HỒ CHÍ MINH – SỰ TIẾP THU TƯ TƯỞNG VÀ
VĂN HÓA PHƯƠNG ĐÔNG
Trong lịch sử phát triển của các dân tộc mỗi giai đoạn lịch sử đều
có những phát sinh về tư tưởng, quan điểm với tính cách là bộ phận của
ý thức xã hội đều có quá trình phát sinh hình thành và phát triển trong
điều kiện thực tiễn của lịch sử xã hội nhất định. Đó chính là cơ sở tiền đề
nguồn gốc hình thành phát triển phản ánh những ý chí và nguyện vọng
của các dân tộc thông qua những vĩ nhân của thời đại mà cuộc đời và sự
nghiệp tư tưởng, hành động và hoạt động thực tiễn luôn gắn với một giai
đoạn lịch sử có tác động vào sự phát triển của thời đại mà khi nhắc đến
đó chính là Mác – Ăngghen, Hồ Chí Minh là những con người như vậy.
Bằng những hoạt động thực tiễn và tư duy thiên tài của mình Hồ
Chí Minh đã để lại cho nhân loại kho tàng di sản quí báu của mình là
những quan điểm những tư tưởng của mình: "Tư tưởng Hồ Chí Minh là
một hệ thống quan điểm toàn diện sâu sắc tư tưởng vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách
mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Đồng thời là sự
kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải phóng con người". Qua khái niệm cho ta thấy
rằng: Tư tưởng của Bác không phải là sự cộng lại hay sự tập hợp giản
đơn những ý tưởng, những suy nghĩ cụ thể trong một hoàn cảnh cụ thể,
cũng không phải là sản phẩm chủ quan phản ánh tâm tư tình cảm, tâm lý
hay nguyện vọng của nhân dân Việt Nam với lãnh tụ kính yêu của mình
mà là sản phẩm của sự kết hợp của chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
văn hoá, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn
2
hoá nhân loại nói chung và tinh hoa văn hoá phương Đông, phương Tây
nói riêng, với trí tuệ thiên tài của Bác được vận dụng phát triển sáng tạo
và được nâng lên một tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với bối
cảnh lịch sử thế giới và trong nước vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX và
những năm đầu của thế kỷ XX. Cuộc đời và hoạt động của Hồ Chí Minh
đã có những cống hiến vô cùng quan trọng vào lịch sử phong trào cộng
sản và công nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới và to lớn
đối với cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn này tình hình thế giới diễn biến phức tạp và có
nhiều biến đổi sâu sắc. Đa số các quốc gia phong kiến ở phương Đông,
các nước lạc hậu ở châu Phi, châu Mỹ la tinh đã bị một số nước đế quốc
như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha v.v.. chiếm làm thuộc địa
đặt ách thống trị dưới nhiều hình thức khác nhau với mục đích để nô
dịch và bóc lột nặng nề làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân lao động
vô cùng cực khổ. Những mâu thuẫn trong xã hội ngày càng nảy sinh gay
gắt giữa giai cấp thống trị bóc lột và nhân dân lao động và có cả mâu
thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản với các đế quốc trong vấn đề phân
chia thị trường và thuộc địa được đánh dấu bằng cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ nhất bùng nổ (1914 – 1918). Đồng thời chiến tranh sảy ra
cũng làm cho chủ nghĩa tư bản lâm vào khủng hoảng trầm trọng và suy
yếu về kinh tế. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho phong trào cách
mạng của giai cấp công nhân phát triển trên thế giới.
Vào những năm 70 – 80 của thế kỷ XIX chủ nghĩa Mác ra đời và
từng bước đã nhanh chóng xâm nhập vào phong trào cách mạng của
công nhân và đã cổ vũ mạnh mẽ giai cấp công nhân, nông dân cùng lên
3
đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp tư sản và các thế lực phản
động. Và thời điểm trước đó giai cấp tư sản cho là "Bóng ma ám ảnh
châu âu" đã trở thành hiện thực và trở thành hệ tư tưởng chính thống của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Giai cấp công nhân chuyển
dần từ giai cấp tự phát sang tự giác. Nhiều Đảng cộng sản ra đời và đây
là thời kỳ cách mạng phát triển mạnh mẽ được ví như là thời kỳ bão táp
cách mạng. Đỉnh cảo của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc đó
đã thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, dưới sự lãnh đạo tài
tình của Lênin. Thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga không những
mở ra một thời đại mới. Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội trên ngọn cờ toàn thế giới. Thời đại của cách mạng vô sản
và cách mạng giải phóng dân tộc mà nó còn có tác động mạnh mẽ đến
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, nhất là
các nước thuộc địa ở phương Đông nơi tồn tại hàng ngàn năm chế độ
phong kiến.
Tuy nhiên, phong trào đấu tranh giành độc lập ở các nước này đều
thất bại mà nguyên nhân chính là không ngoài cơ cấu thành phần giai
cấp trong lãnh đạo phong trào cách mạng thiếu đường lối chính trị đúng
đắn v.v.. Từ thực tiễn lịch sử đặt ra và giao phó cho giai cấp công nhân
sứ mệnh lịch sử cao cả và trọng đại đó là phải tập hợp sức mạnh lãnh
đạo nhân dân các dân tộc thuộc địa bị áp bức bóc lột đứng lên làm cách
mạng nhằm xoá bỏ xiềng xích lô lệ giành độc lập cho dân tộc và hạnh
phúc cho mọi người.
Lênin đã nêu ra khẩu hiệu:
"Vô sản tất cả các nước, các dân tộc bị áp bức đoàn két lại" khẩu
hiệu như lời hiệu triệu kêu gọi giai cấp công nhân và nhân dân lao động
4
toàn thế giới kề vai sát cánh chung một chiến hào kiên quyết đấu tranh
giải phóng cho đất nước cho Tổ quốc và cho dân tộc mình. Đối với Việt
Nam giai đoạn này thì trong xã hội vẫn tồn tại xã hội phong kiến nghèo
làn lạc hậu trì trệ kém phát triển giai cấp thống trị thì bạc nhược bảo thủ
phản động chỉ lo tăng cường bóc lột và đàn áp nhân dân giã man, bảo
thủ không chịu cải cách xúc tiến bắt nhịp với sự phát triển trên thế giới.
Về tinh thần hèn nhạt và nhu nhược không phát huy được sức mạnh nội
lực của đất nước, sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh của đại đoàn
kết toàn dân tộc chống lại giặc ngoại xâm mà đã nhanh chóng thoả hiệp
đầu hàng và dâng toàn bộ nước Việt Nam cho thực dân Pháp. Vua quan
bảo vệ ngai vàng bù nhìn và lợi của dòng tộc không quan tâm đến lợi ích
quốc gia dân tộc. Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến bởi
chế độ cai trị hà khắc đối với nhân dân, thực hiện chuyên chế về chính
trị độc quyền về kinh tế. Chúng ra sức áp đặt văn hoá Pháp và phương
Tây trong toàn bộ đời sống tinh thần của nhân dân. Thực dân Pháp lúc
này bắt tay vào khai thác bóc lột thuộc địa lần I, trong xã hội Việt Nam
có chuyển biến và phân hoá các giai tầng trong xã hội, các tầng lớp tiểu
tư sản và mầm mống của giai cấp tư bản bắt đầu xuất hiện mâu thuẫn xã
hội sảy ra ngày càng gay gắt. Đời sống nhân dân Việt Nam lúc này vo
cùng cực khổ dưới áp bức bóc lột "một cổ 2 chòng". Trước cảnh đất
nước bị xâm lăng nhân dân cực khổ lầm than đã dấy lên phong trào đấu
tranh chống thực dân Pháp của nhân dân ta nổ ra ở khắp nơi cả 3 miền
Bắc – Trung – Nam. Thời gian này phong trào yêu nước chống thực dân
Pháp của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản với sự
xuất hiện của các phong trào như Đông Âu, Đông kinh nghĩa thục, Duy
Tân, Việt Nam quang phục hội v.v.. nhưng các phong trào này nở rộ lên
5
được một thời gian ngắn rồi lần lượt bị dập tắt. Nguyên nhân chính vẫn
là thành phần tổ chức thực hiện phong trào chủ yếu vẫn là do các sĩ phu
phong kiến cựu học truyền bá và dẫn dắt, một phần là vì chưa lôi cuốn
được các tầng lớp nhân dân tham gia nên không tránh khỏi hạn chế và
thất bại. Đây cũng chính là thử thách lớn của thời đại đặt ra. Thời kỳ
khủng hoảng về đường lối cứu nước. Xã hội và tiền đề của dân tộc Việt
Nam mịt mờ tối tăm. Tối đen tưởng chừng như không có đường ra.
Trước yêu cầu bức bách của lịch sử lúc này là phải tìm ra lối thoát
cho cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân là vấn đề cấp thiết
đặt ra hàng đầu trở thành vấn đề nóng bỏng trong xã hội và thời đại.
Đó chính là điều kiện lịch sử thế giới và trong nước tác động ảnh
hưởng làm nảy sinh tư tưởng cứu nước thôi thúc người con quê hương
xứ nghệ Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Muốn có phong
trào cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi phải có con đường mới
con đường cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh điều kiện lịch sử làm cơ sở hình thành và có ảnh hưởng
đến tư tưởng Hồ Chí Minh thì còn có rất nhiều những yếu tố khác như
quê hương, gia đình văn hoá phương Tây v.v.. Trong đó có sự ảnh
hưởng không nhỏ của tư tưởng tinh hoa văn hoá phương Đông mà tiêu
biểu nổi bật hơn cả đó là sự ảnh hưởng của nho giáo và phật giáo đến
quá trình hình thành phát triển tư duy tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Nho gia ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên do Khổng
Tử sáng lập phát triển mạnh và có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong
lịch sử trong nước và một số nước lân cận trong đó có Việt Nam. Hệ
thống kinh điển của nho giáo cho thấy hầu hết các kinh sách viết về xã
hội, có xu hướng biện luận về xã hội về chính trị đạo đức là những tư
6
tưởng cốt lõi của nho giáo, nho giáo chủ trương xây dựng tổ chức đời
sống xã hội theo đạo trời (nghĩa là nền thiên trị) và đề cập nhiều đến đạo
đức xã hội và muốn lấy đức để điều hành xã hội v.v.. và sau này nho
giáo du nhập vào Việt Nam và được việt hoá phù hợp với phong tục tập
quán Việt Nam có ảnh hưởng lớn đến dân tộc Việt Nam. Với Hồ Chí
Minh thì ngay từ thuở ấu thơ, tuổi được coi là tuổi của sự hình thành
nhân cách. Bác đã được học chữ Hán với những nhà nho yêu nước chính
từ đó Bác đã được tiếp thu triết lý của đạo đức Khổng Tử - Mạnh Tử qua những sách kinh điển của nho giáo. Bác được sống trong một gia
đình có nề nếp gia phong của gia đình nội - ngoại đều là người theo nho
giáo chịu ảnh hưởng của vùng quê có tinh thần hiếu học yêu nước và
vùng quê có nhiều anh hùng hào kiệt của dân tộc trong lịch sử. Người đã
từng được sống nhiều năm trong kinh thành Huế là nơi ngự trị của vua
chúa phong kiến nhà nguyễn sùng bái nho giáo. Chính vì vậy những kiến
thức về hán học đã ăn sâu vào trí nhớ để lại những dấu ấn sâu sắc về tư
tưởng tình cảm đến mãi sau này, đặc biệt là những vấn đề về chính trị
đạo đức xã hội mà cho dù bôn ba nhiều năm đi các nước tìm đường cứu
nước và bận nhiều công việc tiếp thu nhiều thứ tiếng, phong tục tập quán
khác nhau nhưng Người vẫn sử dụng thành thạo tiếng Hán. Sử dụng chữ
Hán đề làm thơ và tiêu biểu nhất là tập thơ nổi tiếng của Bác là Nhật ký
trong Tù. Trong các tác phẩm của mình cũng như những bài nói bài viết
Bác sử dụng nhưng cải biến bổ sung nội dung hình thức mới được kế
thừa sử dụng một cách linh hoạt sáng tạo để diễn đạt trình bày quan
điểm tư tưởng của mình.
Có thể thấy rằng nho giáo như nói ở trên khi du nhập vào nước ta
đá bị việt hoá và đã bắt gặp chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Đây là dòng
7
chào lưu cơ bản của tư tưởng Việt Nam do đó đã hình thành lên một trào
lưu mới là trao lưu nho giáo yêu nước phục vụ chính cho đời sống tinh
thần xã hội Việt Nam.
Khi Hồ Chí Minh được học chữ Hán với các thầy đều là những nhà
nho yêu nước, đạo đức của nho giáo đã thấm vào tư tưởng tình cảm của
Người không phải là những giáo điều "Tam cương" "Ngũ Thường" với
mục đích bảo vệ tôn tư trật tự của phong kiến mà chính là tinh thần
"nhân nghĩa"; đạo làm người "tu thân" và tinh thần ham học hỏi đức tính
khiêm tốn "ôn hoà" cách đối nhân xử thế "có tình có lý" sống "có trước
có sau". Tuy nhiên trong nho giáo cũng có những yếu tố duy tâm lạc hậu
và phản động như tư tưởng phân chia đẳng cấp trong xã hội "quân tử" và
tiểu nhân coi khinh lao động chân tay, coi khinh phụ nữ v.v.. Tuy nhiên
ngoài yếu tố tiêu cực thì Nho giáo cũng có những yếu tố tích cực như đề
cao những mệnh đề "trung hiếu" "nhân nghĩa", "Dân vi qui, xã tắc thứ,
quân vi khanh" nêu phương châm "khắc kỷ phục lễ" v.v…
Trong quá trình tiếp thu sử dụng những mệnh đề triết lý của nho
giáo Bác luôn kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực, đồng thời phê
phán bác bỏ những yếu tố tiêu cực lạc hậu trong học thuyết của nho
giáo.
Người chỉ rõ: "Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều.
Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất đầu ngẩng
lên trời".
Bác kế thừa tư tưởng "chính doanh" của triết lý hành động tư tưởng
nhập thế hành đạo, giúp đời đó là lý tưởng về một xã hội bình trị, tức là
ước vọng về một xã hội an ninh hoà bình một thế giới đại đồng, về triết
8
lý nhân sinh là tự thân dưỡng tính chủ trương là từ thiên tử đến thứ dân
ai cũng phải tu thân làm gốc. Người loại bỏ yếu tố duy tâm "thiên mệnh"
cho rằng thiên tử là đấng cao nhất quyết định vận mệnh của đất nước và
con người. Hồ Chí Minh đã khôi phục lại quan hệ bình đẳng giữa con
người với con người và cho rằng từ chủ tịch nước hay người nông dân
đều là một thực thể là con người mà đã là con người thì ai cũng vậy đều
có quyền sống bình đẳng như nhau Hồ Chí Minh phát triển tư tưởng
"Trung với vua và hiếu với cha mẹ" của nho giáo. Người cho rằng phải
trung với nước, không chỉ hiếu với cha mẹ mà còn phải hiếu với dân và
mệnh đề này đến ngày nay vẫn còn giữ nguyên giá trị.
Tiếp thu điều nhân của Khổng Tử Bác cho rằng: Chớ làm cho
người ta những điều mình không muốn người làm cho mình". Từ đó Bác
chỉ ra phương châm sau này trở thành khẩu hiệu hành động trong xã hội
đó là: mình vì mọi người, mọi người vì mình".
Những tiêu chí cần kiệm liêm chính chí công vô tư, tự phê bình và
phê bình. Trí dũng v.v.. mà Bác nêu ra cơ bản gần và giống quan điểm
của Khổng Tử chỉ có điều khác ở chỗ Khổng Tử thì cho các tiêu chuẩn
trên là do "thiên phú" còn Bác thì cho rằng con người có được là do rèn
luyện và giáo dục mà có được như Bác nói:
Hiền dữ đâu phải là có sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Như vậy qua một số mệnh đề trên ta thấy Hồ Chí Minh đã kế thừa
tiếp thu - chọn lọc có phê phán đồng thời vận dụng những tư tưởng quan
điểm tiến bộ của nho giáo để từ đó hình thành tư tưởng về đạo đức xã
hội.
9
Ngoài nho giáo Hồ Chí Minh còn tiếp thu triết lý, những quan điểm
tư tưởng của phật giáo để làm giàu kho tàng tư tưởng của mình.
Phật giáo ra đời vào khoảng giữa thiên niên kỷ I trước công nguyên
do thích ca mẫu ni sáng lập. Tư tưởng quan niệm của phật giáo tập trung
vào quan điểm về nhân sinh quan về đạo đức. Qua nghiên cứu thấy rằng
phật giáo có những yếu tố tích cực nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm
tiêu cực.
Phật giáo nói về vai trò tối cao của con người trong vũ trụ thì được
Hồ Chí Minh khẳng định về sức mạnh vô địch của con người đó là sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề đã được trải nghiệm và chứng
minh trong thực tiễn cách mạng lịch sử Việt Nam. Hồ Chí Minh đã vận
dụng sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
"Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công".
Bác thấy rõ ý nghĩa triết lý về đạo đức nhân sinh của đạo phật là "từ
bi bình đẳng bác ái" đó là muốn giải thoát cho mọi người khỏi lỗi khổ
đau đem lại cuộc sống bình yên đầy đủ hạnh phúc cho mọi người. Từ
những tư tưởng của phật giáo đó Bác viết rất mộc mạc rễ hiểu đó là: "Sẻ
cơm nhường áo" kêu gọi đồng bào đem lòng từ bi độ lượng thương yêu
đùm bọc giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn khó khăn trong lúc khổ cực
thiếu thốn với tinh thần lá lành đùm lá rách – như tục ngữ ca dao:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Hồ Chí Minh đã kết hợp hài hoà giữa tư tưởng khoan dung nhân
đạo của dân tộc Việt Nam với tư tưởng vị tha của phật giáo là: lấy đức
báo oán.
10
Bác thường căn dặn đồng bào:
"Không được báo thù bằng oán. Đói với những kẻ lầm đường lạc
lối đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn lẽ
phải mà bày cho họ". Để giáo dục đạo đức cách mạng phê phán tư tưởng
tham quyền cố vị "sống lâu lên lão làng" của một số cán bộ đảng viên sa
sút phẩm chất đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh đã vận dụng tư tưởng
quan niệm nhân sinh vô ngã, vô thường của phật giáo. Xuất phát từ sự
hiển nhiên là "con người đẻ ra, ai cũng lớn lên già đi, rồi chết", đó là tuổi
phát triển tài năng và cống hiến có giới hạn nhất định. Chính vì vậy cần
phải phát hiện và lựa chọn người có tài năng, đức độ để đảm nhiệm và
sẵn sàng đảm nhiệm công việc của tập thể của quốc gia. Trong đó cần
phải đánh giá đúng người có công thì được thưởng, người ốm đâu, suy
giảm sức khoẻ thì được nghỉ ngơi, năng lực hạn chế thì được bồi dưỡng
v.v.. Hồ Chí Minh cho rằng mọi người, nhất là người lầm lạc đều có thể
trở thành người tốt, người tiến bộ nếu biết nhận ra khuyết điểm và có
tinh thần tích cực tu dưỡng rèn luyện sửa chữa khuyết điểm để sống trở
thành người có ích cho xã hội. Như vậy tư tưởng của phật giáo đã góp
phần hình thành tư tưởng nhân văn sâu sắc của Hồ Chí Minh.
Ngoài ra trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh chúng ta có
thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác của Người tiếp thu kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa văn hoá của đạo gia và mạc gia và cũng vận dụng vào
thực tiễn hoạt động cách mạng của mình.
Như vậy, trong nguồn gốc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí
Minh có ảnh hưởng không nhỏ của tư tưởng và văn hoá phương Đông
mà nổi bật nhất là nho giáo và phật giáo đã làm sâu sắc thêm tư tưởng
nhân văn vĩ đại của người. Đồng thời Hồ Chí Minh đã tiếp thu kế thừa
11
có phê phán chọn lọc tinh hoa văn hoá tư tưởng phương Đông nói
chung. Phật giáo nho giáo nói riêng để làm giàu kho tàng trí thức của
mình và đây là hành trang rất quan trọng để Người đem theo đi tìm con
đường cứu nước và đến gặp chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp
luận khoa học cách mạng, Người đã nâng nó lên một tầm cao mới và vận
dụng thực tiễn vào Việt Nam đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Qua nghiên cứu nguồn gốc hình thành và phát triển
của tư tưởng Hồ Chí Minh mang lại cho chúng ta những nhận thức sâu
sắc hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc quá trình hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh từ đó làm cơ sở tiền đề thuận lợi để tiếp tục đi sâu nghiên cứu
những giá trị nội dung trong kho tàng di sản văn hoá và lý luận của cuộc
đời hoạt động cách mạng vì nước vì dân của Hồ Chí Minh ngày càng
đầy đủ sâu sắc hơn.
Nghiên cứu nguồn gốc quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh nâng cao nhận thức hiểu biết về bản chất, qui luật hình
thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở lý luận trực tiếp soi sáng
quá trình nghiên cứu sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
về các lĩnh vực cụ thể khác. Đồng thời cũng là cơ sở lý luận quan trọng
để chống lại những quan điểm sai trái, những nhận thức lệch lạc mà đặc
biệt là sự xuyên tạc chống phá nhiều mặt của kẻ thù đối với tư tưởng Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay toàn Đảng toàn dân, toàn quân ta đang
đẩy mạnh hơn nữa thực hiện Chỉ thị số 06 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh đã đi vào chiều sâu có sức lan toả rộng khắp trong các lĩnh
vực đời sống xã hội đã mang lại những kết quả thiết thực cho mỗi cá
12
nhân tập thể và ngày càng đi vào chiều sâu. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu hiểu biết sâu sắc nắm chắc nguồn gốc và quá trình hình thành và
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là rất quan trọng có ý nghĩa to lớn đối
với nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng xây dựng phẩm chất nhân cách
quân nhân cách mạng, người chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam. Trên cơ sở đó xây dựng bản lĩnh vững vàng có quyết tâm cao hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao góp phần tích cực vào nhiệm vụ xây dựng
đơn vị vững mạnh toàn diện hoàn thành tốt nhiệm vụ.