Mục Lục
1 .Đặt vấn đề .....................................................................................2
2.Nội dung..........................................................................................3
2.1 Lễ Hội...........................................................................................3
2.1.1Khái niệm....................................................................................3
2.1.2 Đặc trưng của lễ hội....................................................................5
2.2 Lễ hội chùa Hương ....................................................................10
2.2.1 Giới thiệu lễ hội chùa Hương ...................................................10
2.2.2 Ảnh hưởng của lễ hội đến đời sống của người dân...................14
3. Kết luận.........................................................................................23
Tài liệu tham khảo............................................................................24
1
1 .Đặt vấn đề
Hương Sơn là vùng quê yên bình và hiền hòa thuộc huyện Mĩ Đức, Thành
phố Hà Nội. địa danh quen thuộc với người dân Việt Nam và nước ngoài,
Hương Sơn là vùng di tích lịch sử - văn hóa – thắng cảnh nổi tiếng lâu đời,
được tôn danh là: “Nam thiên đệ nhất động” một di tích lịch sử quốc gia với
Hương Tích, Thiên Chù… Hương Sơn có lịch sử phát triển lâu đời và giàu
truyền thống văn hóa và cách mạng. Nơi đây chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử
quốc gia dân tộc, là cái nôi của nền Việt cổ với di chỉ văn hóa Hòa Bình. Các
giá trị của vùng đất truyền thống vùng đất Hương Sơn rạng nối tiếp và bồi
đắp trong thời kì đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để có
vùng quê trù phú, yên bình hôm nay là quá trình đấu tranh với thiên tai, địch
họa kiên cường bền bỉ của thế hệ nhân dân Hương Sơn. Trong dòng chảy lịch
sử ấy đã bồi tụ, hun đúc bản sắc văn hóa bản địa với giá trị truyền thống quý
báu.
Lễ hội là đối tượng quan trọng của nền văn hóa dân tộc, có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người,
đồng thời phản ánh rõ nét sinh hoạt tín gưỡng của người ViệtTrong thời buổi
kinh tế thị trường hiện nay, không khí trong khu vưc mà trên toàn thế giới
dang tập trung phát triển kinh tế theo xu hướng: “Công nghiệp hóa – hiện đại
hóa” mà vô tình làm mai một đi giá trị truyền thống, ngày nay trong lễ hội
cũng được cải thiện nhiều cho phù hợp với nèn kinh tế thị trường mà lãng
quên đi nguyên tắc vốn có. Do đó việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc là
nhiệm vụ quan trọng của tất cả người Việt. Trong văn kiện Đại hội X
của Đảng chỉ rõ: “xây dựng văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, đáp ứng yêu cầu phat triển của con người và xã hội tạo được đẩy mạnh
phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa” và hội nhập quốc tế theo nguyên
tắc: hòa nhập nhưng không hào tan. Cho nên việc đi sâu tìm hiểu lễ hội chùa
2
Hương nhằm mục đích phần nào kiên trì, phát huy truyền thống văn hóa
mang đậm bản sắc dân tộc và yếu tố tích cực của lễ hội trong đời sống hiện
nay.
Lễ hội là đối tượng quan trọng của sử học, có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong đời sống vật chất cũng như tình cảm của con người. Nó gắn liền quá
khú
với hiện tại, chính vì vậy ở từng địa phương mới nhận thấy dược vai trò và
tầm
quan trong của mình. Việc nghiên cứu tìm hiểu lễ hội chùa Hương không
nằm
ngoài lí do đó. Không giống bất kì nơi nào chùa Hương là một tập hợp nhiều
đền chùa hang động gắn liền với núi rừng và trở thành một quần thể thắng
cảnh rộng lớn, với một kiến trúc hài hòa với thiên nhiên nhân tạo, tạo hóa đã
khéo tây bày đặt nơi đây núi non sông nước hiền hòa và con người đã thổi
hồn mình vào những điều kì diệu đó, nó trở nên linh động và nhiều mầu sắc,
chính đó đã tạo nên một nét văn hóa. “Lễ hội chùa Hương” còn khẳng định
không chỉ là lễ hội văn hóa lớn mà là một nơi tham quan về đất nước, con
người, nơi địa linh thắng cảnh sơn thủy hữu tình, từ những lý do đó, mà em
chọn đề tài “ Những đặc trưng của Lễ hội chùa Hương ở xã Hương Sơn,
huyện Mĩ , Đức, thành phố Hà Nội ”, làm đề tài tiểu luận của mình.
3
2.Nội
dung.
2.1 Lễ Hội.
2.1.1Khái niệm
Lễ hội truyền thống là hiện tượng lịch sử, hiện tượng văn hóa có mặt ở Việt
Nam từ lâu đời và có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội. Những năm
gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế của
nước ta, văn hóa truyền thống nói chung, trong đó có lễ hội truyền thống đã
được phục hồi và phát huy, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của Việt
Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp trong phục hồi và phát
huy lễ hội cổ truyền trong đời sống xã hội đương đại, thì cũng không ít các
vấn đề nảy sinh khiến xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục để
những mặt tinh hoa của lễ hội cổ truyền được đẩy mạnh và phát huy, khắc
phục dần các hạn chế, tiêu cực. Và bao giờ cũng thế, mọi hành động của con
người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta có nhận thức đúng về lễ hội
cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó trong đời sống xã hội đương đại
mới mang lại hiệu quả mong muốn.
Lễ hội là một trong những “hoạt động văn hoá cao”, “hoạt động văn hoá nổi
trội” trong đời sống con người. Hoạt động lễ hội là hoạt động của cộng đồng
hướng tới “xử lý” các mối quan hệ của chính cộng đồng đó. Hoạt động này
diễn ra với những hình thức và cấp độ khác nhau, nhằm thoả mãn và phục vụ
lợi ích đa dạng trước mắt và lâu dài của các tầng lớp người; thoả mãn những
nhu cầu của các cá nhân và tập thể trong môi trường mà họ sinh sống.
4
Môi trường của lễ hội truyền thống Việt Nam về cơ bản chính là nông thôn,
làng xã Việt Nam. Lễ hội là môi trường thuận lợi mà ở đó các yếu tố văn hoá
truyền thống được bảo tồn và phát triển. Những yếu tố văn hoá truyền thống
đó không ngừng được bổ sung, hoàn thiện, vận hành cùng tiến trình phát
triển lịch sử của mỗi địa phương trong lịch sử chung của đất nước. Nó chính
là hệ quả của cả quá trình lịch sử của không chỉ một cộng đồng người. Đây
chính là tinh hoa được đúc rút, kiểm chứng và hoàn thiện trong dọc dài lịch
sử của bất cứ một cộng đồng cư dân nào. Lễ hội có sức lôi cuốn, hấp dẫn và
trở thành nhu cầu, khát vọng của người dân cần được đáp ứng và thoả
nguyện qua mọi thời đại. Bản chất của lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao
đời sống vật chất, tinh thần của người dân trong xã hội ở từng giai đoạn của
lịch sử.
2.2.2 Đăc trưng của lễ hội.
Lễ hội cổ truyền là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống tính phức
hợp, một hiện tượng văn hóa dân gian tổng thể, bao gồm gần như tất cả các
phương diện khác nhau của đời sống xã hội của con người: sinh hoạt tín
ngưỡng, nghi lễ, phong tục, giao tiếp và gắn kết xã hội, các sinh hoạt diễn
xướng dân gian (hát, múa, trò chơi, sân khấu…), các cuộc thi tài, vui chơi, giải
trí, ẩm thực, mua bán… Không có một sinh hoạt văn hóa truyền thống nào
của nước ta lại có thể sánh được với lễ hội cổ truyền, trong đó chứa đựng đặc
tính vừa đa dạng vừa nguyên hợp này.
Chủ thể của lễ hội cổ truyền là cộng đồng, đó là cộng đồng làng, cộng đồng
nghề nghiệp, cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng, cộng đồng thị dân và lớn hơn cả
là cộng đồng quốc gia dân tộc. Nói cách khác không có lễ hội nào lại không
thuộc về một dạng cộng đồng, của một cộng đồng nhất định. Cộng đồng chính
là chủ thể sáng tạo, hoạt động và hưởng thụ các giá trị văn hóa của lễ hội.Ba
đặc trưng trên nó quy định tính chất, sắc thái văn hóa, cách thức tổ chức,
5
thái độ và hành vi, tình cảm của những người tham gia lễ hội, phân biệt với
các loại hình lễ hội khác như lễ hội sự kiện, các loại Festival...
Lễ hội cũng như bất cứ một hiện tượng văn hóa, xã hội nào cũng đều chịu sự
tác động bối cảnh kinh tế - xã hội đương thời và nó cũng phải tự thích ứng
biến đổi theo. Tuy nhiên, với loại hình lễ hội truyền thống thì ba đặc trưng
nêu trên là thuộc về bản chất, là yếu tố bất biến, là hằng số, chỉ có những biểu
hiện của ba đặc tính trên là có thể biến đổi, là khả biến để phù hợp với từng
bối cảnh xã hội. Khẳng định điều này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
việc phục hồi, bảo tồn và phát huy lễ hội trong xã hội hiện nay. Việc phục
dựng, làm mất đi các đặc trưng trên của lễ hội cổ truyền thực chất là làm
biến dạng và phá hoại các lễ hội đó.
Giá trị của lễ hội cổ truyền
Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ.
Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại?
Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu của con người không chỉ
trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ hội cổ
truyền hội tụ các giá trị sau:
Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể
là cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng
đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền
Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ
hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự
cố kết cộng đồng.
6
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết,
như gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài
nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của
một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng
cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội
là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm
của sức mạnh cộng đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng
định “cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá
vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa
vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội
vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố
kêt cộng đồng ấy.
Giá trị hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà
con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội
cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn
thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội
bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.
Tính thiêng
Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được một lý do mang
tính "thiêng" nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc bị tử thương, ngã
xuống mảnh đất ấy, lập tức được mối đùn lên thành mộ. Đó là nơi một người
anh hùng bỗng dưng hiển thánh, bay về trời. Cũng có khi đó chỉ là một bờ
sông, nơi có một xác người chết đuối, đang trôi bỗng nhiên dừng lại, không
7
trôi nữa; dân vớt lên, chôn cất, thờ phụng... Cũng có khi lễ hội chỉ hình thành
nhằm ngày sinh, ngày mất của một người có công với làng với nước, ở lĩnh
vực này hay lĩnh vực khác (có người chữa bệnh, có người dạy nghề, có người
đào mương, có người trị thủy, có người đánh giặc... ). Song, những người đó
bao giờ cũng được "thiêng hóa" và đã trở thành "Thần thánh" trong tâm trí
của người dân.
Nhân dân tin tưởng những người đó đã trở thành Thần thánh, không chỉ có
thể phù hộ cho họ trong những mặt mà sinh thời người đó đã làm: chữa
bệnh, làm nghề, sản xuất, đánh giặc... mà còn có thể giúp họ vượt qua những
khó khăn đa dạng hơn, phức tạp hơn của đời sống.Chính tính "Thiêng" ấy đã
trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân trong những thời điểm khó khăn,
cũng như tạo cho họ những hy vọng vào điều tốt đẹp sẽ đến.
Tính cộng đồng
Lễ hội chỉ được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở thành nhu cầu tự
nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của lễ hội cũng lớn.
Bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một vùng hoặc cả
nước.
Tính địa phương
Lễ hội được sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất nhất định. Bởi thế lễ
hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa phương của lễ hội chính
là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời sống của nhân dân, nó đáp
ứng những nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân, không chỉ ở nội dung
lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong cách đó thể hiện ở lời văn
tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, ở lễ vật dâng cúng...
Tính cung đình
8
Đa phần các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội của
người Việt, là các người đã giữ các chức vị trong triều đình ngày xưa. Bởi thế
những nghi thức diễn ra trong lễ hội, từ tế lễ, dâng hương, đến rước kiệu...
đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể hiện ở cách bài trí,
trang phục, động tác đi lại... Điều này làm cho lễ hội trở nên trang trọng hơn,
lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho người tham gia cảm
thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp ứng tâm lý, những
khao khát nguyện vọng của người dân.
Tính đương đại
Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch
sử, cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới,
những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađio, cassete,
video, tăng âm, micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội
được thuận lợi hơn, đáp ứng nhu cầu mới.Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều
phải dần dần qua sự sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp
nhận, không thể là một sự lắp ghép tùy tiện, vô lý...
Nghệ thuật diễn xướng
Có thể nói rằng, toàn bộ lễ hội là một sân khấu đặc biệt. Tại sân khấu này, có
ba nhân vật chính. Một nhân vật là ông Thầy cúng (Thầy Đồng đền ở Đền,
Ông chủ tế ở đình...) người có khả năng thông qua các Thần linh, sự nhập vai
của các Thần linh (các hiện tượng lên đồng). Nhân vật thứ hai là quần chúng
nhân dân, những tín đồ của tôn giáo hay tín ngưỡng, những người đã có sẵn
những cảm xúc tôn giáo, tín ngưỡng nhạy bén, sẵn sàng tham gia, nhập cuộc
vào cuộc trình diễn này. Nhân vật thứ ba tuy không xuất hiện trên sân khấu,
9
nhưng lại có vai trò rất quan trọng trong Lễ hội, chính nhân vật này tạo ra
cảm hứng xuyên suốt cuộc Lễ hội, là động lực của Lễ hội. Đó là các Thần linh,
đối tượng thờ cúng của các Lễ hội.
Nghệ thuật tạo hình và trang trí
Nghệ thuật tạo hình và trang trí tồn tại trong Lễ hội như một yếu tố tất yếu.
Cờ hội với năm sắc ngũ hành - năm màu tương ứng với năm yếu tố cơ bản
của vũ trụ theo quan niệm triết học cổ sơ, đặt cạnh nhau rất tương phản, gây
sự chú ý. Các loại kiệu sơn son thếp vàng lộng lẫy, chạm trổ tinh vi. Tượng gỗ
với cách tạo hình dân gian và truyền thống. Và, trong ngày hội làng, các đội
tế với cách ăn mặc đặc biệt, đã gây ấn tượng đối với người dự hội. Thực ra,
trang phục của đội tế, từ chủ tế đến các thành viên của đội, là sự mô phỏng
sắc phục của quan lại khi lâm triều. Đó cũng là yếu tố tâm lý hấp dẫn đối với
những người trong đội tế. Dường như trong trang phục đó, họ cảm thấy một
vinh dự đặc biệt dành cho họ và họ được đứng ở một vị trí khác hẳn ngày
thường. ở các Đền phủ, nghệ thuật trang trí đặc biệt được coi trọng.
Nghệ thuật âm nhạc, ca hát và múa
Trong lễ hội có diễn ca, trống chiêng và múa. Có thể suy đoán, các điệu múa
cờ, múa chiêng, múa trống.Âm nhạc, ca hát và múa không chỉ xuất hiện ở
phần hội. Ngay ở phần lễ, các loại nghệ thuật biểu diễn này đã có mặt như
một yếu tố không thể thiếu được, và ở một số lễ hội, các loại hình nghệ thuật
này đã chiếm vai trò chủ đạo. Chẳng hạn, ở huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, có
một loại sinh hoạt ca hát đã trở thành ngày hội làng. Đó là hội Dô, với loại
hát Dô độc đáo. Với các quy định chặt chẽ về lề lối sinh hoạt, hát Dô là một
hình thức hát thờ, hát nghi lễ được tổ chức khá quy củ với các làn điệu, bài
bản phong phú. Loại hình hát nghi lễ còn khá phổ biến trên khắp địa bàn
vùng đồng bằng Bắc Bộ.
10
2.2 Lễ hội chùa Hương
2.2.1 Lễ hội chùa Hương
Lễ hội chùa Hương đã có tự lâu dời. Hằng năm, cứ đến mùng sáu tháng Giêng
sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài gần như suốt mùa xuân.
Khách hành hương từ khắp mọi miền đất nước, Việt kiều và du khách nước
ngoài nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong một năm mới tốt lành, vừa để
được đắm mình trong khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
Thắng cảnh Hương Sơn thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, cách Thủ đô Hà Nội
khoảng 70 km về phía Tây Nam. Đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng
đến bến Đục thì dừng. Bắt đầu từ đây đã là địa phận Hương Sơn. Du khách
xuống đò dọc, lướt theo dòng suối Yến trong xanh chảy giữa hai bên là cánh
đồng lúa mơn mởn. Trước mắt là dãy núi trập trùng tím biếc, ẩn hiện trong
mây trắng, đẹp vô cùng!
Có thể nói quần thể Hương Sơn là sự kết hợp tuyệt vời giữa kì công của Tạo
hóa với bàn tay khéo léo, tài hoa của con người. Các ngôi chùa được xây
dựng rải rác trên triển núi đá vôi, thấp thoáng dưới rừng cây xanh thẳm. Từ
chân núi trèo ngược lên hàng ngàn bậc đá cheo leo, gập ghềnh, khách hành
hương sẽ lần lượt thắp nhang ở chùa Ngoài, rồi vào chùa Trong, lên chùa
Giải Oan, chùa Thiên Trù với động Hinh Bồng, động Hương Tích… Chùa nào
cũng cổ kính, uy nghi, đèn nến chập chờn giữa làn khói hương mờ mờ, ảo ảo,
tạo nên không khí huyền bí, linh thiêng. Mỗi người đến chùa Hương với một
tâm trạng, một ước nguyện riêng tư, nhưng điều chung nhất là cảm giác trút
bỏ được những vướng bận hằng ngày của đời thường, cả thể xác lẫn tâm hồn
đều lâng lâng, thoát tục.Trên con đường dốc đá quanh có, dòng người nối
đuôi nhau lên xuống. Già, trẻ, gái, trai đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi miền quê. Lạ
hoá thành quen qua câu chào: “Nam mô A di đà Phật”. Nhiều cụ bà chít khăn
mỏ quạ, áo tứ thân bằng the nâu thắt vạt, tràng hật đeo trên cổ, tay chống
11
cây gậy trúc, bước chân đi dẻo dai chẳng kém thanh niên. Tiếng “Nam mô”
râm ran suốt mọi nẻo đường.
Hội chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn, trong địa phận huyện
Mỹ Đức, Hà Nội. Ngày mồng sáu tháng giêng là khai hội. Lễ hội thường kéo
dài đến hạ tuần tháng 3 âm lịch. Vào dịp lễ hàng triệu phật tử cùng du khách
khắp 4 phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Hành trình về một miền đất
Phật - nơi Bồ Tát Quan Thế Âm ứng hiện tu hành, để dâng lên Người một lời
nguyện cầu, một nén tâm hương, hoặc thả hồn hòa quyện với thiên nhiên ở
một vùng rừng núi còn in dấu Phật.
Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng riêng đến 18 tháng hai âm lịch. Ngày này
vốn là ngày lễ khai sơn (lễ mở cửa rừng) của địa phương. Đến nay nghi lễ
"mở cửa rừng" hàm chứa ý nghĩa mới - mở cửa chùa.
Lễ hội chùa Hưng trong phần lễ thực hiện rất đơn giản. Trước ngày mở hội
một ngày, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều khói hương nghi ngút, không
khí lễ hội bao trùm cả xã Hương Sơn.
Xã Hương Sơn là xã sở tại trực tiếp quản lý các tuyến du lịch. Trước khi vào
chùa, du khách phải nghỉ lại ở các làng quanh bến Đục, bến Yến. Vì thế đi hội
chùa Hương du khách dễ có dịp hòa mình vào không khí của hội làng truyền
thống.
12
Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và
thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi
mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Trong lúc chạy đàn, hai vị tăng ni múa rất
dẻo và đẹp mắt qua những động tác ít thấy ở mọi nơi. Từ ngày mở hội cho
đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh
chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt.
Về phần lễ có nghiêng về "thiền". Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần
thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo. Đền Cửa Vòng là "chân long linh
từ” thờ bà chúa Thượng Ngổn, là người cai quản cả vùng rừng núi xung
quanh với cái tên là "tì nữ tuý Hồng" của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài,
chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần.
Như vậy, phần lễ là toàn thể hệ thống tín ngưỡng gần như là cả một tổng thể
tôn giáo ở Việt Nam; có sự sùng bái tự nhiên, có Đạo, có Phật và có cả Nho.
Những tính chất tôn giáo có phần bị tình yêu thiên nhiên, tinh yêu nam nữ,
tình cảm cộng đồng… tràn đầy chất thẩm mỹ vừa thanh cao, rất trần tục lấn
đi. Trẩy hội chùa Hương vì cả tâm hồn và thể xác đều được đắm sâu vào
trong mây ngàn cỏ nội. Ngày hội, làng tổ chức rước thần từ đền ra đình. Cờ
trống đi trước dàn nhạc bát âm kế theo, trai thanh gái lịch phù kiệu, ông già
bà cả thành tâm tiễn thần. Không khí ấy làm tâm linh mọi người sảng khoái.
Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn
13
văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc. điều khiển các bô lão
của làng làm lễ tế rước các vị thần làng.
Trong suốt những ngày hội là sự nồng nhiệt của tuổi trẻ, là sự thành kính của
các bậc cao niên, là sự hoan hỷ mà nam phụ lão ai ai cũng có phần riêng của
mình.
Lễ hội chùa Hương là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như
bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn …
Vào những ngày tổ chức lễ hội, chùa Hương tấp nập vào ra hàng trăm
thuyền. Nét độc đáo của hội chùa Hương là thú vui ngồi thuyền vãng cảnh lạc
vào non tiên cõi Phật. Chính vì vậy, nói đến chùa Hương là nghĩ đến con đò một dạng của văn hóa thuyền của cư dân Việt ngay từ thuở xa xưa. Và đến
nay, ngày hội bơi thuyền ở chùa Hương luôn tạo cảm hứng mãnh liệt cho
người đi hội.
Rời con thuyền, giã từ sông nước, con người được hòa nhập vào núi vãn cảnh
chùa chiền và bắt đầu hành trình mới - hành trình leo núi. Leo núi chơi hang,
chơi động lý thú vui nước đông đảo mọi người tham gia và hưởng ứng.
Trong không khí linh thiêng của ngày hội. Ở bất cứ chỗ nào như sân chùa, sân
nhà tổ, hình thức hát chèo đò đều được thực hiện. Các vãi có giọng hay đứng
dậy làm động tác chèo đò và hát những đoạn văn trên sáu dưới tám liên quan
đến tích nhà Phật. Đây là một sinh hoạt rất được các vãi hâm mộ.
Có thể thấy, trẩy hội chùa Hương không chỉ dừng lại ở chốn Phật đài hay bầu
trời - cảnh bụt, mà trước hết là do ở sự tiếp xúc - hòa nhập huyền diệu giữa
con người trước thiên nhiên cao rộng. Đó là vẻ đẹp lung linh của sông nước,
bao la của đất trời, sâu lắng của núi rừng, huyền bí của hang động… Và
dường như đất trời, sông núi đẹp hơn nhờ tài sáng tạo hình tượng - trí
tưởng tượng này lòng nhân ái của con người.
14
Quan niệm lưỡng hợp biểu hiện ở thế đối ứng hai hiện tượng, hai phạm trù
khác nhau mà bên nhau, làm cho cuộc hành trình về nơi thờ Phật dù có lúc
vất vả nhưng vẫn đem lại sự cân bằng trong tâm thức và thể lực cho du
khách.
Trẩy hội chùa Hương là hành động giải tỏa hòa hợp giữa thực và mơ, tiên và
tục thực là nền tảng, mơ là uất vọng - trên cái nền mùa xuân tươi sáng mà
con người Việt Nam chất phác, nhân ái thuở xưa cảm nhận hành động và
trao truyền.
2.2.2 Ảnh hưởng của lễ hội đến đời sống của người dân Hà Nội.
Hàng năm, mỗi độ xuân về hoa nở trắng núi rừng Hương Sơn, hàng triệu
phật tử cùng tao nhân mặc khách khắp bốn phương lại nô nức trẩy hội Chùa
Hương.Hành trình về một miền đất phật – nơi trác tích Bồ Tát Quán Thế âm
ứng thiện tu hành, để dâng lên người một lời nguyện cầu, một nén tâm
hương, hoặc thả hồn mình bay bổng hoà quyện với thiên nhiên ở một vùng
núi rừng còn in dấu phật thoại và văn hoá tín ngưỡng tâm linh của ngươi
việt xưa, hội Chùa Hương diễn ra trên địa bàn xã Hương Sơn – huyện Mỹ
Đức, thành phố Hà Nội.
Ngày mồng 6 tháng giêng là ngày khai hội, lễ hội thường kéo dài đến hạ tuần
tháng 3 âm lịch. Ngày này vốn là ngày mở của rừng của người dân địa
phương, sau này trở thành ngay khai hội Chùa Hương (mở của rừng hàm
chứa ý nghĩa mở cửa chùa).
15
Chùa Hương là một danh thắng nổi tiếng, không chỉ cảnh đẹp mà còn là một
nét đẹp văn hoá tín ngưỡng đạo phật của người Việt Nam ta. Không giống
với bất cứ chùa nào, Chùa Hương là một tập hợp nhiều đền chùa hang động,
gắn liền với núi rừng với một kiến trúc kết hợp hài hoà vừa thiên nhiên vừa
nhân tạo. Tạo hoá đã khéo bày đặt ở vùng này một sự hài hoà giữa núi non
song nước, và con người đã thổi hồn vào những đièu kỳ diệu đó, làm cho
chúng thêm sinh động và nhiều màu sắc, chính điều đó đã tạo nên một nét
văn hoá của dân tộc, đó là nét văn hoá tin ngững đạo phật. Có lẽ đã trải qua
nhiều thế kỷ, nó đã in đậm trong tâm thức của mỗi con người Việt Nam
chúng ta khi đến với Chùa Hương. Để rồi những tao nhân mặc khách, các nhà
thơ nhà văn và cả các vị Vua chúa thời xưa và ngày nay cũng phải thám phục
trước vẻ đẹp của nơi đất phật này. Vào năm canh Dần 1770 khi Chúa Tĩnh Đô
Vương Trịnh Sâm. vãn cảnh Chùa Hương đã đề khắc năm chữ lên cửa Động
Hương Tích ( Nam Thiên Đệ Nhất Động ) " Động đẹp nhất trời nam” và con
nhiều những bài thơ ca ngợi cảnh đẹp nơi đây của các thi nhân như, Chu
Mạnh Trinh, Cao Ba Quát, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, bà chúa thơ nôm Hồ Xuân
Hương....
Giờ đây, Chùa Hương không chỉ còn là giá trị của riêng một vùng niềm mà là
16
một di sản của Quốc Gia và cũng là những giá trị của nhân loại. Vì nó là gía
trị sống của chuỗi phát triển của con người từ xa xưa cho tới ngày nay, vì
vậy chúng ta phải biết chân trọng rìn giữ những giá trị văn hoá của cha ông
ta để lại cho thế hệ hôm nay và mai sau, và bạn bè trên toàn thế giới biết về
nét đẹp văn hoá của dân tộc ta. Để Chùa Hương mãi in dấu trong lòng của
mỗi người khi nghĩ về đạo và đời, để đúng với nghĩa của nó (Hương Tích)
“Dấu thơm “. Một ngày không xa, Bộ văn hóa thông tin sẽ trình uỷ ban di sản
thế giới UNESCO đưa Chùa Hương trở thành di sản văn hoá của nhân loại, để
Chùa Hương xứng tầm với giá trị văn hóa của dân tộc trải qua hơn 4000 năm
xây dựng và giữ nước, điều đó sẽ tô điểm thêm những giá trị tinh thần của
người Việt và niềm tự hào dân tộc của thế hệ mai sau. Lễ hội chùa Hương là
nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và
các chiếu hát chèo, hát văn .
Lễ hội chùa Hương là nơi bảo tồn, trao truyền văn hóa giữa các thế hệ, góp
phần tạo ra sự đa dạng văn hóa, là một kho tàng tài sản quý giá của đất
nước. Lễ hội còn có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của con người,
thể hiện rất rõ sắc thái văn hóa của từng vùng miền. Thông qua lễ hội, nhu
cầu văn hóa và tâm linh của cộng đồng được thỏa mãn, các truyền thống và
phong tục tập quán được duy trì.
Khi lễ hội chùa Hương mở ra, nhân dân nô nức phấn khởi, sự đoàn kết giữa
mọi người trong cộng đồng dân cư cũng tăng thêm. Phụ nữ thi nhau trổ tài
nấu nướng, nữ công gia chánh. Cánh nam giới trổ tài trang trí, chăng đèn kết
hoa và cắt dán khẩu hiệu, trang trí cổng chào. Trẻ em được biết thêm về
truyền thống cuả địa phương, hiểu thêm và tự hào về những người đã có
công khai phá vùng quê mình thuở xưa. Người già vui vẻ phấn khởi vì nhân
dịp này được ôn lại những nghi lễ truyền thống mà trong cơ chế thị trường
có phần nào bị mai một. Cán bộ lãnh đạo địa phương thì phấn khởi vì mình
17
đã đoàn kết được sức dân. Những người con quê hương đi xa có dịp về làng
công đức và mở mày mở mặt khoe với họ hàng làng xóm về sự “ăn nên làm
ra” của mình.
Với khách thập phương: đầu xuân đến lễ hội, cầu một năm mới vạn sự như ý
tốt đẹp, bình an đến với gia đình và bản thân là một sinh hoạt văn hóa truyền
thống lâu đời của người Việt Nam. Đến lễ hội, bên cạnh sự tín ngưỡng, du
khách còn cảm nhận không khí mùa xuân đang tràn ngập khắp nơi và để
thanh tịnh lòng mình. Người đến lễ hội hướng tâm cầu nguyện cho bản thân,
gia đình được bình an may mắn trong năm mới; người chưa có gia thất thì
cầu tình duyên; người khó khăn đường con cái thì cầu tự; người buôn bán
làm ăn thì cầu tài cầu lộc... Với học trò, chuẩn bị bước vào các đợt khoa cử
quan trọng trong suốt quá trình học tập rèn luyện bậc học phổ thông thì lễ
chùa dịp đầu xuân năm mới là để bày tỏ một lòng hướng nguyện quyết tâm
theo nghiệp đèn sách, học tập nên người, cầu được đỗ đạt, đăng khoa… trong
thời gian qua, Lễ hội Chùa Hương vẫn duy trì những nét đẹp truyền thống
vốn có cả về không gian và thời gian, vừa đảm bảo yếu tố tâm linh, tín
ngưỡng cũng như đáp ứng nhu cầu đi lại, ăn, ở thuận tiện, tạo sức hút ngày
càng cao đối với du khách.
Lễ hội chùa Hương đã đáp ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt
động hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các vùng, miền, dân tộc,
tri ân công đức các anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, các bậc tiền bối đã
có công dựng nước và giữ nước, đấu tranh giải phóng dân tộc. Qua sinh hoạt
lễ hội nhân dân được hưởng thụ và sáng tạo văn hóa.
Điều đáng ghi nhận là du lịch lễ hội chùa Hương ngày càng có nhiều tiến bộ,
công tác tổ chức, điều hành lễ hội và các hoạt động của lễ hội cũng được thực
hiện bài bản hơn, quy củ hơn. Du khách đến với lễ hội rất đông và số lượng
18
này tăng theo từng năm, đa phần là khách nội địa, khách quốc tế chưa nhiều.
Tuy nhiên, dù đã có nhiều đổi mới, song lễ hội chùa Hương và du lịch lễ hội
chùa Hương vẫn còn nhiều bất cập, cả về thị trường du khách, cơ sở vật chất
kỹ thuật, các dịch vụ du lịch, công tác tổ chức, quản lý, tuyên truyền, quảng
bá, và đặc biệt là vấn đề bảo tồn di sản văn hóa. Bên cạnh đó thì môi trường
cảnh quan chưa được gìn giữ đúng mức, tình trạng chặt chém khách hàng
chưa được giải quyết dứt điểm, việc kinh doanh ăn uống động vật hoang dã
hay tệ cờ bạc, bói toán, trật tự trị an… có nhiều hạn chế.
Tiêu cực.
Cần gìn giữ đặc trưng của các lễ hội. Đa phần các lễ hội là đời sống văn hóa
tinh thần của người dân, là tập quán, là cuộc sống của họ. Mỗi cộng đồng trên
đất nước Việt Nam lại có những nét văn hoá khác nhau. Đó là bản sắc, là nét
riêng của mỗi cộng đồng. Vì thế giúp họ nhận thức những giá trị tinh thần
của lễ hội mà họ đang có, hướng dẫn cho họ cách thực hành để làm sao vừa
văn minh, vừa văn hóa và thực sự hiệu quả, tiết kiệm là việc của mỗi nhà
quản lý văn hoá và chính quyền địa phương, cạnh những kết quả đạt được thì
việc phát huy giá trị Lễ hội Chùa Hương trong du lịch chưa tương xứng với
tiềm năng không gian và thời gian của Khu quần thể. Du khách đến với Chùa
Hương từ nhu cầu tâm linh vẫn là chủ yếu, chưa khai thác hết nhu cầu du lịch
của du khách. Việc gắn kết giữa du lịch tâm linh của quần thể thắng cảnh
Hương Sơn và du lịch sinh thái, du lịch làng nghề truyền thống... trên địa bàn
huyện vẫn còn chưa được phát huy và khai thác.
Tệ rải tiền lẻ khắp nơi: Ở lễ hội chùa Hương, việc sử dụng tiền mới mệnh giá
nhỏ không hợp lý ngày càng phổ biến, ảnh hưởng đến tính tôn nghiêm của di
tích và đặc biệt ảnh hưởng đến hình ảnh đồng tiền Việt Nam. Hành động rải
tiền lẻ của người tham gia lễ hội làm sai lệch giá trị bản sắc văn hoá trong
đời sống tín ngưỡng dân gian, lại gây lãng phí xã hội rất lớn. Việc đặt tiền
19
“giọt dầu” là để thể hiện cái tâm, góp phần cùng cơ sở tôn giáo duy trì hoạt
động và để tôn tạo đền, chùa đẹp hơn chứ không phải để “dâng” lên Phật, lên
Thánh. Thế nhưng nhiều người hiện nay lại cho rằng càng rải nhiều tiền thì
càng được Phật, thánh thần chứng giám. Quan niệm đó hoàn toàn sai lầm.
Đáng buồn nhất là khi chứng kiến cảnh trên tay những pho tượng Phật bị
cài, cắm quá nhiều tiền lẻ mà người đi lễ hội nhét vào, còn người đi lễ thì “vô
tư” bước trên những đồng tiền rải bị vương vãi.
Nạn bán hàng tràn lan, lấn át di tích đang có nguy cơ trở thành trào lưu
khiến du khách đi dự lễ hội có cảm giác như đi chợ chứ không phải đi lễ hội.
Hàng hóa, trò chơi bày tràn lan vào cả các điểm của di tích, cảnh chen lấn
bán mua rất lộn xộn… Những vụ việc, tai nạn do chen lấn, xô đẩy, mất an toàn
vệ sinh thực phẩm...; rồi vấn nạn trộm cắp, cờ bạc, mê tín dị đoan, chèo kéo,
“chặt chém” khách... gây bức xúc cho du khách, mặc dù đã được cảnh báo,
chấn chỉnh, song vẫn tái diễn ở khá nhiều lễ hội. Nạn cờ bạc trá hình dưới
hình thức “vui chơi có thưởng” thì hầu như tất cả các lễ hội đều vẫn còn.
Bằng hình thức “vui chơi có thưởng”, đã có những người tổ chức cờ bạc trá
hình bằng các trò “cua cá”. Ngay cả các trò chơi dân gian như thi Chọi gà,
đấu vật cũng được cá cược hơn thua. Những dịch vụ ăn theo lễ hội vẫn còn:
nạn khấn thuê, đổi tiền lẻ, hoặc các dịch vụ gửi xe, ăn uống “chặt chém” kèm
theo cả một hệ thống “cò trọn gói” từ sắm lễ, khấn thuê, ăn ngủ, đi lại kiêm
luôn cả… hướng dẫn viên “tự phong” của một số đông vẫn còn diễn ra. Có
người còn lợi dụng tín ngưỡng, tâm linh để trục lợi như tạo thêm các không
gian thực hành lễ (đặt thêm bàn, chỗ thờ cúng, tổ chức các dịch vụ, quảng bá
đồn thổi những giá trị vừa sai lệch về mặt vật chất, vừa sai lệch về mặt tinh
thần). Người ta tự xây thêm những nơi thờ tự để người dân đến đặt lễ nhiều,
thu tiền công đức nhiều, họ tự làm các dịch vụ.
20
Du khách đến lễ hội chỉ là theo trào lưu: Do xã hội ngày càng phát triển,
nhiều người quan tâm đến việc đi các đền chùa, có người đi cầu may, có
người đi thưởng ngoạn. Một số khách du lịch đến lễ hội theo trào lưu chứ
chưa hiểu được hết giá trị văn hóa truyền thống của lễ hội mà mình tham gia.
“Hậu lễ hội”: Rất nhiều vấn đề phát sinh cần xử lý, đặc biệt là môi trường và
rác thải. Có những sân di tích, sau lễ hội như “bãi chiến trường”, ngổn ngang
nào cọc để căng lều bán hàng, nào rác, giấy, túi ni lông… Chưa kể đến các cây
cảnh bị xơ xác do “cây chạm lá, cá chạm vảy” của người đi dự hội tạo ra…
Giải pháp
Về phía người đi lễ hội: việc đầu tiên phải hiểu giá trị của lễ hội chùa Hương
Người đi lễ phải hiểu thần tích, không gian văn hóa, đồ thờ tự và kèm theo đó
là ứng xử văn hóa phù hợp.
Về phía những nhà quản lý văn hóa: phải đánh giá xem việc tổ chức lễ hội
như thế điểm gì là chưa được. Để nhận được sự đồng thuận của người dân, lễ
hội phải hướng tới các lợi ích thiết thực của họ về tinh thần. Các nhà quản lý
và tổ chức lễ hội phải giúp cộng đồng làm lễ hội chứ không nên áp đặt họ
phải làm những việc mà trước nay họ không làm. Như vậy sẽ làm mất đi vẻ tự
nhiên, tính chân thật của lễ hội.
Ban quản lý di tích: cần có cách thức tổ chức sao cho có văn hoá và khoa học,
đảm bảo nghiêm trang phần lễ và vui tươi phần hội: Kiên quyết dẹp các hàng
quán dịch vụ lấn chiếm di tích một cách nghiêm khắc. Đề phòng nạn cờ bạc
trá hình, móc túi “chặt chém” du khách. Để nói không với nạn rác thải, cần
trang bị đủ các thùng rác công cộng ở những nơi cấn thiết, mặt khác cần
chấn chỉnh hiện tượng rắc rải tiền lẻ tràn lan tại các lễ hội, nơi thờ tự... gây
phản cảm.
21
Hiện nay, các hình thức tuyên truyền ở lễ hội còn đơn điệu, chưa hấp dẫn du
khách, chưa giúp họ hiểu về các giá trị lịch sử văn hóa của di tích, về thần
phả, thần tích công trạng của nhân vật thờ tự và ý nghĩa của lễ hội. Để bảo vệ
các giá trị lễ hội, những người có chuyên môn cần xuống cộng đồng trao đổi
để giúp họ nhận ra giá trị lễ hội của địa phương mình, kèm theo giá trị đó thì
ai là người thực hành, vai trò của họ như thế nào và để thực hành tốt phải
làm gì. Để rồi không làm sai lệch lễ hội, không tạo nên những hiện tượng
buôn thần, bán thánh, hoặc thái quá trong câu chuyện thực hành tiến lễ tâm
linh. Muốn làm được điều đó, cần tăng cường sử dụng các phương tiện
truyền thông, góp phần nâng cao nhận thức và để họ nhận ra giá trị của lễ
hội, từ đó thấy được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ và phát huy
những giá trị vốn có của lễ hội.
Đầu xuân năm mới đến lễ hội, cầu một năm mới vạn sự như ý tốt đẹp, bình an
đến với gia đình và bản thân là một sinh hoạt văn hóa truyền thống lâu đời
của người Việt Nam. Để lễ hội nghiêm trang phần lễ và vui tươi phần hội,
đọng lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách, không chỉ cố gắng của các
nhà quản lý, ban tổ chức lễ hội và chính quyền địa phương mà còn cần ở ý
thức tự giác của tất cả chúng ta.
Đồng thời, huyện sẽ chủ động phối hợp với Sở Du lịch để tăng cường sự kết
nối với các cụm, vùng, điểm, tuyến du lịch trên địa bàn trong thành phố. Khai
thác tối đa cơ sở hạ tầng đã được đầu tư xây dựng, nhất là trục tâm linh Bái
Ðính - Chùa Hương - Ba Vì - Hồ Tây. Ðồng thời, liên kết chặt chẽ giữa nhà
quản lý, nhà doanh nghiệp, chính quyền địa phương và người dân để xây
dựng các tua du lịch chuyên nghiệp phục vụ du khách trong và ngoài nước...
Kết nối quần thế thắng cảnh Chùa Hương với các điểm du lịch khác trên địa
bàn Thành phố, từng bước xây dựng Mỹ Đức thành điểm đến hấp dẫn trong
bản đồ du lịch của Thành phố.
22
Để “níu chân” du khách, Mỹ Đức sẽ tiếp tục tập trung đào tạo, tập huấn,
hướng dẫn các kiến thức, kỹ năng du lịch cho nhân dân địa phương nhằm
phát huy vai trò và trách nhiệm của cộng đồng trong công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị của không gian lễ hội Chùa Hương. Huyện chủ động khai
thác những nét độc đáo của không gian lễ hội Chùa Hương không chỉ trong 3
tháng đầu năm mà kéo dài các hoạt động du lịch cả năm, cụ thể hóa thành
các sản phẩm du lịch cụ thể, đáp ứng thuận tiện các nhu cầu về tâm linh, vãn
cảnh, ẩm thực, nghỉ dưỡng.... tạo niềm tin và sức hút đối với du khách.
Bí thư Huyện ủy Mỹ Đức Lê Văn Sang khẳng định, huyện đổi mới về nội dung,
hình thức và phương pháp, phương tiện tuyên truyền giữ gìn và phát huy
những giá trị văn hóa truyền thống trong lễ hội; tăng cường công tác quản lý
của chính quyền trong các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và thương mại tại
lễ hội; nâng cao ý thức của người dân địa phương cũng như du khách chưa
trong thực hiện quy chế lễ hội nhất là trong việc giữ gìn vệ sinh môi trường,
bảo vệ cảnh quan tự nhiên và các giá trị văn hóa trong mùa lễ hội…
Với một Lễ hội rất đặc biệt về thời gian, không gian, địa thế, phong cảnh thiên
nhiên, Lễ hội Chùa Hương đã, đang tồn tại, đồng hành và tạo nên ký ức văn
hóa tâm linh rất riêng biệt, vượt qua thời gian, có sự lan tỏa và sức sống lâu
bền trong đời sống tâm linh của nhân dân trong cả nước. Do đó, việc bảo tồn
và phát huy không gian lễ hội Chùa Hương trong chiến lược phát triển du lịch
của Thủ đô vừa nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa để tự hào, trao truyền, giới
thiệu, quảng bá vừa tạo thêm sức sống mới, phù hợp với nhu cầu ngày càng
cao của nhân dân, để lễ hội Chùa Hương không chỉ có giá trị văn hóa tâm linh
độc đáo mà còn là một sản phẩm du lịch đặc biệt đối với du khách trong và
ngoài nước.
23
3.Kết luận
Danh thắng chùa Hương từ xa xưa đã nức tiếng thiên hạ, nơi đây được
mệnh danh là “kỳ sơn tú thủy” của Việt Nam. Những ai đã đến thăm chùa
Hương cũng đều bị cuốn hút bởi vẻ đẹp diễm lệ của phong cảnh và đắm
chìm trong không gian thanh tịnh, thoát tục của bầu không khí Phật Giáo,
chùa Hương là một quần thể hài hòa bao gồm các danh lam thắng cảnh,
di tích lịch sử đền chùa, miếu mạo và các hang động tuyệt đẹp, đan xen ẩn
mình trong núi non, cỏ cây hoa lá. Đặc biệt nhắc đến chùa Hương là
người ta nhắc đến lễ hội truyền thống mang đậm màu sắc tín ngưỡng dân
gian – đạo Phật với nền văn hoá nông nghiệp. Hàng năm cứ mỗi độ xuân
về, khi những nụ mai Hương Sơn nở rộ là lúc lễ hội chùa Hương bắt đầu.
Đây cũng là thời điểm các phật tử và du khách thập phương lại nô nức tụ
họp về trảy hội, đi lễ, dâng nén hương thành tâm lên Đức Phật, vãn cảnh
chùa và phong cảnh thiên nhiên. Hội chùa Hương được mở từ ngày mùng
sáu tháng giêng đến hết tháng ba âm lịch trên địa bàn xã Hương Sơn,
huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Đây là lễ hội cấp quốc gia và được coi là
một trong những lễ hội lớn nhất nước. Trong những năm qua, chùa
24
Hương đã được nhận sự quan tâm, hỗ trợ từ các ban ngành từ Trung
Ương đến địa phương, góp phần làm cho thắng cảnh Hương Sơn càng
thêm hấp dẫn. Theo thống kê, số lượng khách du lịch đến hành hương
tham gia lễ hội chùa Hương ngày một tăng, doanh thu từ du lịch đã đóng
góp một phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách
địa phương.Bởi vậy cần phải giữ gìn và bảo tồn giá trị văn hóa để phát
triển lễ hội chùa Hương .
Tài liệu tham khảo .
1. Đặc điểm của lễ hội ở Việt Nam - Nét đẹp văn hóa Việt Nam bloggernetdepvanhoaviet.blogspot.com/2015/07/ac-iem-cua-le-hoi-oviet-am.html
2. Một số đặc điểm chung của lễ hội. - TaiLieu.VN
tailieu.vn › Khoa Học Xã Hội › Lịch sử - Văn hoá
3. Lễ hội chùa Hương – Wikipedia tiếng Việt
/>4 Chùa Hương đông khách trước ngày khai hội - VnExpress
vnexpress.net › Thời sự
25