BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------------
TẠ THỊ VÂN ANH
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM NHẬN CÁI ĐẸP
TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “LÃO HẠC” CỦA
NAM CAO Ở TRƯỜNG THCS
Chuyên ngành: LL và PPDH bộ môn Văn
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN VIẾT CHỮ
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ
cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.
Hà nội, ngày 10 tháng 05 năm 2017
Tác giả
Tạ Thị Vân Anh
LỜI CẢM ƠN
Luận văn tốt nghiệp cao học được hoàn thành tại Đại học Sư phạm Hà
Nội. Có được bản luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc tới Đại học Sư phạm Hà Nội, phòng đào tạo sau đại học, đặc
biệt là PGS. TS Nguyễn Viết Chữ đã trực tiếp hướng dẫn, dìu dắt, giúp đỡ tác
giả với những chỉ dẫn khoa học quý giá trong suốt quá trình triển khai, nghiên
cứu và hoàn thành đề tài "Phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp trong dạy học
truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao ở trường THCS". Xin chân thành cảm
ơn các Thầy Cô giáo trực tiếp giảng dạy truyền đạt những kiến thức khoa học
chuyên ngành lí luận và phương pháp giảng dạy văn cho bản thân tác giả
trong những năm tháng qua. Xin gửi tới Trường Đại học Sư phạm Hà Nội lời
cảm ơn sâu sắc vì đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tác giả thu thập số liệu
cũng như những tài liệu nghiên cứu cần thiết liên quan tới đề tài tốt nghiệp.
Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp, phê bình của q Thầy Cô, các nhà
khoa học và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, ngày 01 tháng 06 năm 2017
Tác giả
Tạ Thị Vân Anh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Giới hạn của đề tài ........................................................................................ 8
7. Giả thuyết khoa học của luận văn ................................................................. 8
8. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 8
9. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ..................................... 10
1.1. Cảm thụ văn học - vấn đề cơ bản của hoạt động tiếp nhận văn học . 10
1.1.1. Khái niệm cảm thụ thẩm mỹ và ý thức thẩm mỹ ............................... 10
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cảm thụ nghệ thuật nói chung và cảm
thụ văn học nói riêng................................................................................... 12
1.1.3. Những thành tựu nghiên cứu lí luận cảm thụ văn học và cảm thụ
văn chương .................................................................................................. 13
1.1.4. Cảm nhận cái đẹp trong nghệ thuật và cảm nhận cái đẹp trong
dạy học tác phẩm văn chương .................................................................... 15
1.1.5. Cảm nhận cái đẹp trong dạy học truyện ngắn của Nam Cao........... 15
1.2. Cảm thụ văn học với việc cảm nhận cái đẹp trong dạy học tác
phẩm văn chương .......................................................................................... 20
1.2.1. Cảm thụ văn học - một khâu thiết yếu của việc dạy học văn ............ 26
1.2.2. Phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp trong dạy học “Lão Hạc”
là một vấn đề bức thiết ................................................................................ 27
1.2.3. Đặc điểm tâm lí của học sinh THCS trong dạy học truyện ngắn
“Lão Hạc” ................................................................................................... 29
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 41
CHƯƠNG 2: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CẢM NHẬN
CÁI ĐẸP TRONG DẠY HỌC “LÃO HẠC” CỦA NAM CAO Ở LỚP
8 THCS ........................................................................................................... 42
2.1. Những định hướng cần thiết để phát triển năng lực dạy học cảm
nhận cái đẹp trong dạy học truyện ngắn Lão Hạc ..................................... 42
2.1.1. Bám sát đặc trưng thi pháp thể loại truyện ngắn của Nam Cao về
đề tài người nông dân ................................................................................. 42
2.1.2. Phát hiện và làm rõ cái đẹp nghệ thuật sâu sắc trong truyện ngắn về
đề tài nông dân của Nam Cao nói chung và truyện ngắn Lão Hạc nói riêng .. 45
2.1.3. Khơi gợi phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp từ học sinh qua
giao tiếp đối thoại với thầy, với bạn ........................................................... 58
2.1.4. Bám sát hoạt động đọc hiểu, tóm tắt các chi tiết của truyện ngắn
Lão Hạc ...................................................................................................................58
2.2. Những biện pháp phát triển năng lực cảm thụ cái đẹp trong giờ
học truyện ngắn Lão Hạc của học sinh ....................................................... 60
2.2.1. Vận dụng biện pháp đọc diễn cảm kết hợp với đọc nghệ thuật
những đoạn văn có tính thẩm mĩ nghệ thuật cao ........................................ 61
2.2.2. Gợi ý hướng dẫn so sánh trong phân tích tác phẩm nghệ thuật....... 63
2.2.3. Hướng dẫn phát hiện cái đẹp trong hình tượng ............................... 67
2.2.4. Hoạt động liên môn nghệ thuật trong trường học ............................ 68
2.2.5. Biện pháp nêu vấn đề ........................................................................ 69
2.2.6. Biện pháp gợi mở - vấn đáp .............................................................. 68
2.2.7. Kết hợp giảng và bình trước các vấn đề nghệ thuật trong tác phẩm ..... 73
2.2.8. Giao việc, thảo luận nhóm, tạo tranh luận cho học sinh trước,
trong và sau giờ học .................................................................................... 74
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 71
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................ 79
3.1. Mơ tả thực nghiệm ................................................................................. 79
3.1.1. Mục đích và nhiệm vụ thực nghiệm .................................................. 79
3.1.2. Chọn đối tượng thực nghiệm............................................................. 79
3.1.3. Kế hoạch thực nghiệm....................................................................... 80
3.2. Thiết kế giáo án thực nghiệm: Truyện ngắn “Lão Hạc”.................... 81
3.3. Tổ chức thực nghiệm.............................................................................. 89
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm và nhận xét ......................................... 90
3.4.1. Biện pháp đánh giá ........................................................................... 90
3.4.2. Hướng đánh giá ................................................................................ 91
3.4.3. Kết quả thực nghiệm và nhận xét đánh giá....................................... 92
Tiểu kết chương 3 .......................................................................................... 97
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BP
: Biện pháp
DH
: Dạy học
GV
: Giáo viên
HS
: Học sinh
PP
: Phương pháp
SGK
: Sách giáo khoa
THCS
: Trung học cơ sở
VB
: Văn bản
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Có thể nói chưa bao giờ trong lịch sử nước nhà, vai trò của giáo
dục với sứ mệnh cao quí là đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước lại được sự
quan tâm của xã hội toàn diện và sâu rộng đến như vậy.
1.2. Đặt vào điều kiện hiện nay của nước ta, chúng ta cần nhận rõ
những mặt hạn chế, bất cập của nền giáo dục cần phải sớm khắc phục. Chất
lượng giáo dục gắn với chuẩn đánh giá, cơ sở của việc đánh giá sản phẩm
giáo dục phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung và PP đào tạo. Trong một thời
gian dài, chúng ta có phần lơi lỏng với vấn đề bảo đảm chất lượng DH. Từ
đây lại nổi lên một vấn đề có tính thời sự và khoa học, đó là vấn đề đổi mới
PPDH.
1.3. Nhìn lại thực trạng DH văn hiện nay ở trường THCS, dễ nhận ra
vấn đề phát huy năng lực cảm nhận cái đẹp trong văn học của HS chưa được
quan tâm một cách đúng mức. Lâu nay, bản thân chủ thể HS chưa được đặt
vào đúng vị trí vốn có và cần có trong q trình phân tích tác phẩm mà chỉ
được coi là đối tượng tiếp thu của GV. Nhiệm vụ và chức năng chủ yếu của
người học là nghe và ghi chép những gì GV đã khám phá, phân tích trên tác
phẩm, sau đó đến lớp trình diễn lại một cách có nghệ thuật. Vai trò quan trọng
của chủ thể người học đã bị hạ thấp trở thành thụ động, lệ thuộc vào GV.
1.4. Sự sáng tạo bạn đọc, phát huy chủ thể HS là nguyên tắc mới nhất
trong đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Trong tiếp nhận, sáng tạo với bộ mơn
nghệ thuật thì phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp là trọng tâm. Mọi chức
năng khác đều phải qua chức năng giải trí thẩm mĩ.
1.5. Nam Cao (1917-1951) là một trong những nhà văn xuất sắc của
văn học Việt Nam thế kỷ XX. Các sáng tác của ông trước 1945 đã đóng góp
1
không nhỏ vào sự phát triển của văn xuôi trên các phương diện: khả năng
miêu tả và phân tích tâm lý, khả năng sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật... Đặc
biệt, nhà văn được khẳng định là lá cờ đầu của chủ nghĩa nhân đạo trong Trào
lưu văn học Hiện thực phê phán 1930 - 1945.
1.6. Các tác phẩm của nhà văn Nam Cao thường đa nghĩa, đa chức
năng và giàu triết lý nhân sinh. Cái đẹp, cái bi, cái hài đan xen làm nổi rõ tính
thẩm mĩ với những giá trị sâu sắc. Tác phẩm “Lão Hạc” được sáng tác năm
1943 là truyện ngắn đặc sắc được coi là truyện ngắn hiện thực trong trào lưu
hiện thực phê phán của thời kì 1930 - 1945. Đây là tác phẩm chứa chan tình
người lay động đến cõi thâm sâu của tâm hồn. Câu chuyện về số phận thê
thảm của người nông dân Việt Nam trong bối cảnh đe doạ của nạn đói và
cuộc sống cùng túng đã để lại xúc động sâu xa trong lòng độc giả.
1.7. Tác phẩm “Lão Hạc” đã được đưa vào nhà trường, giảng dạy trong
nhiều thập kỷ. Đã có nhiều cách dạy, cách khai thác các khía cạnh của tác
phẩm, đã khai thác nhiều về cái đẹp trong tác phẩm. Nhưng khai thác bằng
phát triển năng lực là chưa nhiều vì vậy việc dạy học tác phẩm “Lão Hạc” vẫn
chưa đạt được kết quả tối ưu.
Từ những lý do trên, đề tài “Phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp
trong dạy học truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao” thực hiện nhằm phát
triển khả năng cảm thụ của HS, nâng cao chất lượng giảng dạy và góp phần
thực thi việc đổi mới PPDH tác phẩm văn chương trong nhà trường THCS
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Nói tới việc DH tác phẩm văn chương là đề cập tới hoạt động cảm thụ
nghệ thuật, bởi đây là một hiện tượng độc đáo, kì diệu của quá trình thưởng
thức, tiếp nhận nghệ thuật. Nhờ nó mà người đọc văn, học văn có thể “lấy hồn
ta để hiểu hồn người” (Hoài Thanh).
2
Việc tìm kiếm và áp dụng các PP nhằm phát triển khả năng cảm nhận
cái đẹp trong các tác phẩm văn chương đã được nhiều người tìm nghiên cứu
trong một thời gian dài.
Trải qua một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, các nhà văn, nhà nho
xưa rất quan tâm tới năng lực rung động và cảm xúc của HS dù việc DH văn
có những chế định chặt chẽ, giáo điều. Đến thời nhà trường Pháp - Việt, khi
môn văn chương trở thành môn học quan trọng, được soi rọi bởi những kiến
thức của triết học, mỹ học, lí luận văn học, thì vấn đề cảm thụ đã có cơ sở
khoa học tương đối vững vàng. Người GV dạy học tác phẩm văn chương vào
thời kì đó đã nhận ra mối quan hệ gắn bó hỗ tương giữa cảm và hiểu, tức là
kết hợp giữa lí trí và tình cảm (Đặng Thai Mai). Tuy ngành PPDH văn lúc đó
cịn phơi thai, nhưng thông qua việc DH văn, các nhà sư phạm đã biết dựa vào
một qui trình khá hợp lí và có tính khoa học để giúp người học nắm bắt được
những ý tưởng và giá trị nghệ thuật do nhà văn sáng tạo (Dương Quảng
Hàm). Đến Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, nhà trường dân chủ và
nhân dân ra đời, việc DH văn thoát khỏi hạn chế của lối áp đặt lệ thuộc vào
chính sách thuộc địa của ngoại bang. Từ đây, chúng ta từng bước xây dựng
một chương trình văn học và cách dạy học tiến bộ. Trong thời kì đầu của nền
giáo dục mới, một mặt nhờ tiếp thu kinh nghiệm, hiểu biết của lớp người đi
trước, mặt khác bằng sự nổ lực học hỏi, sáng tạo theo tinh thần học thuật
Cách mạng, người dạy văn đã nhận ra phương hướng tìm hiểu, phân tích bài
văn dựa trên đặc trưng của nội dung và nghệ thuật, dù còn những lúng túng,
vấp váp dễ thấy. Tới khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi,
trong điều kiện hồ bình, nhất là khi biên giới phía Bắc được khai thông, miền
Bắc nước ta nối giao lưu với các nước trong phe XHCN, chúng ta có cơ hội
tiếp xúc với nguồn tài liệu mới liên quan tới DH văn. Chính vì thế, dần dần,
việc DH văn được đặt trên nền tảng khoa học và sư phạm tương đối vững
chắc, hợp lí. Trong bối cảnh đó, bộ mơn “Phương pháp dạy học văn” hình
3
thành, tạo cơ sở cho việc giảng dạy tác phẩm văn chương đi theo theo quỹ đạo
của một môn học vừa là nghệ thuật lại vừa là khoa học. Từ đó, việc DH văn
đã chú trọng nhiều tới các trạng thái cảm xúc, rung động, nhập thân và nắm
kiến thức. Ở giai đoạn này, nhờ kinh nghiệm và sự hướng dẫn của của các nhà
giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu qua các tài liệu đã xuất bản, người GV văn học
có được những hiểu biết cần thiết làm cơ sở cho việc giảng dạy bộ môn. Dẫu
sao, phần lớn nguồn kiến thức khoa học về hoạt động DH văn nói đó vẫn là
tài liệu dịch của nước ngồi, chủ yếu là của Liên Xơ. Có thể kể tới: “Cảm thụ
văn học của học sinh” của O.L.Nhikiphôrôva (1959); “Cảm thụ nghệ thuật”
của B.X.Mailax (1971) và một số cơng trình liên quan đến vấn đề cảm thụ của
những nhà lí luận tên tuổi như Khravchenco, Iakovson, Nhikônxki,
Z.Ia.Rez… Do điều kiện lịch sử, dễ thấy một thời gian dài, người DH văn bị
gò bó trong lối dạy học theo kiểu lệ thuộc vào sách hướng dẫn và các tài liệu
tham khảo. Mặt khác, do bị hạn chế bởi quan điểm học thuật của một thời
trước đổi mới, cho nên những mối quan hệ mật thiết trong tiến trình dạy văn
(cảm và hiểu, nội dung và hình thức) chưa được xử lí, chưa được giải quyết
thấu đáo và thiếu sự kết hợp hài hoà. Đến khi Liên Xơ sụp đổ, sự khủng
hoảng của lí luận, khoa học và giáo dục Xô Viết đã giúp chúng ta nhận rõ
thiếu sót tồn tại bấy lâu. Tiếp đó, vào thời kỳ tiến hành cơng cuộc đổi mới,
nhờ những thơng tin được cập nhật từ bên ngồi, chúng ta biết tới Trào lưu
phê bình mới, Lí thuyết hệ thống - cấu trúc, đặc biệt là Lí thuyết tiếp nhận
xuất hiện ở phương Tây từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Chúng ta kịp
nhận ra sự đổi thay quan điểm học thuật trên thế giới, từ đó soi vào công việc
DH văn để thấy những mặt yếu cần khắc phục. Đến thời kỳ này, do có hiểu
biết sâu về cấu trúc tác phẩm văn học và nhờ nắm rõ vai trò của tiếp nhận
nghệ thuật, chúng ta đã hướng tới việc đề cập yếu tố cảm xúc, rung động
trong dạy học văn bằng lí luận khoa học đầy đủ, đúng đắn. Nhờ những bài
dịch từ tài liệu nước ngồi đăng tải trên các tập san thơng tin khoa học và các
4
tạp chí mà một số nhà nghiên cứu lí luận, sư phạm đã chú ý đi sâu vào lĩnh
vực hoạt động cảm thụ văn học. Có thể kể tới các bài viết của Nguyễn Lai,
Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Hùng, Hồng Trinh, Hồng Ngọc Hiến…
Trước đó, do ý thức rõ vai trò của hiện tượng cảm thụ nghệ thuật, năm 1983,
Phan Trọng Luận cho xuất bản chuyên luận đầu tiên là “Cảm thụ văn học và
giảng dạy văn học”. Chuyên luận này đã trở thành một gợi ý, hướng sự quan
tâm đến một vấn đề lí luận thú vị và bổ ích cho giới nghiên cứu và giảng dạy
văn học ở nước ta. Với PP luận nghiên cứu khoa học liên hợp, ứng dụng, vừa
kết hợp lí luận với khảo sát thực tiễn, vừa tiếp cận được những thông tin hiện
đại về tiếp nhận văn chương, Phan Trọng Luận đã cung cấp được một số hiểu
biết khoa học về tính đặc thù của cảm thụ văn chương, mối quan hệ thẩm mỹ
của bạn đọc đối với tác phẩm, tính chủ quan, tính khách quan, tính sáng tạo
của tiếp nhận và những khái quát về đặc điểm cũng như tiêu chí phát triển văn
học ở bạn đọc… Đó cũng là những tiền đề cho việc đổi mới PP DH văn theo
hướng coi HS là bạn đọc, là chủ thể sáng tạo. Đến khi cuộc đổi mới tiến triển,
nhờ đổi mới tư duy lí luận, nhiều vấn đề học thuật và sư phạm được xới lên
với những quan điểm mới mẻ. Đây cũng là giai đoạn việc đổi mới việc dạy
học văn được tiến hành sâu rộng. Trong bước triển khai thay sách giáo khoa
(SGK) văn học ở bậc trung học cơ sở (THCS) (1986) và THPT (1991), vấn đề
DH văn theo đúng đặc trưng mơn học được lí giải sâu sắc qua các tài liệu bồi
dưỡng cũng như sách tham khảo cho GV. Việc trao đổi, thảo luận về hoạt
động DH văn diễn ra sôi nổi. Vấn đề cảm thụ nghệ thuật trong quá trình DH
văn được đặt vào trọng tâm chú ý. Có thể kể tới những đóng góp của Nguyễn
Duy Bình (Dạy văn là dạy cái hay cái đẹp), Nguyễn Đức Nam (Hiểu văn),
Hoàng Ngọc Hiến (Dạy văn, Học văn), Phan Trọng Luận (Cảm thụ văn học
và giảng dạy văn học), Hồ Ngọc Đại (Văn là gì ư?). Các ý kiến trao đổi, thảo
luận tại Diễn đàn cải cách việc DH văn đều thống nhất ở quan niệm về bản
chất mơn văn là mơn nghệ thuật ngơn từ. Vì vậy DH văn phải biết cách huy
5
động năng lực cảm thụ của người đọc HS. Cách DH văn do đó có nhiều thay
đổi căn bản. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến đặc trưng của văn chương,
nêu ra yêu cầu của dạy văn là hướng tới sự rung cảm, cảm xúc thì cũng có xu
hướng thốt li khỏi những yêu cầu khác của giờ văn, đặt trọng tâm của dạy
văn vào quỹ đạo khơi gợi cảm xúc rung động. Vì vậy PP đọc sáng tạo được
xem là PP chủ yếu và dạy văn chỉ sử dụng độc một PP. Dần dần, thực tiễn DH
văn đã cho thấy sự ấu trĩ của cách dạy văn nói đó và có sự điều chỉnh cho phù
hợp. Dù sao, cũng cần thấy nhận thức mới đã có một sự chuyển biến mạnh mẽ
trong quan điểm DH văn. Và tới nay, sau chặng đường 20 năm cải cách DH
văn, có thể thấy ảnh hưởng sâu sắc của một loạt các tài liệu hướng dẫn, các
sách tham khảo dạy văn được ấn hành rộng rãi. Có thể kể đến những cơng
trình như “Phương pháp dạy văn học ở trường phổ thông” của
V.A.Nhikônxki; “Dẫn luận nghiên cứu văn học” của G.N.Pospelov, đặc biệt
là cuốn giáo trình của Liên Xơ “Phương pháp luận dạy văn học” do Z.Ia.Rez
chủ biêt… Đến nay, qua nhiều lần điều chỉnh, quan điểm về DH đã được xác
định tương đối hợp lí, hồn chỉnh. Từ cách gọi mơn học có tính biệt lập, tách
mơn học thành các phân mơn “Văn học”, “Tiếng việt” và “Làm văn” trong
lần mở đầu cải cách giáo dục (1986), đến nay, khi chỉnh lí biên soạn chương
trình sách giáo khoa (2006) thì mơn Văn được dựa vào quan niệm tích hợp và
đưa về với tên gọi vốn có của nó là “Ngữ văn”. Thực tế cho thấy sự chuyển
đổi, xác định đúng bản chất, tính chất và cách thức dạy mơn học đặc thù như
mơn văn khơng phải là việc đơn giản. Chính nhờ có sự trao đổi, tranh luận về
quan điểm, đặc biệt qua thực tiễn DH văn ở nhà trường, chúng ta đã có những
bước điều chỉnh cần thiết. Với sự nổ lực tìm tịi nhằm đi tới nhận thức đúng
về nội dung và PP DH văn, càng ngày người GV văn càng có cơ sở khoa học
để đi vào thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mình trong quá trình tổ chức
hướng dẫn HS phân tích, cảm nhận tác phẩm văn học. Điểm dựa của tư tưởng
HD mới trong giờ văn là quan điểm: Học sinh - chủ thể cảm nhận sáng tạo.
6
Từ đây, bao vấn đề lí luận về cảm nhận văn học được đề cập, giúp cho người
dạy văn, học văn có phương hướng đúng. Cảm nhận nét đẹp văn học, vấn đề
tưởng như đã biết, trở thành vấn đề mới mẻ, phong phú, nhờ có sự bổ sung lí
luận mới là chính vậy.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Giáo viên, học sinh, người soạn sách.
- Chọn việc dạy học bài “Lão Hạc” sách ngữ Văn 8.
- Những biện pháp phát huy năng lực cảm nhận cái đẹp trong tác phẩm
“Lão Hạc”.
Đề tài nghiên cứu những cơ sở lý luận chủ yếu về vấn đề cảm nhận vẻ
đẹp văn học, đồng thời nhận định và nắm bắt thái độ tâm lý của HS và tìm
hiểu truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao để triển khai những BP phát huy
năng lực cảm nhận cái đẹp trong tác phẩm “Lão Hạc” của các em một cách có
hiệu quả.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
4.1.1. Để góp phần giải quyết khó khăn trong dạy học.
4.1.2. Đề tài nhằm góp phần khẳng định tính thực thi của việc nâng cao
năng lực cảm nhận vẻ đẹp văn học của HS trong giờ dạy học văn.
4.1.3. Tìm ra những BP phát huy năng lực cảm nhận cái đẹp của HS
trong DH truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao ở trường THCS.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Nghiên cứu những tri thức lí luận về cảm nhận văn học và thực
trạng DH văn học ở trường THCS.
4.2.2. Tìm hiểu những vẻ đẹp trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.
4.2.3. Tìm ra những BP phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp của HS
trong DH truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao và thực nghiệm trong
chương trình giảng dạy.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp tổng hợp lí luận và thực tiễn.
5.2. Phương pháp thực nghiệm.
5.3. Phương pháp thống kê.
5.4. Phương pháp đối chứng, so sánh sau thực nghiệm.
6. Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ tìm hiểu những BP giảng dạy nhằm phát triển năng lực
cảm nhận cái đẹp của HS trong khuôn khổ tác phẩm “Lão Hạc” của Nam
Cao được dạy trong nhà trường trung học phổ thơng (SGK chỉnh lí hợp
nhất năm 2000).
7. Giả thuyết khoa học của luận văn
7.1. Vận dụng một số BP trong giảng dạy nhằm phát triển năng lực cảm
nhận cái đẹp của HS trong dạy học truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao sẽ
góp phần khắc phục tính thụ động, một chiều, ít có tác động khơi dậy hứng
thú và khả năng sáng tạo của HS.
7.2. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và nâng cao năng lực
cảm nhận cái đẹp trước những vấn đề nghệ thuật của các em sẽ góp phần củng
cố PP DH văn theo hướng tích cực hóa hoạt động của HS trong nhà trường
phổ thơng.
8. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu những cơ sở lí luận và thực tiễn của việc cảm thụ
cái đẹp trong tác phẩm văn chương. Khảo sát đánh giá thực trạng năng lực
cảm thụ văn chương của HS ở trường THCS. Từ đó phân tích những hạn chế,
nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cụ thể để đổi mới PPDH, nhằm phát
triển năng lực cảm nhận cái đẹp trong DH tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao.
Từ đó, tạo tiền đề, cơ sở, tài liệu tham khảo để mở rộng đề tài nhằm phát triển
năng lực cảm thụ các tác phẩm văn học của HS THCS.
8
9. Bố cục của luận văn
Luận văn được thiết kế theo ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung,
phần kết luận và khuyến nghị. Phần nội dung của luận văn gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn.
Chương 2: Biện pháp phát triển năng lực cảm nhận cái đẹp trong
dạy học “Lão Hạc” của Nam Cao ở lớp 8 THCS.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
9
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cảm thụ văn học - vấn đề cơ bản của hoạt động tiếp nhận văn học
1.1.1. Khái niệm cảm thụ thẩm mỹ và ý thức thẩm mỹ
1.1.1.1. Khái niệm cảm thụ thẩm mỹ
Thẩm mỹ là hiểu biết và thưởng thức cái đẹp
Cảm thụ theo nghĩa từ nguyên là “nhận biết được cái tế nhị bằng cảm tính
tinh vi”. Như vậy, cảm thụ là một hiện tượng gắn với hoạt động tâm lí nhận thức.
Nhờ có các giác quan mà ta có những nhận biết về hiện thực khách quan.
Cảm thụ thẩm mỹ có thể hiểu là hiểu biết thưởng thức cái đẹp bằng
cảm tính tinh vi.
1.1.1.2. Khái niệm ý thức thẩm mĩ
Ý thức thẩm mĩ là một hình thái ý thức xã hội. Ý thức đó phản ánh
quan hệ thẩm mĩ giữa con người và hiện thực.
Con người khác loài vật chính là ở năng lực ý thức. L. Pascal nói: “Con
người là một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”. Ý thức con người
là sự tổng hợp hữu cơ giữa nhiều hình thái khác nhau, trong đó có hình thái
đặc thù là ý thức thẩm mỹ. Vậy, ý thức thẩm mỹ là một bộ phận của ý thức xã
hội được biểu hiện dưới hình thức trực tiếp, cảm tính.
Đã tồn tại hai quan niệm đối lập nhau về bản chất của ý thức thẩm mỹ
trong lịch sử mỹ học.
- Quan niệm có tính bản thể luận xem ý thức thẩm mỹ chính là sự phản
ánh bản thân thể hiện bằng những nguyên tắc đặc thù.
- Quan niệm có tính nhận thức luận xem ý thức thẩm mỹ như là một
phẩm chất thuần túy thuộc đời sống tinh thần của con người chủ yếu được
biểu hiện trong nghệ thuật.
Phải thấy là cả hai quan niệm đều rơi vào cực đoan. Một mặt, bất cứ
một thuộc tính thẩm mỹ khách quan nào trong các giá trị thẩm mỹ cũng đều
10
mang “tính người” nghĩa là có tính nhận thức luận, không thế chúng mãi mãi
chỉ là khách thể thẩm mỹ mà không thể là đối tượng thẩm mỹ. Mặt khác, bất
kỳ một đánh giá thẩm mỹ nào cũng đều xuất phát từ những thuộc tính thẩm
mỹ khách quan tồn tại không tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Trong trường hợp này, năng lực và cảm xúc thẩm mỹ chỉ làm tăng hay giảm
phẩm chất của các hiện tượng thẩm mỹ chứ không sản sinh ra chúng. Giá trị
thẩm mỹ vì vậy được nảy sinh đồng thời từ hai phía, cả chủ thể lẫn đối tượng.
Ý thức thẩm mỹ tồn tại dưới hai dạng: ý thức thông thường và ý thức lý
luận. Khơng nên đối lập hai hình thái này. Ý thức thơng thường chính là dạng
biểu hiện phổ biến của ý thức thẩm mỹ. Còn ý thức lý luận lại là dạng biểu
hiện cao mang tính khái qt, tính hệ thống của ý thức thẩm mỹ. Có ý thức
thẩm mỹ của thời đại, đồng thời có ý thức thẩm mỹ của cá nhân. Ý thức thẩm
mỹ của thời đại được biểu hiện qua tính đa dạng của ý thức thẩm mỹ cá nhân,
chi phối ở một mức độ nhất định đối với ý thức thẩm mỹ cá nhân. Tuy nhiên,
không hiếm những cá nhân kiệt xuất như những nghệ sĩ thật sự vĩ đại mà tư
tưởng đã vượt trước thời đại, có ý nghĩa soi sáng, dẫn đường.
Cũng như những hình thái ý thức xã hội khác, ý thức thẩm mỹ vừa phản
ánh vừa tác động tới tồn tại xã hội, thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển. Ý thức
thẩm mỹ khơng chỉ là một hình thái nhận thức thế giới mà cịn là hình thái tự
nhận thức của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức thẩm mỹ làm phong phú thêm
cuộc sống vốn đã vô cùng phong phú của con người trên trái đất này.
Các đặc điểm của ý thức thẩm mỹ:
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mĩ cũng giống như bất kỳ
một hình thái ý thức thức nào khác. Mọi nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch
sử được vận dụng cho các hình thức ý thức nói chung đều được vận dụng cho
ý thức thẩm mĩ. Như mọi hiện tượng ý thức khác, ý thức thẩm mĩ nảy sinh,
hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn đời sống xã hội.
11
- Ý thức thẩm mĩ của con người nảy sinh trong lao động và phát triển
trong sự gắn bó với lao động.
- Ý thức xã hội là phản ánh tồn tại xã hội, ý thức thẩm mĩ cũng nằm
trong quy luật chung đó.
- Ý thức xã hội khơng chỉ phản ánh thế giới mà còn cải tạo thế giới, ý
thức thẩm mĩ cũng nằm trong quy luật đó.
- Ý thức thẩm mĩ có hình thức tư duy đặc thù, đó là tư duy hình tượng.
Ý thức thẩm mĩ nảy sinh, hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn đời sống
xã hội.
1.1.2. Đặc điểm của hoạt động cảm thụ nghệ thuật nói chung và cảm thụ
văn học nói riêng
Mỗi tác phẩm hay mỗi hình tượng nghệ thuật đều là kết quả của một
quá trình chiêm nghiệm và khái quát thực tiễn của người nghệ sỹ. Q trình
đó phải được đúc kết từ kinh nghiệm, vốn sống, lí tưởng thẩm mỹ, năng lực
khái quát, tưởng tượng… để tiếp nhận một đối tượng thẩm mỹ, biến nó
thành sản phẩm tinh thần của mình. Nói một cách khái qt, tác phẩm văn
học chứa đựng cái khách quan phản ánh và cái chủ quan biểu hiện của nhà
văn. Vì vậy mà nó được xem là một đối tượng nhận thức đặc biệt, chi phối
đặc điểm của hoạt động cảm thụ nghệ thuật. Trước tiên, có thể nói hoạt
động cảm thụ nghệ thuật mang tính chủ quan, cảm tính đậm nét. Thế giới
trong tác phẩm bao giờ cũng vô cùng rộng lớn cho những suy tư và tưởng
tượng của mọi người. Trong cảm thụ nghệ thuật, yếu tố chủ quan cảm tính
đó càng biểu lộ qua nhiều khía cạnh khác nhau. Khía cạnh được biểu lộ rõ
nhất là hiện tượng thị sai hay khoảng cách văn học. Thị sai biểu lộ ở những
chủ thể cảm thụ khác nhau trước một hiện tượng văn học. Đây là một hiện
tượng bình thường và tất yếu, bởi vì nhà văn và kể cả bạn đọc, mỗi người
có một thế giới tinh thần khác nhau được qui định bởi vị trí xã hội, đặc
12
điểm tâm lí, thói quen và thị hiếu thẩm mỹ rất khác nhau. Tác phẩm văn
học phần nhiều được thai nghén từ những cảm xúc, những quan điểm thẩm
mỹ, những kỷ niệm… rất riêng tư của nhà văn, và là những sản phẩm của
những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa nhất định. Chính vì vậy q trình
cảm thụ của người đọc ít nhiều có khoảng cách nhất định với ý tưởng của
tác giả. Về phía tác phẩm văn học thì ln tồn tại yếu tố tiềm văn bản, luôn
mở ra một chân trời tiếp nhận cho người đọc. Do vậy mà ở từng thời điểm
khác nhau, khi động cơ, mục đích, cách thức cảm thụ hay năng lực đánh
giá tác phẩm văn chương của người đọc có sự thay đổi thì khoảng cách tiếp
nhận xuất hiện ngay trong chính bản thân họ là một điều dễ hiểu. Như vậy,
tính tản mạn, độ thị sai hay khoảng cách trong cảm thụ đều là những hiện
tượng có tính qui luật trong hoạt động cảm thụ nghệ thuật của bất cứ loại
đối tượng nào, phát triển hay chưa phát triển. Xét riêng mối quan hệ giữa
người đọc với tác phẩm, chúng ta sẽ thấy rằng chính bản thân tác phẩm cũng
qui định chiều hướng cảm thụ của người đọc. Cụ thể là sự khác nhau về loại
thể, phương thức biểu hiện của tác phẩm sẽ dẫn đến sự khác nhau về chiều
hướng và hiệu suất của cảm thụ. Bên cạnh đó, chất lượng tác phẩm cũng
quyết định cường độ, hứng thú tiếp nhận của người đọc một cách khá rõ rệt.
Tuy nhiên, nói đến tính chủ quan và khách quan, tính cá nhân và tính xã hội
của cảm thụ văn học thì chúng ta cần phải xem đây là hai mặt của một q
trình thống nhất. Hai nhân tố này ln có sự chuyển hóa, tác động qua lại lẫn
nhau, thâm nhập vào nhau một cách linh hoạt. Chính vì thế trong sáng tác,
nhà văn phải hòa cái chủ quan của mình vào cái chung rộng lớn của mọi
người thì mới có sức thuyết phục, lơi cuốn người đọc. Và đến lượt người đọc
cũng phải vượt qua cái chủ quan của mình thì mới cảm thụ hết cái hay, cái
đẹp của tác phẩm.
1.1.3. Những thành tựu nghiên cứu lí luận cảm thụ văn học và cảm thụ
13
văn chương
Tác phẩm văn học được sáng tác ra là nhằm để thưởng thức và tiếp
nhận. Nếu xem hoạt động của văn học bao gồm hai lĩnh vực lớn: hoạt động
sáng tác và hoạt động cảm thụ, thì bản thân sự cảm thụ đã hàm chứa một nửa
lí luận văn học. Chính vì thế, việc nghiên cứu lí luận cảm thụ văn học cần
phải được tiến hành song song với việc nghiên cứu quá trình sáng tác văn học.
Từ thế kỉ I trước CN, lí luận tiếp nhận văn học đã hình thành hai quan niệm:
Tri âm và kí thác. Quan niệm tri âm cho rằng nhiệm vụ tiếp nhận là cảm và
hiểu cuộc sống được gợi lên trong tác phẩm như chính tác giả, chẳng hạn như
câu chuyện của Bá Nha - Tử Kỳ. Cịn quan niệm kí thác thì xem tác phẩm
như là nơi gửi gắm tư tưởng, tình cảm của mình. Như vậy, trên thực tế, cùng
với sự xuất hiện của ý thức văn học, cũng xuất hiện ý thức về tiếp nhận, về
cảm thụ văn học. Tuy nhiên, lí luận này chủ yếu chỉ quan tâm tới sự gặp gỡ
của chủ thể cá nhân tác giả và người đọc, mà chưa quan tâm tới tính qui định
văn hóa lịch sử đối với sự gặp gỡ đó. Trong thế kỉ XX, khoa xã hội học về
văn học và lí luận tiếp nhận văn học đã hình thành và phát triển một cách có
hệ thống để trở thành hướng nghiên cứu có triển vọng. Nhiều tên tuổi trong
nghiên cứu văn học đã đi theo hướng này là: Q.D.Leavis, Doulas Waples,
Robert Estarpit, Hans Rober Jauss… Năm 1967, H.R.Jauss, một trong những
đại biểu xuất sắc của trường phái Constance, đã mở rộng, bổ sung cho lí luận
trên thêm bình diện xã hội học và văn hóa lịch sử. Ơng nêu ra vấn đề lịch sử
tiếp nhận: sự tiếp nhận của truyền thống văn hóa này đối với tác phẩm của
một truyền thống văn hóa khác, của một xã hội này đối với tác phẩm của một
xã hội khác, và của công chúng xác định đối với một tác phẩm. Trong quyển
“Vì một nền mỹ học tiếp nhận”, Jauss đã đặt giả thuyết rằng một tác phẩm
đồng thời bao gồm văn bản với tư cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp
nhận văn bản do người đọc. Cấu trúc tác phẩm được cụ thể hóa bởi những
người cảm thụ để đạt đến phẩm chất của tác phẩm. Ý nghĩa của nó thay đổi
14
theo điều kiện và lịch sử xã hội của tiếp nhận, nên nó khơng cố định, bất biến
mà nó mang ý nghĩa của một cuộc đối thoại, mở ra cả một chân trời ý nghĩa
cho người đọc. Năm 1976 - 1978, tập sách “Xã hội, văn học, sự đọc” của các
nhà nghiên cứu người Đức do Manfred Nauman chủ biên đã nêu ra những vấn
đề cốt lõi nhất của lí thuyết tiếp nhận. Họ cho rằng trung tâm lí thuyết tiếp
nhận là giải quyết vấn đề tương quan chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau
của quá trình văn học. Từ đó cần phải làm rõ các thành tố: Tác giả, tác phẩm,
người đọc và hiện thực. Trong đó thành tố hiện thực được đặc biệt nhấn
mạnh. Ở Việt Nam, nhờ dựa trên cơ sở tiếp thu có phê phán, có lựa chọn mà
khoảng hai thập niên gần đây, một số nhà nghiên cứu đã bắt đầu ý thức được
tầm quan trọng của việc nghiên cứu theo hướng lịch sử - chức năng. Và có
nhiều bài viết, chuyên luận về lí thuyết tiếp nhận đã được giới thiệu rộng rãi
đến công chúng Việt Nam.
1.1.4. Cảm nhận cái đẹp trong nghệ thuật và cảm nhận cái đẹp trong dạy
học tác phẩm văn chương
1.1.4.1. Cái đẹp và nghệ thuật
Nghệ thuật là nơi cao nhất tập trung mối quan hệ thẩm mĩ của con
người đối với hiện thực. Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp. Cái gì khơng
đẹp khơng thể là nghệ thuật.
Cái đẹp gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật. Nhưng đây là hai phạm trù
hoàn toàn khác nhau.
Cái đẹp là phạm trù chỉ những giá trị thẩm mĩ khắp mọi nơi: trong thiên
nhiên, xã hội và trong nghệ thuật. Cái đẹp tổng thể bao gồm: cái đẹp bên
trong và bên ngoài. Là phạm trù trung tâm và cơ bản của mĩ học. Nguồn gốc
cơ sở đánh giá, có liên quan mật thiết với khái niệm hài hòa. Sự thống nhất
biện chứng giữa các yếu tố tạo nên sự vật, mang lại cảm giác thăng bằng,
hoàn thiện.
15
Nghệ thuật là một hình thái ý thức đặc thù của con người. Nghệ thuật
không chỉ gắn liền với cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm sự, suy tưởng về
cuộc đời. Chính vì vậy, nghệ thuật có nhiều chức năng khác nhau: giáo dục,
nhận thức, thông báo, giao tiếp, giải trí, thẩm mỹ...Cái đẹp là một phương
diện khơng thể thiếu của nghệ thuật.
Cái đẹp trong nghệ thuật là cái đẹp của mọi cái đẹp (của cả tự nhiên và xã
hội) mà chủ thể nghệ sĩ đã kết tinh lại bằng sáng tạo độc đáo của mình, đồng thời
đem cống hiến trong xã hội cho sự toàn vẹn, hoàn mỹ. Chính bởi thế cái đẹp
nghệ thuật bao gồm cả cái đẹp trong đời sống xã hội và trong tự nhiên.
Vẻ đẹp đời sống mn hình vạn trạng. Đó là cái đẹp trong thiên nhiên,
trong xã hội và bản thân chủ nhân của thiên nhiên, xã hội – con người. Tất cả
vẻ đẹp của thiên nhiên, xã hội và con người được tập trung trong nghệ thuật –
nơi hội tụ của cái đẹp. Đã đành ở đâu và trong bất cứ lĩnh vực nào, con người
cũng mong muốn “sáng tạo theo quy luật của cái đẹp”. Song chỉ trong nghệ
thuật, con người mới có dịp tiếp xúc với cái đẹp rõ rệt và thường xuyên hơn
cả. Vì đây là một lĩnh vực sản sinh ra cái đẹp một cách có ý thức nhất, chuyên
biệt nhất. Cái đẹp trong tác phẩm nghệ thuật mang vẻ hoàn thiện, đẹp cả về
nội dung lẫn hình thức. Trong nội dung tác phẩm, dễ thấy hơn là đối tượng
đẹp (con người đẹp, môi trường đẹp, cảnh trí đẹp…). Thể hiện cái xấu cũng
nhằm hướng tới cái đẹp.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khơi
(Nguyễn Khuyến)
Mỉa mai “tiến sĩ giấy”, có danh mà khơng có thực, là một cách khẳng
định vẻ thực chất vốn xa lạ với mọi sự khoa trương, trống rỗng ở đời. Sâu xa
hơn trong nội dung tác phẩm nghệ thuật là vẻ đẹp tư tưởng, tình cảm của
người nghệ sĩ gửi gắm qua hình tượng. Nghệ thuật khơng chỉ giải thích thế
16
giới, nghệ thuật cịn nâng cao tầm nhìn, mài sắc cái nhìn của con người vào
thế giới. Tấm lịng và suy nghĩ của người nghệ sĩ mới đáng nói và đáng chia
sẻ hơn tất cả. Đó cũng là đặc điểm dễ thấy của cái đẹp nghệ thuật so với cái
đẹp ngoài đời sống. Tiếp xúc với cái đẹp trong nghệ thuật con người không
thể dửng dưng, ấy là bởi vẻ đẹp trong nghệ thuật thấm đẫm cảm xúc và tư
tưởng của nhà sáng tạo. Cái đẹp trong nghệ thuật đặc biệt được bộc lộ qua
chất liệu và qua cách thức thể hiện nội dung. Trong nghệ thuật, nói cái gì cố
nhiên là quan trọng. Nói như thế, bằng cách nào quan trọng cũng khơng kém.
Hồn tồn khơng giống với các sản phẩm vật chất và tinh thần khác, tác phẩm
nghệ thuật phải ngời tỏa vẻ đẹp hình thức. Hiệu quả nghệ thuật tùy thuộc vào
lao động nghệ thuật say mê và cực nhọc. Tính hồn thiện hồn mỹ bao giờ
cũng là mục tiêu phấn đấu của người nghệ sĩ. Nhờ thế mà tác phẩm nghệ
thuật chân chính mới sống mãi cùng thời gian.
Vậy là, khơng thể nói đến cái đẹp mà quên nói đến nghệ thuật. Tuy
nhiên, cái đẹp và nghệ thuật không phải là một. Cái đẹp không phải chỉ có
trong nghệ thuật và nghệ thuật khơng phải chỉ có nhiệm vụ sáng tạo ra cái
đẹp. Đồng nhất giữa cái đẹp và nghệ thuật sẽ sai lầm không kém việc hồn
tồn tách biệt chúng, khơng thấy mối liên hệ giữa chúng.
1.1.4.2. Cảm nhận cái đẹp trong dạy học tác phẩm văn chương
Cảm nhận cái đẹp trong văn chương cũng là một hoạt động cảm nhận
cái đẹp trong trong nghệ thuật.
Văn chương là khái niệm dùng để chỉ một ngành nghệ thuật - nghệ
thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình
tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống. Khái niệm văn chương và văn
học thường bị dùng lẫn lộn. Văn học là khoa học nghiên cứu về văn chương.
Nó lấy các hiện tượng văn chương nghệ thuật làm đối tượng cho mình. Quan
hệ giữa văn chương và văn học là quan hệ giữa đối tượng và chủ thể, giữa
17