Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.21 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..............................................................................................................2
NỘI DUNG CHÍNH ....................................................................................................3
I. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG..............................................3
1. Khái niệm .................................................................................................................3
2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại .............................................3
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại .............................................................................3
4. Năng lực chịu trách nhiệm BTTH của cá nhân ....................................................3
5. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu BTTH .......................................................................4
II. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ ................4
1 Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ ........................................................................4
2. Điều kiện phát sinh ..................................................................................................5
2.1. Có hoạt động trái pháp luật .................................................................................5
2.2. Gây thiệt hại cho người xung quanh...................................................................5
2.3. Mối quan hệ giữa hoạt động và thiệt hại xảy ra ................................................6
3. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.....................................................................6
4. Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ .................................................7
4.1 Điều kiện phát sinh ................................................................................................7
4.2 Xác định trách nhiệm ............................................................................................8
4.2.1. Chủ sở hữu NNHCĐ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng.....................8
4.2.2. Trường hợp NNHCĐ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật............................9
4.2.3. Trường hợp trong trạng thái cấp thiết, sự kiện bất khả kháng......................10
III. THỰC TIỄN ........................................................................................................11
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ .....................................................................11
2. Điều kiện bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra .................................12
3. Phân định trách nhiệm BTTH .............................................................................12
TỔNG KẾT ................................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................15


LỜI MỞ ĐẦU


Có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản
xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại
cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành
nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra
nằm ngoài sự kiểm soát đó. Trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy
hiểm cao độ” để chỉ những sự vật như vậy.
Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc
biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt
động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại.
Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có
lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp
luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Pháp luật dân sự thế giới cũng như Việt
Nam không có bất kỳ một khái niệm đầy đủ nào về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng có thể hiểu một cách khái quát, đó là loại trách
nhiệm phát sinh cho người sở hữu, chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ khi hoạt động
của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho môi trường và những người xung
quanh.

2


NỘI DUNG CHÍNH
I. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1. Khái niệm:
- Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm phát sinh dưới tác động
trực tiếp của các quy phạm pháp luật, khi có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại.
Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh bên ngoài và không phụ thuộc vào hợp đồng.
2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
- Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải

bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
- Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của
bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định
tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015.
3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại:
- Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể
thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc
thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
- Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường
nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của
mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc
bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác
thay đổi mức bồi thường.
- Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường
phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
- Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra
do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho
chính mình.
4. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
- Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.

3


- Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải

bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con
chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn
thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật dân sự 2015.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải
bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
- Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người
giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải
bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không
có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
- Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra: Trường hợp nhiều người
cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng
với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi
thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
5. Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại:
- Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại là 03 năm, kể từ ngày người
có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
II. BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA
1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ:
- Theo Khoản 1 Điều 601 BLDS 2015 quy định: “1. Nguồn nguy hiểm cao độ
bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và
các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
- Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản,
trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của
pháp luật.”
- Như vậy, nguồn nguy hiểm cao độ được hiểu là những vật đang tồn tại hiện

hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng
khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm
của nó còn thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối
nguy cơ gây thiệt hại. Do đó, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các
quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng
các quy định của pháp luật.

4


2. Điều kiện phát sinh:
2.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật do chính nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra:
- Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
+Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong
tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông vận tải cơ giới đang tham
gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang
hoạt động… Trường hợp thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng
thái “tĩnh” – không hoạt động thì không thể coi là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc
gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa
gây dịch bệnh…
+Thứ hai: Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm
cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra. Có quan điểm cho rằng
các vật là vô tri vô giác, vì vậy chúng không thể gây thiệt hại nếu không có sự tác
động của con người. Quan điểm này cho rằng đằng sau việc gây thiệt hại của một vật
bao giờ cũng có sự tác động của con người. Chiếc xe gây tai nạn là do người lái xe làm
cho nó chuyển động. Quan điểm này đánh đồng tất cả các thiệt hại đều do con người

gây ra, vì vậy các thiệt hại đều quy về một nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung.
- Một điểm cần lưu ý là hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ
phải có tính trái pháp luật. Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của
người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (theo Điều 601 Bộ
luật dân sự).
- Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao
độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
2.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
- Thiệt hại được coi là điều kiện tiền đề, điều kiện cơ sở để phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu không có thiệt hại thì không bao giờ phát sinh trách
nhiệm bồi thường. Nguồn nguy hiểm cao độ nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ
sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ hoặc những người
không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu
mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt

5


hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại cho những “người xung quanh”.
- Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng
gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về
danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con
người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của
nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được

áp dụng khi có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của
nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra. Điều kiện về lỗi không có ý nghĩa đối với
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bởi đây là loại
“trách nhiệm pháp lý nâng cao”, thậm chí kể cả khi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao
độ không có lỗi vẫn phải bồi thường trừ trường hợp do pháp luật qui định (Khoản 3,
Điều 601 Bộ luật dân sự).
3. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ:
- Căn cứ vào khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 601 Bộ luật dân sự 2015 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
+ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.
+ Người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.
+ Nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
+ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp
thiết, sự kiện bất khả kháng, hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
- Việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể. Khoản 2 Điều 160 Bộ luật
dân sự 2015 quy định nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu, theo đó “Chủ sở hữu được
thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với
quy định của pháp luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia,
dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
- Khi có thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trước tiên người ta nghĩ
đến nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng và bảo vệ lợi ích chung, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, trách nhiệm bồi thường trước hết được đặt ra
cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về
người khác.
4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

6



4.1. Điều kiện phát sinh bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ cao
độ gây ra:
- Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc
biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt
động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại.
Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có
lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp
luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Các điều kiện để phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ cũng có một số điểm đặc biệt như
sau.
- Có hoạt động gây thiệt hại do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
+ Thiệt hại liên quan đến các loại nguồn nguy hiểm rất đa dạng và do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, chỉ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu sau:
* Thứ nhất: Những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang
trong tình trạng vận hành, hoạt động.
* Thứ hai: Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy
hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Ví dụ: Xe tải đang lưu thông trên đường do sự cố mất phanh nên đã đâm vào
nhà dân gây thiệt hại về tài sản.
- Lưu ý: Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải
bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
+ Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại.
+ Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những người xung quanh:
+ Thiệt hại được coi là điều kiện tiền đề, điều kiện cơ sở để phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Nếu không có thiệt hại thì không bao giờ phát sinh trách
nhiệm bồi thường. Nguồn nguy hiểm cao độ nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ

sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ hoặc những người
không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu
mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt
hại cho những người xung quanh.
Ví dụ: Việc rò rỉ hóa chất, các chất phóng xạ trong quá trình vận chuyển đã gây
ảnh hưởng đến vật nuôi chăn thả và người dân tại khu vức đó thì chủ sở hữu nguồn
hóa chất, chất phóng xạ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

7


-Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do liên đới.
+ Thiệt hại do hành vi chiếm hữu, sử dụng trái phám luật nguồn nguy hiểm
cao độ của chủ thể trái pháp luật gây ra. Nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử
dụng trái phép là do lỗi của chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu sử dụng thì cũng
phải liên đới bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Một người tài xế xe tải khi đi ăn cơm và nghỉ trưa đã quên khóa cửa xe
và rút chìa khóa là xe bị mất và chiếc xe này đã bị lấy cắp. Trong quá trình lấy cắp
chiếc xe thì tên trộm đã điều khiển xe và gây tai nạn giao thông. Tài xế xe tải phải liên
đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong tình huống này.
4.2. Xác định trách nhiệm
- Theo quy định tại Điều 158 Bộ luật dân sự 2015, chủ sở hữu là người có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Việc thực hiện
quyền sở hữu của chủ sở hữu không được gây thiệt hại đên lợi ích chung, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác. Như vậy, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp người này đang
trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đó, ngay cả khi không có lỗi,
trừ pháp luật có quy định khác.
- Nguyên tắc này được quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự

2015.
4.2.1. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu,
sử dụng theo ý chí của mình
- Khoản 2 Điều 601 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hai do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra bởi người được chủ sở hữu giao cho như
sau “ nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải
bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”
- Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng luôn có các hình thức thể hiện khác nhau:
Chủ sở hữu có thể trực tiếp chiếm hữu, sử dụng để khai thác công dụng của tài sản;
chủ sở hữu cũng có thể chuyển giao quyền chiếm hữu thực tế tài sản cho người khác
và cho phép người này được sử dụng tài sản của mình (cho thuê, cho mượn, chuyển
giao theo nghĩa vụ lao động…). Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được
chuyển giao cho người khác theo ý chí của chủ sở hữu, chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi
cho thuê, cho mượn hay chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động,
mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là
một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích
kinh tế từ tài sản.

8


- Như vậy theo quy định của khoản 2 Điều 601 thì việc chủ sở hữu “giao cho”
người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nên được hiểu là “giao cho”
có căn cứ pháp luật hoặc theo ý chí của chủ sỡ hữu, và người chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ đó nhằm mục đích khai thác các lợi ích trực tiếp tài sản được
chuyển giao hợp pháp từ chủ sở hữu. Chủ sở hữu không được hưởng lợi ích trực tiếp
từ việc khai thác nguồn nguy hiểm cao độ đó, hay nói cách khác là người được giao
chiếm hữu, sử dụng tài sản đó không nhằm tạo ra lợi ích phục vụ cho chủ sở hữu. Ví
dụ : thuê, mượn, cầm giữ, giao dịch dân sự…

- Cách hiểu như vậy sẽ hợp lý hơn trong việc xác định trách nhiệm bổi thường
thiệt hại trong trường hợp:
+ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ
theo nghĩa vụ lao động. Trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy
hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn
nguy hiểm cao độ để thực hiện nhiệm vụ mà người chủ lao động giao cho. Giữa chủ sở
hữu nguồn nguy hiểm cao độ và người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy
hiểm cao độ có mối quan hệ lao động, được xác lập qua tuyển dụng hoặc ký kết hợp
đồng lao động. Mặc dù người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng
nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như
trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng,
theo đó, chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm khi tài sản của mình gây thiệt hại cho người
khác.
- Tuy nhiên nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra là phần trách nhiệm thuộc về người được giao chiếm hữu, sử dụng nếu như
người đó chiếm hữu, sử dụng tài sản trái với ý chí của chủ sở hữu hoặc nhằm phục vụ
cho lợi ích riêng của họ mà gây thiệt hại, hoặc trường hợp có thỏa thuận về bồi thường
thiệt hại giữa chủ sỡ hữu và người được giao quyền chiếm hữu, sử dụng về phân định
trách nhiệm khi xảy ra thiệt hại.
4.2.2 Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật, Bộ luật dân sự 2015 phân định thành 2 trường hợp:
- Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoàn
toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái
pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu
nguồn nguy hiểm cao độ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng
minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, vận
chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật.


9


- Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy
hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng
trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp
luật.
- Ngoài những trường hợp pháp luật quy định, trên thực tế có trường hợp chủ sở
hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác theo quy định
của pháp luật, ví dụ: người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng dụng tài sản
của các cá nhân, tổ chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc tạm thu giữ tài sản
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong những trường hợp này,
chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ bắt buộc chuyển giao
quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng
được chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó.
- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây thiệt hại thì ai có
trách nhiệm bồi thường: ví dụ thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người đi
rừng? Theo quy định hiện nay, những tài sản như vậy là một loại tài nguyên thiên
nhiên và là tài sản thuộc sở hữu nhà nươc, thuộc sự quản lý của bộ, ngành có liên
quan. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có văn bản nào quy định cơ quan quản lý Nhà nước
phải bồi thường và vì vậy, không ai phải chịu trách nhiệm bồi thường trong những
trường hợp này.
4.2.3 Trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra trong tình
thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, lỗi hoàn toàn do cố ý cảu người bị thiệt hại:
- Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn
nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi
không có lỗi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không được
đặt ra trong một số trường hợp như: tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do
lỗi cố ý của người bị thiệt hại:

“ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực
tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc
của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn cần
ngăn ngừa.” Để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt hại lớn hơn có
thể xảy ra, pháp luật dân sự Việt Nam tại điểm b khoản 3 Điều 601 quy định thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường.
- Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm ngoài
ý thức, sự kiểm soát và lường trước của con người nói chung và của chủ sở hữu, người
được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng. Trong
tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một cách xử lí nhất định

10


nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó. Đồng thời, thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, do đó
để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ, điểm b khoản 3 Điều 601 quy định trường hợp này
những chủ thể này không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
- Lỗi không phải điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Tuy nhiên,
nếu lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra
cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo
điểm a khoản 3 Điều 601 Bộ luật dân sự 2015.
- Tuy nhiên, trên tinh thần khoản c Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn
áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đối
với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng mà
những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy

hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp dụng theo các
quy định tại các văn bản pháp luật đó.
- Như vậy, do bản chất nguồn nguy hiểm cao độ là một loại tài sản đặc biệt, bản
thân nó tồn tại luôn tiềm ẩn những rủi ro gây thiệt hại cho lợi ích chung của cộng
đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khác. Do tính chất đặc biệt đó, khi sở hữu
nguồn nguy hiểm cao độ, pháp luật luôn đặt trách nhiệm hàng đầu trên người chủ sở
hữu tài sản về việc bảo quản và sử dụng cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Trách nhiệm này chỉ được chuyển giao cho chủ thể
khác (người chiếm hữu, sử dụng) nếu như chủ sở hữu có căn cứ xác định chủ thể
khác(người chiếm hữu, sử dụng) phải chịu bồi thường thiệt hại, hoặc được miễn khi
thuộc các trường hợp được pháp luật khác có liên quan quy định.
III. THỰC TIỄN:
1. Khái niệm “Nguồn nguy hiểm cao độ”
- Khoản 1 Điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nguồn nguy hiểm cao độ
như sau “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ
thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất
độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy
định”
- Như vậy, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được định nghĩa theo phương
pháp liệt kê các nguồn nguy hiểm cao độ tại các quy định pháp luật có liên quan. Tinh
thần này được áp dụng cho khái niệm tương tự ở bộ luật 2005, đến nay vẫn được áp

11


dụng. Xã hội ngày càng phát triển toàn diện về mọi mặt, đặc biệt là khoa học và kỹ
thuật. Đây cũng là lĩnh vực tạo ra nhiều thiết bị, máy móc…mà chúng có tính chất
“nguy hiểm cao độ”. Tuy luật có “vớt” bằng quy định các nguồn nguy hiểm cao độ
khác nhưng thực tế không dễ chứng minh chứng là nguồn nguy hiểm cao độ vì chồng
chéo giữ các quy định, lĩnh vực khác nhau.

- Vậy nên, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được quy định trong Khoản 1
Điều 601 theo hướng liệt kê, vì vậy không đầy đủ, thậm chí không thống nhất với các
quy định trong các văn bản pháp luật khác. Vì vậy, không nên định nghĩa nguồn nguy
hiểm cao độ theo hướng liệt kê mà chỉ cần xác định tiêu chí chung để được coi là
nguồn nguy hiểm cao độ.
2. Điều kiện bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
- Về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra. Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách
nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không
thống nhất trên thực tế.
- Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan
đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự
thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
- Thậm chí, tinh thần ở Nghị quyết 03/2006 còn đưa ra ví dụ để hướng dẫn cho
trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp: “Xe ô tô đang
tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật thì bất ngờ có người lao vào xe
để tự tử và hậu quả là người này bị thương hoặc bị chết”. Ví dụ này có thể dẫn đến
cách hiểu loại trừ trường hợp người bị thiệt hại cố ý lao vào xe ô tô tự tử thì mọi thiệt
hại do xe ô tô gây ra đều áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra.
- Vì vậy, cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân của
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
3. Phân định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
- Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao
độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ

lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự như đã phân tích. Cụ thể:

12


- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo
nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình
người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì
trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được
giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt
hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm
hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết
hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp
dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ,
được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ
pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, không để
tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao
độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách
nhiệm bồi thường.
- Ngoài ra pháp luật cần bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước đối với những thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra cho các
chủ thể khác; Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà
nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ
chức để phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…

13



TỔNG KẾT
Qua những phân tích trên có thể thấy pháp luật nước ta đã qui định khá đầy đủ về bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tuy nhiên trong thực tế nảy sinh
nhiều vấn đề mà các nhà làm luật chưa thể lường trước được, do đó có một số nội
dung bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn chưa phù hợp với
thực tế cũng như chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế cuộc sống. Do vậy, cần
phải tiếp tục sửa đổi bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như
bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra để bảo vệ cao nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, thiết lập trật tự xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường đại học luật hà nội “Trách nhiệm dân
sự do tài sản gây thiệt hại – vấn đề lý luận và thực tiễn”, mã số: lh-08-05/đhl. Hà nội
năm 2009-TS Trần Thị Huệ.
- Giáo trình Luật dân sự -ĐH Luật TP.HCM.
- Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Bản án và
bình luận án, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2010.
- Mai Bộ, “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”, Tạp chí
Tòa án nhân dân số 2/2003.
- Đặng Văn Hùng, “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
theo Điều 627 BLDS”, Tạp chí Tòa án nhân dân số 7/1998.

15




×