LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
LỜI NÓI ĐẦU
…..oOo…..
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật hình sự 1999 ra đời đánh dấu bước một bước phát triển mới cao hơn
của hoạt động lập pháp hình sự nước ta trong suốt hơn năm mươi năm qua, vì nó
được hình thành không chỉ trên cơ sở tổng hợp những kinh nghiệm, thành tựu của
thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và các tri thức về khoa học hình sự trong nước,
mà còn có sự lĩnh hội những thành tựu của khoa học Luật hình sự tiên tiến trên thế
giới. Pháp luật hình sự là một công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và
chống tội phạm. Vì vậy, trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu để thấy rõ khái niệm, các đặc
điểm, bản chất cơ bản của Tội cướp tài sản, nhằm hoàn thiện điều luật, về mặt tư
pháp còn nhiều bất cập trên thực tế xét xử và quá trình tố tụng dẫn đến việc bỏ lọt
tội phạm hay oan sai loại tội phạm này. Vì những nguyên nhân trên, người viết đã
đi sâu nghiên cứu “Tội cướp tài sản” quy định tại Điều 133 BLHS Việt Nam năm
1999.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nội dung ngoài việc đề cập đến những vấn đề lý luận khoa học Luật hình sự
còn bao gồm những chế định đã được quy định trong phần chung BLHS Việt Nam
hiện hành, như: Lịch sử phát triển của Luật hình sự Việt Nam về loại tội phạm
cướp tài sản; khái niệm tội cướp tài sản; các yếu tố cấu thành tội cướp tài sản; về
hình phạt đối với Tội cướp tài sản; những trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình
sự của loại tội phạm này, đồng phạm và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về phòng và chống tội phạm.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Ngoài việc nghiên cứu về Điều 133 “Tội cướp tài sản”. Người viết còn so
sánh các tội danh khác có liên quan đến tội xâm phạm sở hữu được thể ở các Điều
135 “tội cưỡng đoạt tài sản”, Điều 136 “Tội cướp giật tài sản” và các hành vi khác
chuyển hóa thành Tội cướp tài sản trong BLHS Việt Nam 1999. Để thấy được các
mặt tích cực cũng như mặt hạn chế trong các Điều luật trên để từ đó đưa ra các
giải pháp nhằm hoàn chỉnh pháp luật trong việc phòng và chống loại tội phạm này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Bằng phương pháp phân tích luật, phân tích các tình huống thực tế, các sự
kiện pháp lý nảy sinh trên thực tế, so sánh với các điều luật có liên quan, với các
Bộ luật hình sự của các nước trên thế giới thông qua đó tìm ra những điểm chưa
phù hợp và phù hợp để xem có nên hay không nên chỉnh sửa luật, đồng thời dựa
trên phương pháp sao chép lại các ý kiến của các luật gia, các nhà bình luận khoa
học luật nổi tiếng trong nước để nhận ra điểm chưa phù hợp trong những quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành, và phương pháp tra cứu tài liệu có liên
quan để phục vụ cho công tác nghiên cứu được thuận tiện.
5. Bố cục đề tài:
Ngoài Lời nói đầu và Kết luận, đề tài Luận văn được chia thành ba
chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về tội cướp tài sản
Chương 2: Tội cướp tài sản quy định trong luật hình sự Việt Nam (Điều
133 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999)
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và phương hướng hoàn thiện
Em xin chân thành cảm ơn Ts. Phạm Văn Beo đã tận tình hướng dẫn em
trong quá trình viết bài luận văn tốt nghiệp.
Mặc dù, bài viết về cơ bản đã hoàn thành nhưng do thời gian và năng lực có
hạn nên còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quý Thầy,
Cô giáo và các bạn.
2
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chương I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm chung và dấu hiệu pháp lý trong chương tội xâm phạm
sở hữu
Quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố khách quan trong xã hội vì thế muốn
điều chỉnh các quan hệ sở hữu phát triển theo hướng có lợi, giai cấp thống trị dùng
pháp luật để ghi nhận, cũng cố địa vị của mình trong việc chiếm hữu của cải vật
chất trước các giai cấp khác. Quyền sở hữu là chế định pháp lý bao gồm tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về sở hữu đối vớicác lợi ích vật chất
trong xã hội. Chủ sở hữu tài sản có toàn các quyền đối với tài sản của mình, theo
Điều 173 BLHS thì chủ sở hữu có các quyền: chiếm giữ, sử dụng, định đoạt tài
sản. Cả ba quyền năng này tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của quyền
sở hữu, tuy mỗi quyền năng mang một ý nghĩa khác nhau, nhưng chúng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Như vậy, các hành vi xâm phạm quan hệ sở hữu có
nghĩa là xâm phạm đến các quy phạm pháp luật về chế độ sở hữu.
1.1.1. Khái niệm chung
Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi có lỗi gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự gây thiệt hại này thể hiện được đầy đủ nhất
bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Nghĩa là, các tội xâm phạm sở hữu là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến quan hệ sở hữu của cơ quan, tổ chức và của cá nhân.
Nhìn chung, đa số các tội xâm phạm sở hữu đều có tính chất chiếm đoạt.
Trong số 13 hành vi phạm tội thuộc nhóm này có 8 hành vi có tính chất chiếm
đoạt. Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào có tính chất chiếm đoạt đều là
các tội phạm xâm sở hữu. Các tội xâm phạm sở hữu thường được thực hiện với lỗi
cố ý, ngoại lệ chỉ có hành vi phạm tội có lỗi vô ý. Hậu quả của tội phạm chủ yếu là
thiệt hại về tài sản. Vì thế, mức độ thiệt hại về tài sản là căn cứ quan trọng nhất để
đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội thuộc nhóm này. Cá
biệt, có một vài hành vi phạm tội chẳng những gây thiệt hại về tài sản còn gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của chủ sở hữu.
3
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý
1.1.2.1. Mặt khách thể của tội phạm
Các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Chương XIV BLHS có khách
thể bị xâm hại là quan hệ sở hữu, có nghĩa là các tội xâm phạm sở hữu phải là
những hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và sự
gây thiệt hại này phải phản ánh được đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi đó.
Sở hữu là quan hệ xã hội mà trong đó quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
về tài sản được tôn trọng và bảo vệ. Hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt về tài sản. Thực tế có những hành vi tuy có xâm phạm đến quan
hệ sở hữu nhưng không phải là tội xâm phạm sở hữu, vì những hành vi này còn
đồng thời xâm phạm tới những quan hệ sở hữu khác và được pháp luật hình sự bảo
vệ thông qua một chế định khác.
Một số tội xâm phạm sở hữu đồng thời xâm phạm 2 khách thể, đó là quan hệ
nhân thân và quan hệ sở hữu, ví dụ như tội cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản,…
Trong các trường hợp này, hành vi phạm tội trước hết xâm phạm đến thân thể,
quyền tự do của con người để qua đó có thể xâm phạm đến quyền sở hữu.
Sự xâm phạm hại một trong hai loại quan hệ xã hội này đều chưa thể hiện hết
bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do đó, hai quan hệ trên đều
là khách thể trực tiếp của những tội này. Việc xếp những tội này vào chương các
tôi xâm phạm sở hữu xuất phát từ quan điểm cho rằng mục đích chính của người
phạm tội là nhằm vào sở hữu tài sản. Việc xâm hại quan hệ nhân thân chỉ là
phương tiện để người phạm tội đạt được mục đích là chiếm đoạt tài sản.
Đối tượng tác động của tội phạm sở hữu
Như mọi hành vi phạm tội khác, hành vi xâm phạm sở hữu cũng như có đối
tượng tác động cụ thể. Đó là tài sản – đối tượng vật chất nhờ đó có sự tồn tại quan
hệ sở hữu. Những tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, của tập thể, của công dân,…
Nếu đối tượng bị xâm hại là tài sản của Nhà nước thì đó “tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự” được quy định tại điểm i khoản 1Điều 48 BLHS 1999. Tài sản,
theo Bộ luật dân sự Việt Nam, tài sản thể hiện dưới ba hình thức: “Vật có thực,
tiền, giấy tờ trị giá được tính bằng tiền và quyền tài sản” Điều 172 BLDS 2005.
Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản, ngoài ra còn có đối tượng tác
4
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
động là con người như “Tội cướp tài sản” Điều 133 BLHS, “Tội cưỡng đoạt tài
sản” Điều 135 BLHS 1999… Đối tượng (con người) trong trường hợp này, phải
có mối quan hệ với tài sản và bị tác động đồng thời với tài sản mới là đối tượng
của các tội xâm phạm sở hữu, nếu bị gây thiệt hại một cách độc lập sẽ cấu thành
những tội phạm ở các chương khác của BLHS.
Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu có những đặc điểm riêng
so với tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm khác. Những đặc điểm được
thể hiện như sau:
Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu phải được thể hiện ở dạng
vật chất, có giá trị và giá trị sử dụng này là thước đo giá trị lao động của con người
đựơc kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc tinh
thần của con người.
Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu phải có chủ sở hữu cụ thể
với các quy định có tính pháp lý thể hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản. Hành vi phạm tội khi xâm hại tới quyền sở hữu phải tác động tới những tài
sản đã được xác lập quyền sở hữu bằng những quy định pháp lý đối với một số
chủ sở hữu nhất định.
Tài sản là đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu phải có khả năng chuyển
hóa được giữa các chủ sở hữu với nhau. Nếu không có khả năng này thì tài sản
không thuộc đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu, như: Tác giả của
các tác phẩm văn học nghệ thuật, sáng chế, phát minh khoa học… là chủ sở hữu
của các tác phẩm đó nhưng không thể chuyển đổi, nên khi có hành vi xâm hại đến
quyền tác giả thì không cấu thành tội xâm phạm sở hữu mà là cấu thành tội xâm
phạm quyền tác giả (Điều 131 BLHS 1999).
Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu còn là tài sản được thể hiện bằng các
loại giấy tờ có giá trị mà thông qua đó người phạm tội có thể nhận được một số
tiền hoặc tài sản nhất định (ví du: công trái, tín phiếu…). Tuy nhiên, có những loại
giấy tờ mà thông qua đó không trực tiếp lấy được tài sản mà phải khâu trung gian
hoặc dùng vào việc phân phối thì mặc dù có hành vi chiếm đoạt cũng không cấu
thành tội xâm phạm sở hữu.
Tuy nhiên có một số vật do tính chất công dụng đặc biệt không được coi là
đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu mà đối tượng tác động của các
tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của các hành vi phạm tội khác. Ví dụ, công
5
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
trình điện lưới quốc gia, thông tin liên lạc, phương tiện giao thông liên lạc; hành vi
gây thiệt cho chủ sở hữu ở Tội vi phạm các quy định về điều khiển giao thông
đường bộ (Điều 202 BLHS 1999); tài sản có thể mua bán, trao đổi được một các
hợp pháp như: Thuốc phiện, vũ khí, phương tiện kỹ thuật quân sự; những tài sản
được chôn cùng người đã chết, nếu có hành vi xâm phạm cũng không phải là đối
tượng tác động của các tôi xâm phạm sở hữu mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự
về xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Điều 206 BLHS 1999)
Như vậy, tài sản là đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu phải
thỏa mãn nhiều yếu tố khác nhau phản ánh không chỉ đặc điểm vốn có của tài sản
mà còn chịu sự tác động của hành vi tới tài sản đó cũng như ý thức chủ quan của
người thực hiện hành vi.
Tài sản được pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ, về
nguyên tắc phải là tài sản hợp pháp. Nhưng điều đó không có nghĩa những hành vi
xâm phạm tài sản bất hợp pháp của công dân khác không bị coi là phạm tội. Hành
vi xâm phạm tài sản khác, dù tài sản đó là tài sản bất hợp pháp, vẫn bị coi là trái
pháp luật và có thể cấu thành tội xâm phạm sở hữu. Việc coi những hành vi đó là
trái pháp luật và có thể bị xử lý về mặt hình sự là hoàn toàn cần thiết, để đảm bảo
trật tự chung của xã hội.
1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội xâm phạm sở hữu tuy khác nhau ở hình thức
thể hiện nhưng đều có cùng tính chất gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm
quyền chiến hữu, sử dụng, định đoạt của chủ tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả
năng thực hiện quyền sở hữu của mình. Những hình thức khách quan được thể
hiện một trong các hành vi sau đây: chiếm đọat, chiếm giữ trái phép, sử dụng trái
phép, hủy hoại, làm hư hỏng tài sản, làm mất mát, lãng phí tài sản. Trong những
hành vi đó có hành vi thể hiện bằng hình thức hành động và không hành động
(hành vi hủy hoại, hành vi làm hư hỏng tài sản); có hành vi chỉ được thực hiện
bằng hành động (chiếm đoạt).
Hậu quả của những hành vi nói trên là gây thiệt hại cho chủ sở hữu thể hiện
dưới dạng vật chất cụ thể như là tài sản bị mất, bị hư hỏng, bị hủy hoại,…Đối với
một số tội (cướp, cưỡng đoạt,.. ), hậu quả xảy ra không phải là dấu hiệu bắt buộc
của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời điểm thực
hiện hành vi phạm tội. Đối với một số tội khác (như tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư
6
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
hỏng tài sản (Điều 143), tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142,…), hành vi chỉ
cấu thành tội phạm nếu gây hậu quả nghiêm trọng, nên nó là ranh giới để phân biệt
tội phạm với vi phạm giữa các khung hình phạt với nhau. Bộ luật hình sự 1999
quy định, giá trị tài sản bị thiệt do hành vi chiếm đoạt gây ra từ 500.000đ trở lên
mới bị truy cứu TNHS. Tuy nhiên, có thể truy cứu TNHS đối với người chiếm
đoạt tài sản trị giá dưới 500.000đ nhưng phải trong truờng hợp gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc bị xử lý hành chính về hành vi chiếm đọat chưa được xóa án
tích mà còn vi phạm hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm. Riêng đối với các tội vô ý gây thiệt hại nghiệm trọng đến tài sản, thì
thiệt hại về tài sản từ 50.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu TNHS.
Như vậy, việc xác định đúng giá trị tài sản chiếm đoạt, bị chiếm đoạt giữ
trái phép, bị sử dụng trái phép, bị hủy hoại hoặc làm hư hỏng trái phép có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định tội phạm và vi phạm, cũng như áp dụng khung hình
phạt nào. Theo Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BCABTP ngày 25/12/2001 ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XIV- “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS 1999.
1.1.2.3. Mặt chủ thể của tội phạm
Lỗi của người thực hiện các tội xâm phạm sở hữu có thể là cố ý như “tội
cướp tài sản” (Điều 133), “tội cưỡng đoạt tài sản” (Điều 135); hoặc vô ý như ở
tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều
144) và “tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” (Điều 145)
Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội có thể có tính tư lợi hoặc không.
Như “tội cướp tài sản” (Điều 133), “tội cưỡng đoạt tài sản” (Điều 135) là lỗi cố ý,
có tính vụ lợi, song có tội cũng được thực hiện do lỗi cố ý nhưng không có mục
đích chiếm đoạt như “tội sử dụng trái phép tài sản”.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Chủ thể của hầu hết tội xâm phạm sở hữu là những người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Riêng đối với tội thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước đòi hỏi chủ thể phải là những
người có chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý tài sản hoặc có nhiệm vụ trực tiếp
quản lý tài sản (chủ thể đặc biệt).
7
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
1.2. Khái quát về tội cướp tài sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của tội cướp tài sản
Trong quá trình lập pháp, việc xác định được một loại tội phạm nhất định nào
đó thì các nhà làm luật phải mô tả được đặc điểm, bản chất của loại tội phạm đó.
Thông qua đó, việc truy cứu trách nhiệm hình sự của loại tội phạm đã phạm mới
thật sự chính xác. Chúng ta hãy nghiên cứu tội Cướp tài sản có bản chất và những
đặc điểm của loại tội phạm này như thế nào?
1.2.1.1. Khái niệm tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS 1999)
So với Tội cướp tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 129 BLHS 1985) và tội cướp
tài sản của công dân (Điều 151 BLHS 1985) thì Tội cướp tài sản quy định tại Điều
133 BLHS 1999 về cơ bản không có sự khác biệt. Tội cướp tài sản được hiểu là
hành vi của một người hoặc nhóm người dùng những thủ đoạn như dùng vũ lực,
đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của một người
hoặc thủ đoạn khác để cướp mà người này không hề mong muốn.
Theo quy định của Điều 133 BLHS Việt Nam 1999, định nghĩa tội cướp tài
sản. “Cướp tài sản là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc
có hành vi nào khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản…”
1.2.1.2. Đặc điểm tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản theo quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam thuộc nhóm
tội xâm phạm sở hữu, Chương XIV quy định từ Điều 133 đến Điều 145 BLHS
Việt Nam 1999. Trong đó, Tội cướp tài sản quy định tại Điều 133 BLHS 1999.
Hành vi phạm tội của tội cướp tài sản thể hiện dưới dạng hành động phạm tội
cụ thể, thể hiện dưới dạng dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và các hành vi, thủ
đoạn khác và thực hiện hành vi cuối cùng là “chiếm đoạt tài sản”.1
Sự gây thiệt hại này phải phản ánh được đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi đó. Hậu quả của hành vi phạm tội cướp tài sản là gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm đến các
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt về tài sản. Bên cạnh đó, còn có hành vi
phạm tội là xâm phạm đến thân thể, quyền tự do của con người để qua đó có thể
xâm phạm đến quyền sở hữu.
1
Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của
mình.
8
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra (có mối quan hệ nhân quả giữa hành
vi phạm tội và hậu quả). Hậu quả đó có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài
sản (như bị mất, bị hư hỏng, bị hủy hoại,…) hoặc hậu quả phi vật chất gây ảnh
hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây
hưởng về an ninh, trật tự và an toàn xã hội… Hậu quả xảy ra không phải là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm được coi là hoàn thành kể từ thời
điểm thực hiện hành vi tội phạm. Trong các trường hợp này tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phmạ gây ra là nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Lỗi của cấu thành tội phạm cướp tài sản là lỗi cố ý.
1.2.1.3. Bản chất tội cướp tài sản
Là hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền sở hữu, tài sản của người khác,
dùng các thủ đoạn như đe dọa, vũ lực hoặc các hành vi khác để tấn công, làm
người khác không chống cự lại được nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2.2. Động cơ, mục đích của Tội cướp tài sản
Mỗi loại tội phạm đều có những động cơ, mục đích phạm tội nhất định và
đặc trưng của từng loại tội phạm đã phạm. Cũng giống với các loại tội phạm khác,
tội Hiếp dâm cũng có các động cơ và mục đích nhất định, việc xác định được động
cơ và mục đích của loại tội phạm này giúp ích rất nhiều trong việc xác định tội
danh và phân biệt được với các loại tội phạm khác.
1.2.2.1. Động cơ của tội phạm
Động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội cố ý (có thể hiểu là nguyên nhân tinh thần của tội
phạm).
Động cơ phạm tội là một dấu hiệu của mặt chủ quan và nó là nguyên nhân
tinh thần của tội phạm. Nhìn chung, động cơ phạm tội không có ý nghĩa xác định
tính chất nguy hiểm của tội phạm. Đồng thời, nó cũng không thể làm thay đổi hẳn
tính chất của hành vi. Do vậy, động cơ nói chung không phải là căn cứ phân biệt
giữa hành vi tội phạm với hành vi không phạm tội, phân biệt tội phạm này với tội
phạm khác. Tuy nhiên, động cơ có thể làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội.
Trong trường hợp phạm Tội cướp tài sản Điều 133 BLHS 1999, thì luật
không có quy định cụ thể về động cơ như ở các Điều 93 BLHS 1999 quy định về
9
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
tội Giết người, với điều văn “động cơ đê hèn” nhằm định khung tăng nặng hay
đông cơ “phòng vệ” ở tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Điều 96 BLHS 1999. Động cơ phạm tội có thể phản ánh trong cấu thành tăng nặng
hoặc giảm nhẹ là dấu hiệu định khung. Bên cạnh đó, động cơ phạm tội cũng có thể
được xem là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định
tại Điều 46, Điều 48 BLHS 1999. Tuy nhiên, theo tôi mặt chủ quan của người
phạm tội là ý trí và lý trí của người này có thể được coi là động cơ “ dùng bạo lực,
đe dọa dùng vũ lực” nhằm thực hiện hành vi phạm tội (chiếm đoạt tài sản) cho
bằng được để mặc cho hậu quả xảy ra.
1.2.2.2. Mục đích của tội phạm
Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt
ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội.
Trong Tội cướp tài sản, dấu hiệu hành vi được quy định khá rõ mục đích
phạm tội của loại tội phạm này, nó được ghi nhận tại điều văn “dùng vũ lực, đe
dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc tiến hành các hành vi làm cho người bị tấn
công lâm vào trạmg thái mất khả năng chống cự nhằm chiếm đoạt tài sản của
người khác”. Như vậy mục đích cuối cùng của loại tội phạm này là xâm phạm
quyền sở hữu. Ngoài ra, còn xâm phạm tính mạng, đến sức khỏe, nhân phẩm, danh
dự của con người.
1.2.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu về tội cướp tài sản
Ý nghĩa của việc nghiên cứu có ý nghĩa rất quan trọng để góp phần làm sáng
tỏ lý luận về các tội phạm đựợc quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam. Từ đó
có thể xử lý những hành vi xâm phạm sở hữu được khách quan, toàn diện và
nghiêm minh, đồng thời cũng có thể góp phần vào công tác phòng và chống đấu
tranh với các loại tội phạm nguy hiểm.
Vì vậy việc nghiên cứu Điều 133 BLHS 1999 là hướng tới mục tiêu làm sáng
tỏ hơn nữa ý nghĩa của nó, các mặt tích cực mà nó đã đạt được và quan trọng hơn
là tìm ra được những điểm thiếu sót, hạn chế của điều luật để đưa ra các giải pháp
hoàn thiện nó trên cả mặt lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm
hiện nay.
Trong thực tế, tội Cướp tài sản là một trong những tội nằm trong nhóm tội
xâm phạm sở hữu, cho nên tính chất nguy hiểm của nó cũng không phải là nhỏ, vì
thế vấn đề đấu tranh và phòng ngừa đối với loại tội phạm này cũng luôn luôn cần
10
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
đựơc quan tâm để nhằm bạo vệ giữ vững nền an ninh, trật tự, an toàn xã hội của
mỗi quốc gia trong các thời kỳ để góp phần đấu tranh trừng trị đúng người, đúng
tội phạm thì trước hết, chúng ta phải biết người đó phạm tội vào loại tội gì và loại
tội đó có những dấu hiệu gì để phân biệt. Mặc dù, về mặt lý luận thì mỗi loại tội
phạm có những dấu hiệu riêng nhưng mà đâu phải lúc nào hành vi tội phạm cũng
diễn ra y như vậy, hành vi của các loại tội phạm biến hóa khôn lường, muôn màu
muôn vẻ. Do đó, tùy thuộc vào từng thời kỳ mà các các loại tội phạm diễn ra với
những hành vi khác nhau, ngày càng tinh vi hơn. Cho nên đòi hỏi các cơ quan
chức năng phải đi nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để am hiểu được mọi hành vi và
hoạt động của bọn tội phạm thì lúc đó công tác đấu tranh mới đạt được hiệu qủa
cao. Đó là điều kiện tiên quyết để giữ vững nền an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
1.3. Tội cướp tài sản được quy định trong Luật hình sự Việt Nam qua
các giai đoạn lịch sử
Trải qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện một Nhà nước độc
lập, tự chủ vững mạnh, để lại cho các thế hệ sau nhiều di sản quý báu về kinh
nghiệm quản lý và điều hành đất nước qua các bước thăng trầm của lịch sử dân
tộc. Một trong những di sản quý báo đó là thành quả tố tụng hình sự lớn, đầy tính
sáng tạo trong xây dựng nền pháp luật độc lập, tự chủ phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn lịch sử, trong đó, những thành tựu và kinh nghiệm
về lập pháp hình sự có vị trí trọng yếu. Với tư cách là công cụ có hiệu quả trong
công cuộc bảo vệ và duy trì Nhà nước độc lập, tự chủ trước thế lực xâm lược của
bên ngoài và bảo đảm quản lý có hiệu quả của Nhà nước trong công cuộc xây
dựng đất nước, các Nhà nước Việt Nam trải qua các triều đại lịch sử đã luôn quan
tâm ban hành các quy định pháp luật hình sự và luôn thể hiện đậm nét bản sắc dân
tộc trong di sản văn hóa quý báo đó.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam kiểu mới được
hình thành, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam.
Trải qua trên năm thập kỷ xây dựng, Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu
quan trọng trong việc xây dựng những văn bản pháp luật về hình sự, nổi bật nhất
là đã kế thừa và phát huy vốn di sản lập pháp của cha ông để lại, bên cạnh nhiều
nguyên tắc tiến bộ, dân chủ xã hội chủ nghĩa được ghi nhận trong pháp luật Việt
Nam nói chung, pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng… Và với công cụ có hiệu
11
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
quả đó, đã giúp Nhà nước ta quản lý xã hội đạt được nhiều thắng lợi, bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế, văn hóa mới của nước nhà.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt nam, từ Bộ
luật Hồng Đức (nhà Lê) đến Bộ luật Gia Long (nhà Nguyễn) đều có những nét tiến
bộ về mặt bảo vệ quyền sở hữu. Theo quy định của Hồng Đức thiện chính thư quy
định: “Ngầm ráp mưu gian, ăn cướp châu báu, định kép vào tội chết, cha mẹ vợ
con và điền sản tịch thu sung công, chiếu luật mà thi hành” (Điều 307); đến Bộ
luật Gia Long- Hoàng Việt luật lệ đã quy định nhiều đến tội xâm phạm sở hữu.
trong đó có nhiều quy định có nhiều quy định về các tội xâm phạm sở hữu như
Điều 226- Ăn cắp đồ Vua dùng trong đại tế thần, Điều 228- Ăn cắp ấn tín, Điều
229- Ăn cắp tài vật trong nội phủ, Điều 231- Ăn trộm quân khí, Điều 240- Ăn
trộm lúa thóc ngoài đồng… Điều 238- Trộm cắp- Hoàng Việt luật lệ quy định:
“Phàm đã tiến hành trộm cắp nhưng không lấy được đồ, phạt 50 roi, miễn xâm
chữ. Trường hợp lấy được đồ, không kể là chia tang vật hay không, đem một chủ
làm trọng, lấy tang vật ấy làm trọng, lấy tang vật ấy luận tội… Người phạm đầu,
trên cánh tay mặt xăm hai chữ ĂN TRỘM. Tái phạm xăm bên tay trái, phạm lần 3
treo cổ (giam chờ)”. Đáng chú ý, ngoài các tội trộm cắp tài sản, Hoàng Việt luật lệ
còn quy định các tội chiếm đoạt tài sản có sử dụng vũ lực hoặc thủ đoạn gian dối
với chế tài hình sự nặng hơn các tội trộm cắp, quy định tại Điều 242- Doạ nạt cho
sợ mà lấy của- Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm gây sợ sệt doạ nạt lấy tiền của
người ta với tang vật, thì xử tội ăn trộm thêm một bậc, căn cứ vào một chủ mà
buộc tội nặng, còn tang vật thì chia ra thủ tùng, còn như chưa lấy được của, cũng
chuẩn theo luật mà xử”. Như vậy, đây được xem là khái niệm sơ khai của tội Cướp
tài sản đã được quy định trong Bộ luật Gia Long. Mãi đến khi Thực Dân Pháp xâm
lược (1958), và bắt đầu cai trị Nhà nước ta với chính sách “chia để trị”, chia nhà
nước thành ba chế độ chính trị khác nhau. Ở nam kỳ, Bộ luật Gia Long được áp
dụng; Ở Nam kỳ, sau khi sửa đổi 56 điều của Bộ luật hình sự Pháp thành Hình luật
canh cải thì được đưa vào áp dụng; Còn ở Trung kỳ, Luật hình An Nam được áp
dụng tại đây. Đến năm 1975, miền nam được hoàn toàn giải phóng, nước nhà được
thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Thời kỳ này, đất nước tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt
nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền nam Việt nam; mỗi Nhà nước
có pháp luật riêng. Tuy nhiên, thời kỳ này vẫn chưa có Bộ luật hình sự chính thức,
12
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
mà được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật hình sự. Tuy nhiên, việc
các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện,
đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì vậy, việc ban hành
Bộ luật hình sự là tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt nam
xã hội chủ nghĩa. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 27/06/1985, tại kỳ hợp thứ 9, Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật hình
sự, có hiệu lực từ ngày 1/1/1986 (gọi tắt là Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985)
gồm hai phần (Phần chung và Phần các tội phạm), tổng cộng 20 Chương với 280
Điều. Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu của luật
hình sự Việt nam, nhất là từ Cách mạng tháng Tám, tổng kết kinh nghiệm đấu
tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình
hình tội phạm trong thời gian tới nói chung và tội Cướp tài sản nói riêng. Bởi vì,
việc Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đã chính thức quy định tội Cướp tài sản và
định nghĩa được loại tội phạm này tại Điều 129 và Điều 151 Bộ luật hình sự năm
1985, thuộc hai Chương IV xâm phạm sở hữu tài sản xã hội chủ nghĩa và Chương
VI xâm phạm sở hữu của công dân . Bộ luật hình sự 1985 đã định nghĩa tội. Như
vậy, Bộ luật hình sự năm 1985 đã chính thức ghi nhận tội Cướp tài sản, xác định
được các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, bao gồm: khách thể, mặt khách
quan, chủ thể, mặt chủ quan và định ra các hình phạt thích đáng cho hành vi phạm
tội này.
Do có những bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985, mặc dù đã nhiều lần
chỉnh sửa bổ sung (4 lần chỉnh sửa bổ sung), nhưng Bộ luật hình sự năm 1985 vẫn
còn rất nhiều hạn chế: Vừa phải chịu ảnh hưởng bởi cơ chế tập trung, quan liêu,
bao cấp không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vừa bị hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp hình
sự, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế, nhất là việc Bộ luật đã không
còn là một chỉnh thể thống nhất sau nhiều lần chỉnh sửa. Do vậy, ngày 22/15/1999,
Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam khóa X tại kỳ hợp thứ 6, đã
thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), thay thế
cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-72000. Bộ luật này có nhiều điểm mới cơ bản, đặc biệt là việc Bộ luật hình sự năm
1999 đã định nghĩa cụ thể hơn Bộ luật hình sự 1985 về tội Cướp tài sản Điều 133
13
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Như vậy, lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự Việt nam đã
chính thức quy định tội Cướp tài sản từ Bộ luật hình sự năm 1985 và đã hoàn thiện
một cách cụ thể hơn về tội danh này tại Bộ luật hình sự năm 1999. Mặc dù điều
luật còn nhiều hạn chế cần được chỉnh sửa. Song, điều luật đã cơ bản định nghĩa
được tội Cướp tài sản, xác định được các dấu hiệu của tội phạm này, đồng thời
quy định trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm này, các hình phạt tương ứng
với hành vi phạm tội Cướp tài sản.
Trước khi BLHS năm 1985 được ban hành, các văn bản pháp luật hình sự,
cũng như các hướng dẫn về tội Cướp tài sản (tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản
riêng của công dân) chỉ quy định cướp là dùng bạo lực để chiếm đoạt mà không có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa
ngày 20/10/1970 và tại Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân ngày 21/10/1970 đều quy định “kẻ nào dùng bạo lực để chiếm
đoạt…”
Do thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp người phạm tội không dùng bạo lực
mà dùng những thủ đoạn cũng rất nguy hiểm nhằm chiếm đoạt tài sản, nếu chỉ
truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội về tội cưỡng đoạt hoặc tội trộm cắp
thì không tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nên khi xây
dựng Bộ luật hình sự 1985, nhà làm luật đã đưa vào cấu thành của Tội cướp tài sản
(cướp tài sản xã hội chủ nghĩa và cướp tài sản riêng của công dân) một số hành vi
là dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm, như: đe dọa dùng ngay tức khắc
vũ lực hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được. Bộ luật hình sự 1999 vẫn giữ nội dung này, chỉ hoán vị từ
“dùng ngay tức khắc vũ lực” thành “dùng vũ lực ngay tức khắc”.
1.4. Tội cướp tài sản được quy định trong một số nước trên thế giới
Pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng của mỗi nước đều thể hiện
được đặc điểm đặc trưng về phong tục tập quán, tình hình xã hội, sự phát triển về
mặt sinh học của con người...do vậy, việc Bộ luật hình sự của mỗi nước đều có
cách quy định về loại tội phạm cũng không giống nhau.
Luật hình sự Thụy Điển
Theo quy định của luật hình sự Thụy Điển thì tội Cướp tài sản được quy
định trong Bộ luật hình sự Thụy Điển tại Điều 5 Chương 8 “Tội trộm cắp, cướp và
14
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
các tội khác chiếm đoạt tài sản của công dân” được ghi nhận như sau: Người nào
chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách dùng vũ lực ngay lập tức gây nguy
hiểm cho người bị đe doạ, hoặc người nào, sau khi thực hiện tội trộm cắp vì bị bắt
quả tang mà dùng vũ lực hoặc đe doạ như đã nói trên chống lại người muốn thu
hồi tài sản đã bị mất trộm thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm về tội cướp tài
sản của công dân.
Luật hình sự Nhật Bản
Nhật Bản được xem là một trong những đất nước an toàn nhất thế giới, quyền
sở hữu của công dân được Nhà nước Nhật hết sức quan tâm và bảo vệ, trong đó tội
Cướp tài sản được quy định tại Bộ luật hình sự Nhật được xem là công cụ và là cơ
sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu của công dân và ngăn ngừa tội phạm Cướp tài
sản xảy ra. Tội Cướp tài sản được ghi nhận từ Điều 236 đến Điều 242 Bộ luật hình
sự Nhật, thuộc chương XXXVI “Các tội Trộm cắp tài sản và cướp tài sản”. Theo
đó, tội Cướp tài sản được định nghĩa như sau: Người nào tước đoạt tài sản của
người khác bằng cách dùng vũ lực hoặc áp đảo tinh thần là phạm tội cướp, đồng
thời điều luật còn quy định thêm hành vi của một người có được một món lợi kinh
tế bất hợp pháp hoặc buộc người khác phải có được một món lợi kinh tế bất hợp
pháp; Bộ luật hình sự Nhật còn quy định thêm loại tội phạm này tại Điều 238
“trường hợp được hiểu là cướp” như sau: Khi kẻ trộm dùng vũ lực hoặc áp đảo
tinh thần để ngăn chặn việc phát hiện tài sản lấy cắp, để trốn khỏi bị bắt hoặc để
xoá dấu vết thì sẽ bị xử phạt như là kẻ cướp” . Như vậy, việc xác định tội Cướp tài
sản ở Bộ luật hình sự Nhật Bản cũng giống như Bộ luật hình sự Thụy Điển.
Luật hình sự Liên Bang Nga
Luật hình sự Nga được xem là một ngành luật có lịch sử hình thành lâu đời
trên thế giới. Bộ luật hình sự Liên Bang Nga ra đời năm 1996, Bộ luật hình sự này
được xây dựng trên nền tảng Hiến pháp Liên Bang Nga, các nguyên tắc được thừa
nhận chung và các quy phạm pháp luật quốc tế. Bộ luật hình sự Liên Bang Nga
gồm XII Phần, 34 Chương, 352 Điều
15
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Chương II
TỘI CƯỚP TÀI SẢN QUY ĐỊNH TRONG PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Khái niệm tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS 1999)
Khoản 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự
được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm;
Khoản 2. Phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Sử dụngvũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiẻm khác;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 11% đến 30%;
f) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm
triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
Khoản 3. Phạm tội tuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai
năm đến hai mươi năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đếm dưới năm trăm
triệu đồng;
c) Gây hậu qủa rất nghiêm trọng
Khoản 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sưc khỏe của người khác mà tỷ lệ
thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
16
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khoản 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm
cư trú từ một năm đến năm năm.
2.2. Các yếu tố cấu thành Tội cướp tài sản
Cướp taì sản là một trong những tội phạm có tính chất nguy hiểm cao cho xã
hội nên hình phạt quy định áp dụng đối với người phạm tội cướp tài sản mức độ
cao nhất là tử hình.
2.2.1. Mặt khách thể của tội cướp tài sản
Cướp tài sản được hiểu là dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có các hành khác làm cho người bị tấn công lâm vào trạng thái mất khả năng
chống cự nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Vì vậy, tội phạm này
cùng lúc xâm phạm quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân của người quản lý tài
sản (tự do, tính mạng, sửc khỏe). Trong đó, quan hệ nhân thân là quan trọng hơn
và bị xâm hại trước, chỉ có thông qua việc xâm hại quan hệ nhân thân, người phạm
tội mới có thể xâm hại được quan hệ sở hữu. Do vậy, cả hai quan hệ xã hội bị xâm
hại đều được coi là khách thể trực tiếp của tội Cướp tài sản. Tính chất đặc biệt
nguy hiểm cho xã hội của tội này là ở chỗ nó đã đồng thời xâm hại hai quan hệ xã
hội quan trọng đã nêu ở trên.
Khoa học pháp lý hình sự xác định những tội phạm được cấu thành bởi nhiều
hành vi nguy hiểm cho xã hội, xảy ra ở cùng thời điểm và mỗi hành vi xâm hại
đến một quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và nếu tách ra chúng có thể
sẽ cấu thành một tội độc lập là tội ghép. Theo cách xác định này, thì cướp tài sản
là tội ghép. So với các loại tội phạm khác, tội ghép có tính chất nguy hiểm cho xã
hội cao hơn, vì vậy không thấy được tội Cướp tài sản đã đồng thời xâm hại đến hai
khách thể trực tiếp thì không thấy hết được tính chất đặc biệt nguy hiểm cho xã
hội của nó. Đông thời xâm hại đến hai quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản nhưng
BLHS năm 1999 (và cả BLHS năm 1985 cũng như trong toàn bộ quá trình lập
pháp hình sự ở Việt Nam từ năm 1945) đều quy định tội Cướp tài sản nằm trong
Chương các tội xâm phạm sở hữu với lý do: Tuy có tác động tới nhân thân con
người, xâm phạm quyền nhân thân nhưng mục đích cuối cùng là “chiếm đoạt tài
sản”.
17
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
2.2.2. Mặt khách quan của tội cướp tài sản
Theo quy định của Điều luật có ba dạng hành vi khách quan được coi là hành
vi phạm tội của tội Cướp tài sản. Đó là, hành vi dùng vũ lực; Hành vi đe dọa dùng
vũ lực ngay tức khắc; Hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không
thể chống cự được (các hành vi khác) nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi dùng vũ lực được hiểu là hành vi dùng sức mạnh vật chất (có hoặc
không có công cụ, phương tiện phạm tội) để tấn công vào ai đó nhằm khống chế,
đè bẹp hoặc làm tê liệt sự chống cự của người khác chống cự lại việc chiếm đoạt
tài sản. Hành vi này trước hết là nhằm vào con người. Những hành vi không nhằm
vào con người đều không phải là hành vi dùng vũ lực theo quy định của luật định.
Hành động tấn công này (như: đấm, đá, bóp cổ, bắn, chém, nhét giẻ vào miệng,
trói,...) có khả năng phương hại đến tính mạng, sức khỏe của người bị tấn công 2 và
làm mất khả năng chống cự lại chúng. Ví dụ: Nguyễn Văn X dùng tay bóp cổ chị
H để chiếm đoạt sợi dây chuyền vàng và đôi hoa tai của chị H trong lúc đang nằm
ngủ. Tuy chị H bị X bóp cổ nhưng không đáng kể để lại thương tích, cũng không
ảnh hưởng đến sức khỏe và không có tỷ lệ thương tật, nhưng hành vi của X vẫn
được coi là hành vi dùng vũ lực.
Nói chung, người phạm tội dùng vũ lực chủ yếu đối với người có trách nhiệm
về tài sản. Tuy nhiên, cũng không loại trừ trường hợp người phạm tội dùng vũ lực
đối với bất cứ người nào mà người phạm tội cho rằng họ sẽ cản trở việc thực hiện
tội cướp mà người phạm tội thực hiện. Người có trách nhiệm về tài sản có thể có
mặt tại nơi xảy ra vụ cướp, nhưng cũng có thể không có mặt ở nơi xảy ra vụ cướp
tài sản, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cướp tài sản.
Ví dụ: Đặng Văn K, Nguyễn Bảo B và Đỗ Ngọc H bàn bạc vào kho của Công ty
vật tư thương mại khống chế thủ kho để chiếm đoạt hàng hóa trong kho. Khi đi K
mang theo một khẩu súng K54, B mang theo một dao găm, còn H lái xe để chở tài
sản cướp được. Khi đến nơi, chúng không gặp thủ kho, nên đã phá khóa vào kho,
cùng lấy tài sản ra xe do H lái. Trong lúc chúng đang lấy tài sản lên xe thì thấy có
hai người lái xe máy qua, sợ bị phát hiện K đã dùng súng bắn về phía hai người đi
xe máy làm hai người này sợ hãi phải quay xe chạy. Sau đó, chúng tiếp tục lấy
thêm một số tài sản rồi tẩu thoát. Trong trường hợp này, tuy K, B, và H không trực
tiếp dùng vũ lực với người có trách nhiệm về tài sản và người có trách nhiệm tài
2
Người bị tấn công ở đây có thể là chủ tài sản, là người có trách nhiệm quản lý hay bảo vệ tài sản nhưng cũng có thể là
người mà người phạm tội cho rằng người này đã hoặc có khả năng sẽ ngăn cản việc chiếm đoạt của mình.
18
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
sản về tài sản cũng không có ở nơi xảy ra vụ án, nhưng hành vi của các bị cáo bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Cướp tài sản, vì chúng đã có hành vi dùng vũ
lực với người mà chúng cho rằng cản trở việc thực hiện tội phạm của chúng.
Đối với những vụ cướp có nhiều người cùng tham gia (đồng phạm), không
nhất thiết tất cả những người tham gia đều dùng vũ lực, mà chỉ cần một hoặc một
số người dùng vũ lực, còn những người khác có thể không dùng vũ lực hoặc chỉ đe
dọa dùng dùng vũ lực, nhưng tất cả những người cùng tham gia đều bị coi là dùng
vũ lực. Ví du: Nguyễn Văn M. Trần Thanh V và Bùi Văn D rủ nhau chặn đường
để cướp máy Khi anh Đỗ Bảo Q là người chạy xe ôm đi qua, V và D đến giả vờ
hỏi anh Q, còn M dùng thanh sắt mang theo đánh mạnh vào đầu anh Q rồi cả bọn
chúng cướp xe bỏ chạy. Mặc dù, chỉ một mình M có hành vi dùng vũ lực, nhưng
hành vi của V và D cũng bị coi là hành vi dùng vũ lực, cả M, V và D đều phạm tội
Cướp tài sản với vai trò cùng là người thực hành. Về mặt lý luận cũng như thực
tiễn xét xử, gặp phải trường hợp này, nhiều người cho rằng chỉ có M là người thực
hành còn V và D chỉ là người giúp sức.
Bằng hành vi tấn công, người phạm tội làm tê liệt ý chí phản kháng của nạn
nhân, tức là làm cho khả năng thực tế của sự chống cự không thể xảy ra như: đâm
bị thương nặng nạn nhân, trói nạn nhân… Hoặc nạn nhân có thể chống cự nhưng
không đạt kết quả. Vì vậy, trường hợp hành vi sử dụng vũ lực của người phạm tội
không có ý định và không đến mức làm tê liệt ý chí phản kháng của nạn nhân
nhằm chiếm đoạt tài sản sẽ không cấu thành tội Cướp tài sản mà cấu thành những
tội khác. Đây là căn cứ quan trọng để phân biệt dấu hiệu “dùng vũ lực” ở tội Cướp
tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác.
Hành vi dùng vũ lực tấn công nạn nhân ở tội Cướp tài sản có thể gây ra
thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của họ đến mức phải chịu trách nhiệm
hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngườc khác
(Điều 104 BLHS 1999) nhưng cũng chỉ cấu thành tội Cướp tài sản. Hành vi gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác bị thu hút vào cấu thành
tội Cướp tài sản theo nguyên tắc thu hút tội phạm Nguyễn Ngọc Hòa, Luật hình sự
Việt nam. Những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB CAND, HN, 1997 ). Trong
trường hợp hành vi tấn công của người phạm tội làm nạn nhân chết thì người
người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hai tội: “tội Giết người”
Điều 93 BLHS 1999 và “tội Cướp tài sản” Điều 133 BLHS 1999.
19
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Việc dùng vũ lực là nhằm mục đích làm mất khả năng chống cự để cướp tài
sản và được thực hiện ở cả hai phương thức: bí mật và công khai (ví dụ: đánh sau
gáy, bắn lén lút,.. hoặc công nhiên để cho người bị tấn công biết, bất luận có người
biết hay không).
Hành vi đe dọa dùng ngay tức khắc là đe dọa dùng ngay tức thì sức mạnh
vật chất như nói trên bị tấn công không chịu khuất phục. Đây trường hợp người
phạm tội thể hiện bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ (hoặc cả hai) nhằm đe dọa người
bị hại rằng nếu không đưa tài sản thì sẽ sử dụng vũ lực ngay tức khắc nếu chống
cự lại việc chiếm đoạt. Vũ lực đe dọa sẽ thực hiện có thể nhằm vào chính người bị
đe dọa nhưng cũng có thể nhằm vào người khác có quan hệ thân thuộc với người
bị đe dọa (ví dụ: Dọa thủ kho nếu chống cự sẽ giết con của người đó, bằng sự đe
dọa qua lời nói hoặc cử chỉ như dí dao vào lưng, cổ bảo vệ ra hiệu đưa chìa khóa),
người phạm tội có thể khống chế được ý chí của người bị tấn công. Mức độ khống
chế này phụ thuộc trước hết vào tính chất của sự đe dọa. Nói cách khác, hành vi đe
dọa dùng vũ lực phải ở mức độ làm tê liệt ý chí phản kháng của người bị đe dọa
mới cấu thành tội Cướp tài sản. Đây là dấu hiệu quan trọng để phân biệt hành vi
đe dọa dùng vũ lực ở tội Cướp với các tội xâm phạm sở hữu khác, như tội Cướp
giật tài sản (ví dụ: T vừa lĩnh tiền 50 triệu đồng tiền gửi ngân hàng, đi ra đến
đường quốc lộ thì bị K dùng dao dí vào cổ T và yêu cầu T đưa tiền, nếu không đưa
thì K sẽ đâm. Ngay lúc đó quần chúng nhân dân chạy tới bắt giữ K.). Việc xác
định mức độ của hành vi đe dọa sử dụng vũ lực phải dựa vào các căn cứ khách
quan, chủ quan của sự việc và phải có sự đánh giá tổng hợp, biện chứng các căn
cứ đó.
Việc xác định vũ lực có được dùng ngay tức khắc hay không sau lời đe dọa là
một vấn đề xác định rất khó. Dấu hiệu “ngay tức khắc”, ở đây có ý nghĩa rất quan
trọng để phân biệt hành vi đe dọa dùng vũ lực ở tội Cướp tài sản với hành vi đe
dọa (sẽ) dùng vũ lực ở tội cưỡng đoạt tài sản. Dấu hiệu này vừa dùng để chỉ sự
nhanh chóng về mặt thời gian (sẽ xảy ra ngay lập tức) và vừa dùng để chỉ sự mãnh
liệt của hành vi đe dọa. Hành vi đe dọa dũng vũ lực 3 ở đây có tính chất mãnh liệt
là làm cho người bị đe dọa thấy rằng vũ lực sẽ xảy ra ngay, họ không hoặc khó có
điều kiện tránh khỏi. Tuy nhiên, vì vũ lực chưa xảy ra nên việc đánh giá người
3
Để đánh giá hành vi đe dọa dùng vũ lực có tính chất như vậy hay không và qua đó khẳng định có phải là cướp tài sản
hay không, cần dựa vào những tình tiết sau: Nội dung và hình thức của hành vi đe dạo (dọa làm gi? Thái độ dọa ra
sao?); Sự tương quan giữa người đe dọa và người bị đe dọa; hoàn cảnh không gian và thời gian; Tình tình trật tự xã hội
nơi xảy ra hành vi phạm tội…
20
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
phạm tội có dùng vũ lực hay không, trong trường người bị hại không giao tài sản
lại là một vấn đề phức tạp. Thông thường người phạm tội không bao giờ nhận là sẽ
dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người bị hại không giao tài sản hoặc không để
người phạm tội lấy tài sản.
Vì vậy, để xác định trường hợp người phạm tội đe dọa dung vũ lực ngay tức
khắc hay không, ngoài lời khai của người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng
còn phải cần tổng hợp các tình tiết liên quan đến vụ án, kể trạng thái tâm lý của
nạn nhân lúc xảy ra vụ án như: không gian, thời gian, hoàn cảnh lúc xảy ra vụ
việc; công cụ phương tiện phạm tội người phạm tội sử dụng… Ví dụ: Trong một
đêm tối, trên một đoạn đường vắng, một người dùng dao dí vào cổ người, yêu cầu
người này phải giao tài sản cho mình, nếu không sẽ giết. Ngay tức lúc đó có tổ
tuần tra phát hiện nên bắt được người phạm tội. Trong trường hợp này dù người
phạm tội có khai rằng chỉ có ý định dọa chứ không có ý định dùng vũ lực với
người bị hại thì cũng không có căn cứ để tin lời khai của người phạm tội là đúng,
mà trường hợp này phải xác định người phạm tội đe dọa dùng vũ lực ngay tức
khắc.
Dấu hiệu ngay tức khắc chỉ đòi hỏi người phạm tội đã có hành vi, cử chỉ, thái
độ thể hiện ra bên ngoài là sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc mà không đòi hỏi họ phải
thực sự có ý định sẽ dùng vũ lực ngay tức khắc cũng như phải có đủ điều kiện để
dùng vũ lực ngay tức khắc. Như vậy, những trường hợp chỉ làm ra vẻ dùng vũ lực
ngay tức khắc nhưng không có ý định hoặc không có điều kiện dùng vũ lực ngay
tức khắc cũng bị coi là cướp tài sản (ví du: Dùng súng giả dọa sẽ bắn chết ngay).
Các hành vi khác là những hành vi không phải dùng vũ lực và đe dọa dùng
vũ lực ngay tức khắc mà là những hành vi khác làm tê liệt ý chí phản kháng hoặc
không còn khả năng phản kháng ở nạn nhân nhằm chiếm đoạt tài sản. Loại hành vi
này rất đa dạng trong đời sống xã hội như: dùng thuốc mê, etê, thuốc ngủ, chất
kích thích, v.v… làm cho nạn nhân lâm vào trạng thái hôn mê, không còn khả
năng chống cự. Vì vậy được coi là cùng tính chất với hành vi dùng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng ngay tức khắc vũ lực và là dấu hiệu khách quan của tội Cướp tài sản.
Lâm vào tình trạng không thể chống cự được của người bị tấn công được
hiểu là kẻ tấn công dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người không có biện pháp nào để chống cự lại được (ví dụ:
Trong trường hợp người bị tấn công bị trói cả chân tay, bị nhét giẻ vào miệng nên
21
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
không thể nào kêu cứu được, bị nhốt trong nhà kiên cố và khóa chặt mà không có
cách nào để thoát ra được,…) hoặc làm người bị tấn công mê man, bất tỉnh trong
một thời gian nhất định.
Mục đích của việc dùng vũ lực, đe dọa ngay tức khắc vũ lực hoặc tiến hành
các hành vi khác là để chiếm đoạt tài sản. Các hành vi nói trên thường xảy ra trước
hoặc cùng thời điểm với hành vi chiếm đoạt tài sản. Khi kẻ tấn công tiến hành một
trong các hành vi nói trên tức đã xâm hại tới nhân thân người bị tấn công, điều đó
có nghĩa là đã xâm phạm tới một trong hai khách thể trực tiếp của tội danh này.
Tội cướp tài sản có cấu thành hình thức, theo quy định của Điều 133 BLHS. Vì
thế, tội phạm được xem là hoàn thành khi người phạm tội có một trong những
hành vi vừa phân tích trên và làm cho nạn nhân “lâm vào tình trạng không thể
chống cự được” nhằm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, ngoài những trường hợp Tội
cướp tài sản có cấu thành hình thức được thực hiện bằng hành vi dùng vũ lực hoặc
hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc, nhưng đối với trường hợp bằng hành vi
khác thì Tội cướp tài sản không hẳn là tội phạm có cấu thành hình thức.
Ví dụ: A muốn chiếm đoạt tài sản của B bằng cách bỏ thuốc mê vào cốc
nước uống với ý thức sau khi uống, B sẽ bị mê không biết gi nữa, A sẽ gỡ dây
chuyền vàng, nhẫn vàng, đồng hồ của B, nhưng B phát hiện trong nước có mùi lạ
nên không uống. Do đó, A không chiếm đoạt tài sản của B. Trong trường hợp này,
A đã thực hiện hết các hành vi khách quan của cấu thành tội phạm, nhưng hậu quả
không xảy ra ngoài ý thức chủ quan của A. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử,
nếu coi trường hợp phạm tội này là tội phạm đã hoàn thành rõ ràng không phù hợp
với lý luận về các giai đoạn thực hiện tội phạm mà phải xác định là phạm tội chưa
đạt. Theo quy định tại Điều 5 BLHS 1999, việc xác định thời điểm hoàn thành của
tội phạm có một ý nghĩa rất quan trọng trong việc quyết định hình phạt (khoản 3
Điều 52 BLHS 1999).
Việc nhà làm luật đưa vào cấu thành tội Cướp tài sản dấu hiệu “có hành vi
khác” đã làm cho việc xác định thời điểm trái ngược nhau. Có ý kiến vẫn cho
rằng, dù có đưa thêm vào cấu thành dấu hiệu mới (so Bộ luật hình sự 1985) cũng
không làm thay đổi bản chất của tội Cướp tài sản, nên tội Cướp tài sản không có
giai đoạn phạm tội chưa đạt, mà chỉ có giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội
hoàn thành. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, do nhà làm luật thêm vào dấu
hiệu “có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
22
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản” nên tội Cướp tài sản vừa là tội có cấu
thành hình thức, vừa có cấu thành vật chất. Nếu người phạm tội “dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” thì Tội cướp tài sản là tội phạm có cấu
thành hình thức; còn nếu người phạm tội “có hành vi khác làm người khác bị tấn
công lâm vào trạng thái không chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản” thì tội
Cướp tài sản có cấu thành vật chất và như vậy tội Cướp tài sản có giai đoạn phạm
tội chưa đạt, đó là trong trường hợp người đã thực hiện hết các hành vi thuộc mặt
khách quan của cấu thành nhưng vì lý do khách quan nên tội phạm vẫn không xảy
ra theo ý muốn của người phạm tội.
Việc chiếm đoạt được tài sản không phải là dấu hiệu định tội và cũng không
là dấu hiệu để xác định thời điểm hoàn thành của tội Cướp tài sản, bất kể người
phạm tội có chiếm được tài sản hay không.
Ví dụ: Trong trường hợp tên cướp hóa trang và dùng súng đe dọa người thủ
quỹ và bắt phải mở kép sắt để cho y lấy tiền, song và phát hiện có người lạ xuất
hiện nên y đã bỏ chạy mà chưa lấy được tiền, ở đây tội cướp tài sản đã hoàn thành,
chứ không phải là tự ý nữa chừng chấm dứt tội phạm theo Điều 19 BLHS . Cũng
được coi là cướp tài sản, nếu thủ phạm đã sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực
ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng
không thể chống cự được nhằm mục đích giữ bằng được tài sản mà y vừa lấy
được. Ví dụ khác, tên trộm đột nhập vào phòng kế toán của một doanh nghiệp Nhà
nước, cậy kép sắt và lấy đi toàn bộ tiền trong đó, khi bị người bảo vệ phát hiện và
y đã rút dao đe dọa người bảo vệ nhằm cố ý giữ bằng được tài sản vừa lấy được.
Hậu quả của tội phạm
Đối với tội Cướp tài sản, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu
thành. Hậu quả của tội phạm chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình
tiết để xem xét khi quyết định hình phạt.
Do khách thể của tội Cướp tài sản là hai quan hệ xã hội (quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân) nên tội này được gọi là tội ghép và do đó hậu quả của tội này
có thể là thiệt hại về tài sản nhưng cũng có thể là những thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A dùng dao đâm B bị thương để cướp xe máy
của B, trong trường hựop này, hậu quả do A gây ra cho B vừa là tài sản (chiếc xe
máy) và là sức khỏe (B bị thương tích). Cũng có trường hợp thiệt hại gây ra vừa là
tài sản vừa là danh dự, nhân phẩm. Ví dụ: A có ý định chiếm đoạt chiếc dây
23
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
chuyền vàng của chị K, A đã nấp trong bụi cây chờ chị K đi qua, A lao ra ôm vật
chị K và giật sợi dây chuyền vàng trên cổ của chị K. Trong lúc vật lộn, A đã xé
rách áo ngoài, áo lót của chị K. làm chị H phải ở trần chạy về trước sự chứng kiến
của nhiều người.
Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về tính mạng thì cần phân biệt hai trường hợp:
trường hợp người phạm tội giết chết người nhằm chiếm đaọt tài sản thì người
phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người và Tội cướp tài sản,
nhưng người mà chỉ có ý định cướp tài sản nhưng chẳng may người bị hại bị chết
thì người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản
với tình tiết làm chết người. Tuy nhiên, nếu sau khi đã cướp tài sản bị đuổi bắt mà
người phạm tội giết người để tẩu thoát thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
Tội giết người.
Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội chỉ bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về Tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tật từ 11% trở
lên.
Nếu hậu quả xảy ra là thiệt hại về nhân phẩm, danh dự mà hànhvi xâm phạm
của người tội không có liên quan gì đến mục đích chiếm đoạt thì người phạm tội
Cướp tài sản, người phạm tội còn bị truy cứu về các tội phạm tương ứng với hành
vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Ví du: A, B, C bàn bạc đón đường, nếu ai đi xe
máy qua sẽ cướp xe. Khi thấy chi K đi xe máy qua, chúng chặn xe rút dao găm ra
đe dọa buộc chi K phải giao xe cho chúng. Sau khi cướp được xe, B và C lấy xe
chở nhau bỏ chạy, còn A ở lại dùng dao khống chế chi K để B và C chạy thoát.
Trong khi khống chế chị K, A nảy sinh ý định giao cấu với chị K nên A buộc chi
K phải cho A giao cấu nếu không A sẽ giết. Do quá sợ hãi chị K buộc phải để cho
A giao cấu.
2.2.3. Mặt chủ quan của tội cướp tài sản
Tội cướp tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có bất kỳ hành vi nào khác làm tê
liệt hoặc khả năng chống cự của nạn nhân là nguy hiểm cho xã hội, là phạm tội
nhưng thực hiện với mong muốn chiếm đoạt được tài sản của họ.
Mục đích vụ lợi (nhằm chiếm đoạt tài sản) là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm
này. Bên cạnh đó, mục đích giữ tài sản vừa chiếm đoạt cũng đựợc coi là dạng đực
24
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
biệt của mục đích chiếm đoạt. Đây là trường hợp người phạm tội đã chiếm đoạt
được tài sản bằng thủ đoạn không phải cướp như bằng thủ đoạn trộm cắp, cướp
giật,… nhưng ngay sau đó đã bi phát hiện; người phạm tội đã tấn công lại người
ngăn cản (bằng những thủ đoạn của tội cướp) nhằm chiếm giữ bằng được tài sản
vừa chiếm đoạt trước đó. Đây là dấu hiệu để phân biệt tội Cướp tài sản với các tội
khác có quy định những hành vi tương tự trong Bộ luật hình sự như: Tội hiếp dâm
(Điều 111 BLHS)…
Thực tiễn xét xử từ trước đến nay coi trường hợp này là trường hợp chuyển
hóa từ một số hình thức chiếm đoạt tài sản thành cướp 4. Nếu có hành vi mà không
có mục đích “chiếm đoạt tài sản” thì không cấu thành tội cướp tài sản. Vì thế,
mục đích “chiếm đoạt tài sản” phải có trước hành vi dùng vũ lực, đe dọa vũ lực
ngay tức khắc hoặc bất kỳ hành vi nào khác thì mới cấu thành tội cướp tài sản.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thường xác định những hành vi tấn công nạn
nhân (vì mục đích trả thù, đánh ghen,…), nhưng sau đó thấy tài sản của nạn nhân
để lại nên phát sinh ý định chiếm đoạt là tội Cướp tài sản. Việc định tội thế này là
không chính xác. Theo người viết, trước hết chúng ta cần xác định các tội phạm
tương ứng với hành vi hành vi dùng vũ lực, sau đó, tùy trường hợp có thể định
thêm tội xâm phạm quan hệ sở hữu như tội: Công nhiên chiếm đoạt tài sản, Chiếm
giữ tài sản trái phép,…
2.2.4. Mặt chủ thể của tội cướp tài sản
Chủ thể của tội Cướp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có năng
lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định.
Người phạm tội Cướp tài sản phải là người từ đủ 14 tuổi trở lên và khi thực
hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tội cướp tài sản quy
định tại Điều 133 BLHS 1999 là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do lỗi cố ý và theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 thì người từ đủ
14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng do lỗi cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2.3. Trách nhiệm hình sự tội cướp tài sản sản trong Luật hình sự Việt
nam hiện hành.
4
Nghị quyết số 01 – 89/HĐTP ngày 19/04/1989 của Hội đồng thảm phán TANDTC và Thông tư số 02/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001
25