữu tối cao về ruộng đất và thần dân. Đời sống tinh thần xã hội lúc này
bị thống trị bởi quan điểm duy tâm, tôn giáo trong thánh kinh Veda và đạo
Balamon. Sự thống trị khắc nghiệt của những tầng lớp trên và sự cùng cực
của các tầng lớp dưới trong xã hội Ấn Độ tất yếu dẫn đến những mâu thuẫn
sâu sắc và sự phản kháng của quần chúng lao động đòi hỏi một sự tự do, công
bằng, bình đẳng. Trong làn sóng đấu tranh mạnh mẽ đó, Phật giáo xuất hiện
đã đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân, nó phản ánh nỗi đau khổ của con
người, chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp và sự áp bức, bất công, chống lại
giáo lý truyền thống của kinh Veda và đạo Balamon, bác bỏ uy quyền thần
thánh, xây dựng niềm tin vào chính con người. Với mục đích giải thoát con
người bằng chính cuộc sống đức độ của con người, Phật giáo đã nhanh chóng
chiếm được tình cảm và niềm tin của đông đảo quần chúng lao động. Trải qua
những thăng trầm của lịch sử, Phật giáo từ chỗ là một trào lưu tư tưởng bị coi
là tà giáo đã phát triển một cách mạnh mẽ, trở thành một tôn giáo lớn, có tính
chất quốc tế được truyền bá rộng rãi, đã và đang ảnh hưởng nhiều đến đời
sống văn hóa, tinh thần của nhiều dân tộc phương Đông.
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni (nghĩa là ông thánh hay
nhà hiền triết của tộc người Thích Ca) - đây là tên gọi khi thành đạo. Tên thật
của Thích Ca Mâu Ni là Siddhartha (Tất đạt đa) nghĩa là “người thực hiện
được mục đích”, họ là Gautama (Cù Đàm), vốn là con đầu vua Tịnh Phạn.
17
Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trước công nguyên và mất
năm 483 trước công nguyên. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc đời
vương giả của một thái tử để đi tu, tìm đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6
năm, ông đã “ngộ đạo” và đã trở thành Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy
ông lấy hiệu là Buddha có nghĩa là “người giác ngộ” (Trung Quốc dịch là
Phật). Người ta gọi ông là Sakya - muni (Trung quốc dịch là Thích Ca Mâu
Ni - nhà hiền triết xứ Sakya). Sau 45 năm truyền đạo không biết mệt mỏi,
năm 80 tuổi Ngài mất. Thích Ca đã kế thừa các tư tưởng truyền thống Ấn Độ
cổ đại để sáng lập ra một trường phái tôn giáo - triết học mới, trường phái vô
thần, vô ngã. Tư tưởng của ông mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa nhân văn và
phương pháp tư duy biện chứng ở trình độ sâu sắc đáng kinh ngạc. Cốt lõi tư
tưởng của Thích Ca là bàn về nỗi khổ, giải thích nguyên nhân nỗi khổ và tìm
ra con đường giải thoát cho con người khỏi nỗi khổ.
Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải thoát, mọi người
phải nhận thức Bốn chân lý thiêng liêng tuyệt diệu - Tứ diệu đế (Cattari
ariyasaccani). Đó là:
+ Khổ đế (Dukkha ariyasacca) - Chân lý về nỗi khổ của nhân sinh:
Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy không ngoài 8 nỗi khổ: Sinh,
lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở
gần), sở cầu bất đắc (muốn mà không được), ngũ thụ uẩn (khổ vì có sự tồn
tại của thân xác).
+ Tập đế (Samudaya ariyasacca) - Chân lý về nguyên nhân nỗi khổ:
Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập nhị nhân duyên” để
chỉ ra nguyên nhân của sự khổ. Đó là: vô minh, hành, thức, danh sắc, lục căn,
xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.
+ Diệt đế (Nirodha ariyasacca) - Chân lý về sự diệt trừ nỗi khổ, Phật
giáo khẳng định có thể tiêu diệt nỗi khổ và chấm dứt luôn hồi.
18
+ Đạo đế (Magga ariyasacca): Chân lý về con đường diệt trừ nỗi khổ.
Con đường giải thoát, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vô minh (sự tăm tối,
không sáng suốt), gồm 8 con đường (Bát chính đạo). Đó là:
Chính kiến: Hiểu biết đúng
Chính tư duy: Suy nghĩ đúng
Chính ngữ: Giữ lời nói chân chính
Chính nghiệp: Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà
nghiệp phải sửa, chính nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động
gây ra), khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Chính mệnh: Tiết chế dục vọng, giữ điều răn
Chính tinh tiến: Hăng hái truyền bá chân lý của Phật
Chính niệm: Hằng nhớ phật, niệm phật
Chính định: Tĩnh tâm, tập trung tư tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vô ngã,
vô thường…
Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vô minh, giải thoát,
nhập vào cõi niết bàn - Nirvana. Niết bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi. Đặc điểm của Phật giáo là không đề cập vị thần
sáng tạo ra thế giới và con người. Đây là nét độc đáo trong thế giới quan
Phật giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo đề cao vai trò của con người trong cuộc sống
hiện thực, mục đích của Phật giáo là cứu khổ cho con người. Nhân sinh quan
Phật giáo tập trung vào hai vấn đề chính, một là sự khổ não, hai là sự giải
thoát khỏi sự khổ não ấy.
Về kinh điển, khi Đức Phật tại thế, giáo pháp và giới luật thường được
giảng dạy theo lối truyền miệng. Khi Phật nhập niết bàn, kinh điển được trước
tác thành văn, hình thành một hệ thống kinh sách đồ sộ với nội dung phong
phú, sâu sắc bao gồm Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng gọi là Tam tạng kinh
19
điển (Tripitaka), gồm Kinh tạng (Shutra pitaka - ghi lời Phật dạy, Luật tạng
(Vinaya pitaka - các giới luật mà giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo), và Luận
tang (Abhidhamma pitaka - các bài kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về giáo
pháp của các cao tăng và học giả sau này).
Những nội dung căn bản của Phật giáo nguyên thủy gồm những lời
Thích Ca thuyết pháp lúc còn sống được học trò ông tập hợp lại trong cuộc
tập kết lần thứ nhất, sau này được ghi lại trong các bộ kinh A hàm bằng tiếng
Sankrit: 1 - Trường A hàm (Dighagama); 2 - Trung A hàm (Madhyamagama);
3 - Tăng nhất A hàm (Ekottaragama); 4 - Tạp A hàm (Samyuktagama).
Phật giáo gồm hai phái là Đại thừa và Tiểu thừa. Từ hai phái đó mỗi
phái lại chia thành nhiều tông nên hay gọi là tông phái. Đại thừa (cỗ xe lớn):
Phái này cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự lực và tha lực tức bằng
sự dẫn dắt của người khác. Do đó phải “tự giác giác tha, tự độ độ tha” tức
mình đã giác ngộ thì phải giác ngộ người khác. Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mỗi
người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có một hiện tượng mang tính quy
luật, đó là hiện tượng phân phái của các hệ thống triết lý lớn trong quá trình
phát triển của chúng. Không nằm ngoài quy luật đó, trong quá trình phát triển
của mình, Phật giáo đã phân chia thành nhiều bộ phái khác nhau do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong quá trình phân phái, học thuyết
triết học của Phật giáo ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, số tín đồ Phật
giáo không ngừng gia tăng và mở rộng ra nước ngoài, cơ cấu tổ chức giáo hội
được hình thành và hoàn thiện dần, trở thành một hệ thống chặt chẽ từ trên
xuống dưới. Vì vậy, nếu cho rằng, quá trình Phật giáo phân phái rồi dần mất
chỗ đứng tại quê hương Ấn Độ là một bước thụt lùi của thì có lẽ đó là một sự
nhìn nhận phiến diện, cần phải thấy rằng quá trình phân phái của Phật giáo đó
là quá trình phát triển và thích ứng không ngừng của nó với những hoàn cảnh
20