DÂN TỘC SÁN DÌU
Mục Lục
I. Đặc điểm chung
II. Hoạt động kinh tế
III. Văn hóa vật chất
IV. Văn hóa tinh thần
V. Tổ chức xã hội
VI. Phong tục tập quán
1. Đặc điểm chung
• Dân tộc Sán Dìu là một dân tộc ít người, sinh
•
•
sống ở miền trung du của một số tỉnh miền Bắc
Việt Nam như: tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc,
Bắc Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang (tổng
cộng khoảng 97 %).
Các tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán
quần cộc, Mán váy xẻ. Dân tộc này thuộc về
nhóm ngôn ngữ Hoa với dân số khoảng 126.237
người.
Tiếng nói của người Sán Dìu thuộc hệ ngôn ngữ
Hán – Tạng, nhưng hiện tượng song ngữ và đa
ngữ đang dần dần phát triển.
2. Hoạt động kinh tế
2.1. Nông nghiệp
•
•
•
•
Người Sán Dìu có truyền thống làm ruộng nước.
Người Sán dìu còn giỏi khai hoang tạo sườn đồi, soi, bãi
thành nương. Trên các soi, bãi chủ yếu trồng ngô và các
loại rau, khoai, đỗ, mía, lạc, bầu, bí… Ở đây, việc trồng
xen canh gối vụ đã được đặc biệt chú ý, đất không lúc
nào nghỉ.
Người Sán Dìu đã biết khai thác và tận dụng nhiều
nguồn phân khác nhau: phân chuồng, phân hun, phân
xanh, phân tươi, bùn ao, hồ, và cả phân bắc nữa.
Thực tế cho thấy, sau khi đã được tu bổ, cấy trồng
thành thục, một số nương đồi và soi bãi trở thành các
triền ruộng bậc thang cấy lúa nước, đại bộ phận còn lại
thành thứ ruộng khô để trồng màu.
2.2. Thủ công
•
Người Sán Dìu có khai thác gỗ, tre, nứa để phục vụ cho nghề đan
lát và nghề mộc. Ngoài ra họ còn tự sản xuất ra muối (Quảng
Ninh), rèn sắt, đóng gạch, làm ngói. Một số địa phương còn trồng
dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, và trồng chàm để nhuộm.
2.3. Săn bắt và hái lượm
•
Người Sán Dìu thường tổ chức săn bắt vào những lúc nông nhàn.
Họ đánh cá sông, biển, thả cá ao hồ.
2.4. Trao đổi hàng hóa
•
Người Sán Dìu chưa có tầng lớp thương nhân, nên mọi hoạt động
trao đổi, mua bán chỉ xảy ra giữa những người dân bản xứ với
nhau.
3. Văn hóa vật chất
3.1. Làng xóm và khuôn viên
•
Người Sán Dìu sống thành từng làng, từng xóm dưới
chân đồi, hay trên các con gò thấp bên cạnh các cánh
đồng, xung quanh làng có lũy tre bao bọc chẳng khác
gì làng xóm người Việt.
•
Cách bố trí nhà cửa, vườn tược trong khuôn viên đã
theo công thức V.A.C như người Việt.
•
Cách bố trí nhà
cửa, vườn tược
trong khuôn viên
của người Sán Dìu
theo công thức
V.A.C ở xã Đạo
Trà, huyện Tam
Đảo, Vĩnh Phúc.
3.2. Nhà cửa
•
Kiểu nhà phổ biến của người Sán Dìu hiện nay là một
kiểu rất phổ biến của dân ở đông và đông- bắc Bắc
Bộ.
•
Kết cấu vì kèo rất đơn giản, mỗi vì kèo có ba cột. Ba
cột được liên kết nhau băng một quá giang. Để mở
rông lòng nhà, người ta thêm hai cột nữa để trở thành
vì năm cột.
•
Vì kèo ba cột mở rộng thành kiểu vì kèo năm cột của người Sán Dìu.
Ví dụ 1:
•
Nhà của người Sán Dìu ở Đông Hỉ,Bắc Thái: Bộ khung
nhà này cũng rất đơn giản,vì kèo 3 cột được mở rộng
bằng cách thêm 2 cột phụ. Mái lợp tranh,xung quanh
nhà che bằng vách đất (xương bằng tre vắt rơm trộn
với bùn). Có 1 cửa ra vào ở gian chính giữa và 2 cửa
sổ ở 2 bên. Nhà 3 gian, gian giữa giáp vách hâụ có bàn
thờ tổ tiên đặt trên 1 sàn thấp. Gian hồi bên phải có
vách ngăn với gian giữa,bên trong có 2 giường dành
cho vợ chồng chủ nhà. Gian buồng bên trái có 1 bộ
phản gỗ dành cho khách.
Ví dụ 2:
•
Nhà của người Sán
Dìu ở huyện Cẩm
Phả,Quảng Ninh: Nhà
xây bằng gạch không
có vì kèo
•
Mặt bằng sinh hoạt nhà người
SD ở Cẩm Phả - Quảng Ninh
3.3. Trang phục
•
Trang phục của đàn ông
Sán Dìu đơn giản, mộc
mạc hơn nhưng vẫn toát
lên vẻ đẹp khoẻ khoắn,
mạnh mẽ. Áo có màu
chàm, được may theo
kiểu bà ba, có hai túi rộng,
quần dài, cạp chun, ống
quần rất rộng để thuận lợi
cho việc leo núi, đồi.
• Bộ nữ phục gồm khăn đội đầu, áo dài, áo
ngắn, váy, dây lưng, xà cạp. Đó là loại áo
4 thân, cổ cao, nẹp trơn không đơm khuy,
bên trong nẹp đáp thêm dải vải màu trắng
để khi mặc thì lộn ra ngoài.
• Có lẽ độc đáo hơn cả là chiếc váy nhiều mảnh
•
•
•
của phụ nữ Sán Dìu.
Mặc loại váy này gây nhiều bất tiện cho phụ nữ.
Sinh sống gần người Kinh, phụ nữ Sán Dìu từ
lâu đã học kiểu vấn tóc và chít khăn màu đen
như phụ nữ Kinh. Người Sán Dìu, cũng có thói
quen ít dùng đồ trang sức.
Có một thứ vật tùy thân, nhưng cũng là vật trang
trí của phụ nữ Sán Dìu đó là chiếc túi đựng trầu.
Hình ảnh về trang phục
3.4. Ẩm thực
•
•
Người Sán Dìu ăn gạo tẻ, họ ăn cả cơm lẫn cháo. Đồ giải
khát thường là nước cháo loãng, ngoài ra họ còn uống
rượu trong sinh hoạt hàng ngày.
Trong lễ tết, trong những dịp đặc biệt, hay thờ cúng
thường có xôi, như: xôi vàng với quả dành dành, xôi xanh
với nhiều loại lá rừng đặc sản, xôi tím với quả khoé, xôi đỏ
với quả gấc, xôi hồng với quả rôm,... Đặc biệt xôi đen với lá
cây xau xau.
•
Xôi đen
•
Ngoài ra trong những dịp lễ tết người Sán Dìu thường
có bánh tro và bánh chưng. (Bánh tro được làm từ tro
đốt của lá của cây Rôông-dịu).
Bánh tro
Bánh chưng
3.5. Phương tiện vận chuyển
•
Trước đây phương tiện vận chuyển thiếu thốn nên
người Sán Dìu thường dùng chiếc xe quệt.
•
Xe quệt cấu tạo rất đơn giản toàn bằng tre, gỗ, một đầu
hơi nâng lên bởi hai càng quệt do một trâu kéo. Nó có
thể sử dụng trên mọi địa hình.
•
Hiện nay, bên cạnh chiếc xe quệt, các loại xe quệt, các
loại xe cải tiến gọn nhẹ, nhẹ có nhiều khả năng cơ động,
đang phát triển mạnh.
4. Văn hóa tinh thần
4.1. Tôn giáo
• Một số bộ phận người Sán Dìu theo Phật giáo. Họ
thờ cúng Phật Bà Quan âm.
4.2. Tín ngưỡng
• Ngoài việc thờ phụng tổ tiên, cả làng còn lập miếu
thờ thổ thần, lập đình thờ thành hoàng phù hộ cho
mùa màng được phong đăng hòa cốc.
• Người Sán Dìu có tục, một khi có đứa trẻ nào bị
còi cọc ốm đau luôn, người ta thường thay tên đổi
họ (tục gọi là bán tên bán họ).
4.3. Lễ hội
• Lễ hội của người Sán Dìu rất ít. Lễ hội lớn
là lễ hội Đại Phan hay còn gọi là lễ hội
Cầu Mùa. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân lễ hội đã mai một.
4.4. Lễ tết
•
Hàng năm, người Sán Dìu cũng có những ngày tết như
các dân tộc anh em. Nhưng đặc biệt đối với một số
ngày tết lại theo một quan niệm riêng của họ. Như 5/5,
14/7. Đó là quan niệm còn khá sâu sắc của đồng bào.
•
Tết Đông chỉ là cái tết tạm chia tay giữa chủ và thợ. Cái
tết có ý nghĩa xây dựng lại duyên phận “cưới lại vợ
mới” mong sinh đông con nhiều cháu, vợ chồng sống
thuận hòa, hạnh phúc gia đình.
4.5. Văn học và nghệ thuật
•
Người Sán Dìu có một vốn văn học dân gian khá phong
phú. Về nhạc cụ có tù và, kèn, sáo. Về vũ có các điệu múa
đặc sắc. Về họa và khắc, có những người biết vẽ và khắc
tranh, tượng...
•
Chiếm một vị trí quan trọng trong nền thơ ca dân gian của
người Sán Dìu là tình ca, mà người Sán Dìu gọi là “soọng
cô”. Đó là tục hát ví giữa thanh niên nam nữ.
•
Ngoài ra, còn có truyện kể, thơ ngụ ngôn, ca dao, tục
ngữ, câu đối… rất phong phú.
Hình ảnh lễ hát soọng cô
5. Tổ chức xã hội
5.1. Quy chế làng bản
• Trước kia, xã hội người Sán Dìu có sự phân hóa giai cấp
khá rõ. Ngày nay, người Sán Dìu đã thực sự làm chủ vận
mệnh của mình.
5.2. Dòng họ
• Các dòng họ người Sán Dìu là Lý, Trần, Trương, Nịnh,
Từ, Lê, Diệp, Tạ... Khi gặp nhau mà cùng họ và cùng hệ
thống tên đệm, mà phân thứ bậc. Còn những người sinh
ra ở cùng một thế hệ thì ai lớn tuổi hơn là anh chị là chị,
chứ không phân biệt con chú, con bác.
5.3. Tổ chức gia đình
• Trong nhà, người chồng (cha) là chủ gia
đình, con theo họ cha, con trai được thừa
hưởng gia tài, cha mẹ quyết định việc
cưới gả con cho con. Con trai con gái phải
được xem số, so tuổi trước khi nên duyên
vợ chồng.