Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tổng quan dân tộc Sán Díu (PDF,Word)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 20 trang )

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU
MỤC LỤC:
1.

Vài Nét Về Dân Tộc Sán Dìu ................................................................................................ 2

2.

Kinh Tế Truyền Thống ......................................................................................................... 2

3.

2.1.

Trồng trọt.......................................................................................................................... 2

2.2.

Chăn nuôi ......................................................................................................................... 4

2.3.

Khai thác tự nhiên ............................................................................................................ 4

2.4.

Ngành nghề thủ công........................................................................................................ 5

2.5.



Trao đổi, mua bán............................................................................................................. 6

Văn hoá truyền thống ............................................................................................................ 6
3.1.

Làng .................................................................................................................................. 6

3.2.

Nhà ở ................................................................................................................................ 8

3.3.

Y phục, trang sức ............................................................................................................. 9

3.4.

Ẩm thực .......................................................................................................................... 10

3.5.

Phương tiện vận chuyển ................................................................................................. 11

3.6.

Ngôn ngữ ........................................................................................................................ 11

3.7.


Tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội ............................................................................................ 11

3.8.

Lễ hội.............................................................................................................................. 13

3.9.

Văn hóa xã hội................................................................................................................ 14

3.10.

Tục lệ cưới xin ............................................................................................................ 14

3.11.

Tập quán tang ma ....................................................................................................... 18

3.12.

Văn nghệ dân gian ...................................................................................................... 19

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 1 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

1. Vài Nét Về Dân Tộc Sán Dìu
Dân số : 146.821 người (2009)
Ngôn Ngữ: Người Sán Dìu nói thổ ngữ Hán

Quảng Ðông (ngữ hệ Hán - Tạng)
Tên gọi khác: Sán Déo, Trại, Trại Đất, Mán quần
cộc, Mán Váy xẻ...
Nhóm địa phương: Mán.
Địa bàn cư trú: Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Hải Dương,
Đồng Nai, Hà Nội, Lâm Đồng, Đắk Nông

Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Sán Dìu ở Việt Nam có dân
số 146.821 người, có mặt tại 56 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Sán Dìu
cư trú tập trung tại các tỉnh: Thái Nguyên (44.131 người, chiếm 30,1% tổng số
người Sán Dìu tại Việt Nam), Vĩnh Phúc (36.821 người, chiếm 25,1% tổng số
người Sán Dìu tại Việt Nam), Bắc Giang (27.283 người), Quảng Ninh (17.946
người), Tuyên Quang (12.565 người), Hải Dương (1.872 người), Đồng Nai (850
người), Hà Nội (832 người), Lâm Đồng (662 người), Đắk Nông (617 người).

2. Kinh Tế Truyền Thống
2.1. Trồng trọt
Người Sán Dìu sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt. Trong trồng trọt, đồng bào trồng
trọt lúa nước, vừa trồng trọt khô cạn - nương. Đồng bào trồng trọt một cách thành thạo,
đạt đỉnh cao của kỹ thuật thủ công trong sản xuất nông nghiệp.
Đồng bào Sán Dìn chia đất canh tác ra làm 5 loại: ruộng lầy thụt -

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 2 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

phang then; ruộng nước - tày then;

ruộng bậc thang - cao then; bãi phô; nương - xoe.
Ruộng lầy thụt là những chân ruộng
ở thung lũng hẹp.Ruộng luôn có
nước quanh năm; đất mộng rất màu
mỡ, do chất mùn trôi từ trên đồi
xuống mỗi lần mưa. Kỹ thuật làm
đất cho loại ruộng này là không cày,
bừa, mà chỉ dùng cuốc lật đất lên,
lộn cỏ xuống dưới hoặc dùng trâu
quần cho đất nhuyễn, rồi cấy. Với loại

Sử dụng trâu để cày bừa (Ảnh minh họa)

ruộng lầy thụt, người Sán Dìu thường
cấy lúa nếp và làm hai vụ. Ruộng nước là những chân ruộng ở các thung lũng lớn, tương
đối bằng phẳng.Với loại ruộng này, người Sán Dìu dùng kỳ thuật cày, bừa để làm đất;
thường cấy lúa tẻ và cấy một vụ / năm. Ruộng bậc thang là ruộng được khai khẩn trên các
quả đồi thấp, độ dốc thoai thoải. Đặc điểm của loại ruộng này là có chiều ngang của thửa
ruộng hẹp, chiều dài thường khá dài.Với loại ruộng này, kỹ thuật làm đất là kỹ thuật cày,
bừa dùng sức trâu, bò. Loại ruộng bậc thang thường được cấy lúa nước một vụ là vụ hè
thu, cấy lúa sớm; vụ còn lại người Sán Dìu thường trồng lạc, đỗ tương. Bãi là nơi đất
bằng phẳng ven sông, suối, rất thuận tiện cho trồng trọt cây lương thực, cây hoa màu.
Đặc điểm của đất bãi là đất tơi xốp, nhiều màu mỡ. Do đó trên đất bãi, đồng bào hay
trồng luân canh, xen canh các loại cây lương thực (ngô), cây hoa màu như: khoai, sắn,
cây đỗ tương, cây lạc, củ từ, củ mỡ, mía,.,.Nương là nơi đất đồi có độ dốc khá lớn, được
đồng bào khai khẩn thành nương bậc thang để trồng trọt khô cạn. Nương thường được
người Sán Dìu khai thác để trồng ngô, khoai, sắn, vừng, bông.
Với việc trồng trọt nói chung và trồng trọt cây lúa, cây ngô nói riêng, việc chọn đúng thời
vụ là rất quan trọng. Người Sán Dìu cũng như nhiều dân tộc khác sinh sống cùng địa
phương, chọn thời vụ sản xuất vào thời điểm khi cây hoang dại rụng lá vào mùa đông bắt

đầu mọc lá non vào mùa xuân. Mùa xuân, khi cây hoang dại rụng lá vào mùa đông, đâm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 3 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

chồi nảy lộc là thời điểm mà người Sán Dìu tiến hành gieo trồng các loại cây lương thực,
thực phẩm.
Người Sán Dìu thành thạo sử dụng phân bón cho cây trổng. Phân đồng bào dùng là phân
chuồng: phân trâu, phân bò, phân lợn. Phân chuồng được dùng để bón lót và bón đón
đòng.
2.2. Chăn nuôi
Trong nông nghiệp, bên cạnh trồng trọt,
chăn nuôi có vai trò rất quan trọng.
Trong chăn nuôi, người Sán Dìu chú
trọng chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà và chó,
mèo... Người Sán Dìu nuôi trâu, bò để
kéo cày, để bán. lấy phân bón
cho cây lúa, cây ngô, khoai, sắn. Tuy
nhiên con trâu được đồng bào nuôi nhiều
hơn cả, một mặt, bởi vì theo sự giải thích

Chăn nuôi lợn rừng của người Sán Dìu

của đồng bào trâu phàm ăn, khoẻ hơn bò,
sức đề kháng với bệnh tật tốt, phù hợp với khí hậu ẩm nhiệt đới; mặt khác, trâu là đối
tượng chính được sử dụng trong đám chay - làm lễ cúng cho người nhập vào bàn thờ tổ
tiên (bỏ bát hương thờ riêng trước khi làm chay). Lợn, gà được nuôi khá nhiều trong từng
gia đình. Hai con vật này được đồng bào nuôi không những để ăn thịt trong các dịp cưới
xin, mà còn là con vật hiến sinh trong các nghi lễ cúng bái, trừ ma tà quỷ quái. Lợn, gà là

những con vật chủ yếu được sử dụng trong các lễ câp sắc, cúng mụ, giải hạn.
Gia súc cũng là một thứ tài sản của gia đình. Gia đình có nhiều trâu, bò, ngựa là gia đình
giàu có.
2.3. Khai thác tự nhiên
Do sinh sống ở địa bàn miền núi trung du Bắc Bộ , gần các khu rừng tái sinh, do vậy,
ngưòi Sán Dìu tận dụng khai thác lâm thổ sản phục vụ cho nhu cầu gia đình, cũng có nơi
đưa lâm thổ sản ra chợ búa trao đổi hàng hoá. Những lâm sản mà đồng bào tận dụng khai
thác là: gỗ, tre, nứa, song, mây. Những lâm sản này là nguồn nguyên vật liệu quan trọng
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 4 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, đóng đồ đạc, làm công cụ sản xuất, làm chuồng trại gia
súc, gia cầm; làm củi đun, rào vườn. Mật ong cũng được chú ý khai thác để ăn hoặc bán.
Ngoài việc khai thác lâm thổ sản, người Sán Dìu còn săn bắn thu rừng và đánh cá vào
những lúc nông nhàn. Săn thú rừng vừa để giải trí, vừa để kiếm thêm thức ăn, lại vừa để
bảo vệ mùa màng khỏi bị thú rừng phá hoại.
2.4. Ngành nghề thủ công
Nghề dệt của người Sán
Dìu là nghề thủ công có
truyền thống lâu đời. Có hai
nghề thủ công tương đối
phát triển là nghề dệt và
nghề đan lát mây tre.
Nghề dệt: Xưa kia, mỗi gia
đình thường dành mảnh
nương tốt để trồng bông.
Đồng bào thường trồng


Nghề thủ công dệt (Ảnh minh họa)

giống bông quả nhỏ, nhưng ít bị
sâu bệnh và sợi lại rất trắng, càng phơi nắng càng trắng ra.Từ cây bông, người Sán Dìu tự
làm ra vải mặc. Trong quy trình dệt và nhuộm của người Sán Dìu có sự khác nhau với
người Nùng, người Tày. Người Sán Dìu nhuộm sợi, rồi từ sợi đã nhuộm dệt thành vải,
còn người Nùng, người Tày cùng sinh sống trong vùng lại dùng sợi dệt thành miếng vải
trước, sau đó nhuộm vải. Đồng bào nhuộm sợi bằng hai màu chính là màu nâu và màu
chàm, nhưng nhìn chung màu nâu được sử dụng nhiều hơn.
Nghề đan lát mây tre: Đồng bào Sán Dìu, tận dụng thu hái lâm sản mây, tre để đan các
sản phẩm phục vụ cho đời sống và phục vụ cho lao động sản xuất thường ngày. Các sản
phẩm đó là: mẹt, cót, bô; các loại giần, sàng, nong, nia; các loại giở, đơm, đó. Nhìn từ
góc độ kỹ thuật, những sản phẩm đan mây tre của đồng bào Sán Dìu đạt được trình độ
thẩm mỹ và công dụng cao.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 5 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

2.5. Trao đổi, mua bán
Kinh tế người Sán Dìu là kinh tế tự túc, tự cấp.Tuy nhiên, người Sán Dìu cũng đã tham
gia vào việc trao đổi, mua bán ở các chợ trong vùng đồng bào cư trú. Những mặt hàng mà
người Sán Dìu đưa ra chợ bán thường là các hàng nông, lâm sản như các loại đồ đan mây
tre: cót, bồ, giần, sàng, nong, nia; những đơm, đó dùng để đánh bắt cá, cua, ếch. Đồng
bào thường phải mua các hàng thiết yếu cho nhu cầu cuộc sống của gia đình như: muối
ăn, dầu thắp, kim khâu, chỉ thêu; xoong, nồi; giấy bút cho trẻ đi học và những đồ trang
sức cho phụ nữ.

3. Văn hoá truyền
thống

3.1. Làng
Dân tộc Sán Dìu lập làng ở
những thung lũng nhỏ hoặc
dưới chên núi hay ở những gò
bãi bàng phẳng. Với những
điều kiện địa hình dựng làng
như vậy, làng thường dựa vào
đồi, núi, trước làng là cánh
đồng rộng làm ruộng nước, sau làng là đồi núi thấp, thoai thoải, phù hợp với việc khai
khẩn đế canh tác nương, trồng

Một góc làng của người Sán Dìu (Ảnh sưu tầm)

cây khô cạn. Mỗi làng có địa
giới của làng. Mốc địa giới làng có thể là một con đường, một dòng sông, một con
mương, một chỗ ngoặt, một gốc cây cổ thụ, một cái đèo,... Không có văn bản quy định
ranh giới làng, mà chỉ là sự quy ước truyền miệng, nhưng mọi người dân làng đều biết và
tuân thủ nghiêm túc. Dân làng này không lấn đất làng khác đế khai khấn làm nương, làm
ruộng, không lấn sang đất làng khác đê chăn trâu, hái củi, thu hái lâm thô sản, hoặc chăn
thả trâu bò, nhất là không bao giờ được lấn sang đất làng khác để lấy gỗ quý, gỗ tốt về
làm nhà cửa.
Mỗi làng của người Sán Dìu thường có một đình làng hoặc miếu thờ thổ công.Miếu làng
thông thường là nơi thờ thổ công của làng, được coi là một sợi dây tinh thần ràng buộc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 6 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

cộng đồng người trong làng với nhau. Hàng năm có cúng lễ ở miếu và mọi người trong
làng, không phân biệt dòng họ, dân tộc, giàu nghèo, yêu nhau hay ghét nhau đều có nghĩa

vụ tham gia vào lễ cúng và được hưởng lộc từ lễ cúng đó.
Một số làng ở gần biên giới còn được thiết kế như làng phòng thú xung quanh làng có luỹ
tre gai dày đặc bảo vệ, có một cổng chính đi lại ở phía trước làng, phía sau làng có hai
cổng phụ. Khi có sự cố trộm cưởp nguy hiểm, trai làng sẵn sàng xả thân chiến đấu với kẻ
cướp, phụ nữ người già, trẻ em nhanh chân chạy vào rừng an toàn,
Làng của người Sán Dìu thường có nhiều dòng họ cùng sinh sống. Thông thường người
Sán Dìu có các họ: Hoàng, Trần, Ân, Vi, Tỏ, Trương, Dương, Đỗ, Diệp, Đặng, Hà, Lưu,
Leo, Phạm, Viên, Thăng, Du, Đào, Đằng,vv... Tuy nhiên, trong một làng, chỉ có thể có
dăm ba họ cùng cư trú.
Người Sán Dìu rất chú ý quan tâm quan hệ họ hàng, Nếu vì một lý do nào đó phải sống
tha phương cầu thực thì người đó vẫn rất có ý thức tìm người cùng họ hàng để có thêm
chỗ nương tựa. Trong một dòng họ, để phân chia thứ bậc là anh em, chú cháu hay ông
cháu, theo một trật tự nhất định. Gia phả của người Sán Dìu, dòng họ Hoàng ở xă Quý
Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, cho ta thấy rằng, tên đệm của họ Hoàng ở đây
được xếp theo trật tự từ đời thứ nhất đến đời thứ chín là: Hoàng Triều, Hoàng Kính,
Hoàng Thắng, Hoàng Vinh, Hoàng Nguyên, Hoàng Thế, Hoàng Văn, Hoàng Trung. Tất
cả chín tên đệm này chỉ dành cho con trai. Con gái không dùng hệ thống tên đệm này.
Thí dụ, hai người cùng họ Hoàng, cùng tên đệm là Hoàng Trung chẳng hạn, thì hai người
đó cùng thế hệ với nhau, là quan hệ anh em với nhau. Còn ai là anh, ai là em, thì lại căn
cứ vào tuổi cụ thế của từng người. Ai nhiều tuổi hơn sẽ là anh, còn ai ít tuổi hơn sẽ là em.
Một thí dụ khác, hai người mới gặp nhau, cùng họ Hoàng, nhưng một người là có tên
đệm là Hoàng Văn và người kia có tên đệm là Hoàng Trung, thì người có tên đệm là Văn
thuộc bậc cha chú của người có tên đệm là Trung. Với hệ thống tên đệm này, người Sán
Dìu, dù chưa quen biết trước, khi gặp nhau, trò chuyện hỏi nhau, biết tên đệm của nhau là
biết quan hệ thứ bậc trong họ hàng, từ đó biết cách xưng hô, ứng xử phù hợp với phong
tục, tập quán của dân tộc Sán Dìu.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 7 | 20



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

3.2. Nhà ở
Người Sán Dìu thường ở nhà đất nhà sang. Mỗi gia đình có hai nhà
sang: một nhà sang chính ba gian và
một nhà sang phụ (nhà ngang) ba
gian. Nhà được làm bằng gỗ, tre,
đất, rơm, cỏ gianh: gỗ dùng làm cột
nhà, làm mái, đất dùng để trình
tường với độ dầy của tường khoảng
lOcm, cỏ gianh dùng để lợp nhà.
Nhà ở của người Sán Dìu có nét đặc
trưng là trong nhà đồng bào thường làm gác để lương thực, mà người Sán Dìu gọi là bục.
Bục được làm bằng cây gác lên tường nhà, cây ken dầy, rồi dùng đất trộn với rơm, phân
trâu, cho nước vừa phải, đánh thật nhuyễn. Đất nhuyễn này đắp lên gác ken cây đó, dày
khoảng 20cm. Bục chứa lương thực vừa tránh được chuột ăn hại, lại vừa phòng cháy tốt.
Việc làm nhà mới đối với người Sán Dìu được tiến hành một cách thận trọng.Việc đầu
tiên là tiến hành chọn đất và bói đất.Người Sán Dìu thường chọn đất làm nhà ở gần anh
em họ hàng, gần đất sản xuất, tiện đường đi lại và nguồn nước cho sinh hoạt. Trên mảnh
đất đã chọn, người ta tiến hành bói đất. Cách bói đất thông thường là trên mảnh đất định
dựng nhà, người ta phát quang và san phẳng một nền đất nhỏ, nện lèn cho nhẵn, bỏ trên
nền đó 7 hạt thóc, úp bát lên trên hạt thóc, để qua đêm xem báo mộng vào chủ nhân chọn
đất; điều lành hay điều dữ. Sáng hôm sau, chủ chọn đất ra lật bát úp lên xem sổ thóc còn
nguyên vẹn tại chỗ hay bị xê dịch, mất mát gì không. Nếu qua một đêm các hạt thóc vẫn
ở nguyên vị trí như khi đặt thì đó là điềm lành.Trên mảnh đất đó có thể dựng nhà được.
Nhưng nếu lật bát úp lên thấy những hạt thóc đã xê dịch thì không bao giờ đồng bào
dựng nhà trên mảnh đất đó. Một yếu tố quan trọng nữa đối với việc dựng nhà mới của
người Sán Dìu là việc chọn hướng nhà. Hướng nhà phải đáp ứng được yêu cầu theo
thuyết phong thuỷ. Dựng nhà xong, người Sán Dìu còn có nghi lễ vào nhà mới. Công
việc vào nhà mới do thầy cúng hướng dẫn, bao gồm các việc: rước bát hương vào nhà

mới, đặt bát hương tổ tiên lên bàn thờ, đặt các bát hương thờ thổ địa ở dưới gầm bàn thờ
tổ tiên, bát hương thờ thần cửa đặt ở cạnh cửa chính ra vào nhà. Tiếp đó là các nghi lễ đặt
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 8 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

giường ngủ, đặt bếp.u' phát hoả và sau cùng là lễ kỳ yên trấn trạch. Nhân dịp vào nhà
mới, chủ nhà làm cỗ mời anh em họ hàng, người làng xóm. Ngoài các món thịt, xôi, đặc
biệt phải có một nồi cháo nấu loãng.
3.3. Y phục, trang sức
Theo các cụ Sán Dìu kể lại,
trước đây, nam giới Sán Dìu
mặc áo ngắn 5 thân, màu nâu,
bên trong thân áo may một túi
nhỏ để đựng giấy tuỳ thân, tiền
và thuốc lào. Quần nam giới
màu nâu, cắt theo kiểu chân què,
cạp lá tọa. Vào các dịp lễ tết, hội
hè, nam giới mặc áo dài màu
đen, đôi khi mặc hai áo: áo trong
dài, màu trắng và ngoài dài, màu đen,áo này cũng 5 thân, cài cúc bên nách phải, dài đến
quá đầu gối; quần màu trắng, đầu đội khăn xếp.
Bộ y phục của nữ gồm: yếm, áo dài, áo ngắn, váy và xà cạp. Yếm của chị em Sán Dìu có
kiểu dáng như yếm phụ nữ dân tộc Kinh, với chức năng chủ yếu là che kín phần ngực.
Yếm có màu nâu. Áo dài của chị em phụ nữ được cắt may theo một kiểu như nhau, mặc
thành chỉ khác nhau về độ dài và màu sắc. Áo ngắn, có chiều dài trùm vùng thắt lưng,
màu nâu, cắt kiểu xẻ ngực, có chân cổ áo cao khoảng lcm, có hai túi nhỏ ở gấu áo, mặc ở
trong; Còn áo dài. có chiều dài vượt quá đầu gối. Áo có hai màu: màu nâu ở nửa trên và
màu đen ở nửa dưới của áo. Áo được cắt may theo kiểu áo tứ thân, cổ cao khoảng lcm,

chiều dài của áo ngoài, dài quá đầu gối. Trong cách mặc áo dài của người Sán Dìu, có sự
khác nhau giữa người có tuổi và người trẻ. Người có tuổi, khi mặc, người ta lấy vạt áo
bên trái vắt sang vạt áo bên phải, rồi buông thõng, mà không thắt nút; còn người trẻ thì
ngược lại. Ngang lưng người ta thắt bao sồi hoặc thắt lưng vải màu.
Phụ nữ Sán Dìu mặc váy. Chiếc váy cùa người Sán Dìu rất độc đáo, thể hiện nét đặc
trưng dân tộc - váy không khâu kín, mà gồm hai hoặc bốn mảnh vải đính trên một cạp
váy, mảnh nọ chờm lên mảnh kia chừng 10 - 15cm. Loại váy này không kín, khi mặc
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 9 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

thường hở hai bên chân. Vì vậy khi mặc váy, chị em rất ý tứ để giữ kín phần chân
hở.Toàn bộ thân váy có màu đen.
Phụ nữ Sán Dìu quấn xà cạp ở hai chân khi đi làm, để tránh gai cào, cỏ cứa vào chân.
Thầy cúng của người Sán Dìu khi hành nghề có y phục riêng . Chiếc áo có độ dài l,2m,
được ghép từ hai khổ vải hẹp (0, 40m), vắt qua vai, khâu ba đường chính là đường hai
bên nách và đường sau lưng. Áo không có ống tay, khoét cổ hơi rộng, trễ xuống phía
trước. Thân áo màu chàm, nẹp áo là miếng vải trắng, rộng khoảng l,5cm, kéo dài từ cổ
xuống tận gấu áo. Áo được thêu dày đặc những chữ Hán cổ trên cả vạt trước và vạt sau
của áo cùng các hoạ tiết hình người cưỡi chim, cưỡi chó, cưỡi ngựa. Đó là những hình
tượng về vũ trụ, các vì sao, các ngôi sao trong thuyết âm dương ngũ hành và các tên nước
ở Trung Quốc thời cổ đại như: Tống, Triệu, Sở, Ngô, Yên, Tấn và các quẻ trong kinh
dịch.
3.4. Ẩm thực
Người Sán Dìu ăn cơm nấu từ gạo tẻ và thực
phẩm là rau xanh như mọi dân tộc khác.
Song điều gây ấn tượng là bên cạnh nồi cơm,
người Sán Dìu còn nấu thêm nồi cháo. Đồng
bào ăn cháo không phải do thiếu gạo, đói

kém, mà ăn cháo trong bữa cơm là tập quán
được hình thành từ xưa. Vào nhà người Sán
Dìu, ta thường thấy, lúc nào cũng
có nồi cháo loãng. Cháo loãng được

Khau nhục – món ăn đặc sản của người Sán Dìu

đồng bào dùng như một thứ nước uống hàng ngày. Mỗi khi khát nước, già cũng như trẻ,
đều uống cháo loãng pha thêm chút muối trắng.
Rau xanh là thức ăn thường ngày của người Sán Dìu. Các loại rau đồng bào có nhiều, ăn
nhiều như: rau muống, rau cải, su hào, bắp cải, cà chua, măng tre, củ mỡ, khoai sọ và các
loại đậu đỗ, bầu, bí... Đồng bào Sán Dìu thỉnh thoảng có ăn thịt, cá, nhưng thường ăn vào
các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay, sinh nhật, tiếp khách thông gia hoặc khách quý khác.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 10 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

Việc chế biến thức ăn của người Sán Dìu cũng đa dạng, có thế nấu, xào, luộc. Với thịt,
cá, đồng bào có thể chế biến bằng cách rán, kho, hầm nhừ.
3.5. Phương tiện vận chuyển
Người Sán Dìu là chủ nhân sáng tạo ra phương tiện vận chuyển hàng độc đáo là chiếc cộ
- xe quệt (loại xe không bánh, mà dùng hai thanh gỗ trượt đi, khi kéo). Chiếc cộ dùng
trâu kéo để vận chuyển hàng nông sản từ ruộng đồng, từ nương về nhà, thay cho người
gánh. Tính hợp lý của chiếc cộ là nó có thể trượt đi theo đường mòn, trên mọi địa hình
dốc của miền trung du. Chính vì vậy, người Sán Dìu chỉ dùng cộ trâu, chứ không dùng xe
ngựa, như ở vùng đồng bằng.
3.6. Ngôn ngữ
Tiếng nói: Tiếng nói của dân tộc Sán Dìu thuộc hệ ngôn ngữ
Hán Tạng, nhóm ngôn ngữ Hoa. Trong tiếng nói của người

Sán Diu có pha trộn nhiều tiếng Hán.
Chữ viết: Người Sán Dìu trước đây dùng chữ Hán để ghi
chép các văn tự liên quan như khai sinh, cưới xin, các văn tự
về ruộng đất, ruộng vườn, đất đai và đặc biệt là chữ
Hán được sử dụng nhiều trong các sách liên quan đến cúng
bái. Người Sán Dìu đã có một quá trình cải biên chữ Hán

Người Sán Dìu dùng

thành chữ của dân tộc Sán Dìu. Tuy nhiên chữ viết kiểu này

chữ Hán để ghi chép

chưa hề được chuẩn hoá, chưa hề được sử dụng trong dân

(Ảnh minh họa)

gian.
3.7. Tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội
Người Sán Dìu tin vào đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mọi vật đều có linh hồn thần linh. Thần linh tồn tại trong mọi vật, có thể làm phúc giúp người nhưng cũng có thể
làm hại cho con người, nếu không đáp ứng được những yêu cầu của chúng. Để ứng phó
với những hiểm hoạ do thần linh gây ra, người Sán Dìu thường tổ chức thờ cúng như
nhiều dân tộc khác.
Đồng bào Sán Dìu thờ tổ tiên ở trong nhà. Trên bàn thờ tổ tiên thường có hai bát hương,
thờ hai đối tượng khác nhau. Đó là bát hươg thờ tổ tiên và bát hương thờ Táo Quân. Bát
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 11 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần


hương thờ Táo Quân được đặt thấp hơn bát hương thờ tổ tiên một cấp. Nếu gia đình nào
cấp hành nghề tín ngưỡng thì trên bàn thờ có thêm bát hương thứ ba thờ tổ sư nghề
nghiệp của chủ nhà. Ngoài thờ tổ tiên, một số dòng họ người San Dìu thờ Phật Bà Quan
Âm ngay trong nhà. Những gia đình không có con trai, lấy rể thờ tự, thì trên bàn tổ tiên
còn có bát hương thờ bên ngoại.
Theo tập quán của người Sán Dìu, từng cá nhân nam, nữ đều có biện pháp tự bảo vệ mình
thông qua việc cấp sắc - học nghề làm cúng. Đồng bào quan niệm, người qua lễ cấp sắc
không chỉ làm chay cúng, mà điều quan trọng nữa là có thể tự bảo vệ được mình, không
sợ ma quỷ làm hại, vì khi cấp sắc đã được cấp binh mã - âm binh, có khả năng bảo vệ cho
người qua cấp sắc, chống lại ma quỷ. Hơn nữa, người được cấp sắc còn có thể bảo vệ
được cả gia đình mình, cấp sắc còn có nghĩa đối với đời sống tâm linh. Người được cấp
sắc, khi chết đi sẽ được thờ cúng từ đời này qua đời khác.Thực tế trong cuộc sống, nam
giới được cấp sắc nhiều hơn nữ giới. Với nữ giới, sau cấp sắc, ít phụ nữ trở thảnh thây
mo, thầy cúng. Điều quan trọng là một phụ nữ qua cấp sắc được Ngọc Hoàng công nhận
đã có chức tước ở đời thường, cho nên khi chết đi sẽ tiếp tục được làm quan ở âm cung.
Trên cơ sở tín ngưỡng đa thần giáo, người Sán Dìu có nhiều phong tục thờ cúng như: thờ
thổ công - thu tỷ, thờ Táo Quân - chạo kun, thờ bà mụ - nam mu, thờ thần cửa - sẩn món,
thờ thần nông - sẩn nông, thờ thành hoàng, thờ thần Phật - sẩn hụt. Bàn thờ thổ công đặt
ở dưới gầm bàn thờ tổ tiên; bàn thờ táo quân đặt chung với bàn thờ tổ tiên và điều khác
biệt ở đây là người Sán Dìu cúng Táo Quân không cúng cá; bàn thờ hà mụ đặt ngay đầu
giường sản phụ. Khi có đứa trẻ sinh ra, người Sán Dìu lập bàn thờ bà mụ và cúng cho đến
khi đứa trẻ lên 15 tuổi mới thôi; bàn thờ thần cửa đặt bên cạnh cửa chính ra vào, bên phải
nhìn từ ngoài vào nhà nhằm canh giữ không cho ma tà quỷ quái vào nhà; thần nông là vị
thần thờ chung của cộng đồng. Việc cúng tế thần nông thường được cộng đồng tổ chức
vào các dịp tết cơm mới, lễ cầu đảo, lễ hạ điền, thượng điền; thờ Thành hoàng của làng là
nghi lễ tôn giáo mang tính văn hoá cộng đồng cao, ràng buộc người trong một làng với
nhau ở khía cạnh cuộc sống tâm linh; thờ Phật ở trong nhà. Nhà làm thầy cúng còn thờ
Thái Thượng Lão quân và Tam Thanh (Thượng Thanh, Thái Thanh và Ngọc Thanh).

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 12 | 20



TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

3.8. Lễ hội
Lễ tết là lễ lớn nhất của đồng
bào Sán Dìu. Trong phong tục
đón Tết của người Sán Dìu, có
một điều rất thú vị, độc đáo đó
là tục gánh nước vào sáng
Mồng 1 Tết. Nhà nào có con
trai và con dâu, phải dậy thật
sớm, trước khi ra sông, suối
gánh nước phải mang theo một
khoanh bánh chưng và 3 nén
hương và vàng mã để xin phép
vua Thủy Tề mang nước về.
Nước được lấy từ suối trong vắt
về dùng để nấu nướng, pha chè hoặc
đặt lên bàn thờ thể hiện tấm lòng trong
sáng, thành kính của on cháu với tổ tiên .

Lễ tết của người Sán Dìu (Ảnh sưu tầm)

Cũng trong sáng Mồng 1 Tết, người Sán Dìu không ăn mặn mà ăn chay. Đây là một tập
quán khá đặc biệt của người Sán Dìu. Đồ chay là cháo chè; cháo được nấu từ gạo nếp
cùng đỗ xanh và đường. Trên mâm cúng bao giờ cũng có 5 bát cháo. Trong lễ cúng chay,
thày cúng, hoặc chủ nhà gõ chùng chọe thanh la và thổi tù và, chiêu quân âm binh về ăn
Tết, phù hộ, độ trì cho gia chủ.
Tục ăn chay vào sáng Mồng 1 Tết vẫn được bà con dân tộc Sán Dìu duy trì

Sau khi tục cúng chay hoàn tất, mọi người trong gia đình quây quần, cùng nhau thưởng
thức đồ chay do chính tay mình làm. Hương vị thơm mát, ngọt nhẹ của món cháo chè
trong ngày Mồng một Tết, khiến ai ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Trong 3 ngày Tết, ngày Mồng hai được coi là ngày Tết chính. Vào ngày này, các thành
viên trong gia đình đều tụ họp đông đủ. Gia đình nào dù có con gái lấy chồng ở xa,
nhưng vẫn lặn lội về nhà đẻ để chúc Tết, mùng lì xì cho ông, bà, bố mẹ. Từng gia đình,
dòng họ làm cỗ mời anh em, họ hàng, người thân. Quanh mâm cơm ngày Tết, mọi người
cùng nhau hỏi thăm, chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi và chúc nhau những
điều tốt đẹp nhất trong năm mới.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 13 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

3.9. Văn hóa xã hội
Gia đình có nhiều con trai, lớn lên, trưởng thành, khi con trai thứ lấy vợ thì cha mẹ cho ra
ở riêng ngay. Khi ra ở riêng thường được cha mẹ làm cho cái nhà, chia cho một số gia
súc, gia cầm như: một con nghé, hai con lợn, ba gà mái, một gà trống, chó, mèo. Một số
gia đình có thêm ông bà ở cùng. Tuy nhiên, ra ở riêng, nhưng vẫn có trách nhiệm thăm
nom, phụng dưỡng cha mẹ, nhất là khi cha mẹ đau yếu.
Trong gia đình người Sán Dìu, con cái sinh ra lấy họ cha, là con cháu của họ nội - họ cha.
Con trai được thừa kế tài sản do cha mẹ để lại, con gái khi đi lấy chồng được cha mẹ chia
cho của hồi môn. Tùy hoàn cảnh từng gia đình, của hồi môn to nhất là một con trâu cái để
làm giống. Của hồi môn nhỏ có thể là con lợn, đồ trang sức vàng, bạc (nếu có) và một số
công cụ sản xuất như: cày, cuốc, dao, liềm hái,... Tập quán người Sán Dìu là khi con gái
lớn, cha mẹ cho phép gây vốn riêng. Nguồn vốn đó lớn hay nhỏ là tuỳ thuộc vào sự cần
cù chịu khó của mỗi người. Con trai còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên trong các ngày lễ
tết, thắp hương trên bàn thờ vào các ngày sóc vọng và chăm sóc mồ mả của các cụ, làm lễ
tảo mộ hàng năm.

Gia đình người Sán Dìu còn là gia đình phụ quyền. Những vấn đề về sản xuất, về quan hệ
làng xóm, quan hệ cộng đồng, cũng như việc cưới xin, làm nhà mới,... thì ý kiến quyết
định cuối cùng thuộc về người cha. Tính phụ quyền còn được thể hiện ở vai trò con trai
trong gia đình. Con trai chịu trách nhiệm trước dòng họ, trước cộng đồng, làng xóm về
kết quả làm ăn và danh dự của gia đình.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cơ bản là bình đẳng, cùng lao động, cùng
hưởng thụ thành quả lao động. Điều đáng chú ý là quan hệ giữa con dâu, em dâu với bố
chồng, anh chồng. Theo tập quán dân tộc, con dâu và em dâu không được ngồi chung
mâm cơm với bố chồng và anh chồng.
3.10.

Tục lệ cưới xin

Người Sán Dìu thực hiện hôn nhân theo chế độ ngoại hôn dòng tộc. Nghiêm cấm những
người có quan hệ huyết thống lấy nhau. Khi có dấu hiệu người trong cùng dòng tộc yêu
nhau, thì dư luận trong họ hàng, dòng tộc lên án, chê cười, thậm chí ghẻ lạnh với kẻ
không biết phong tục, tập quán dân tộc.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 14 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

Hôn nhân của người Sán Dìu cũng là hôn nhân một vợ.một chồng bền vừng từ lâu đời, ít
có trường hợp lấy vợ hai. Tuy nhiên cũng có lurờng hợp lấy vợ lẽ, bởi vợ cả không có
con trai. Lấy vợ lẽ trong trường hợp này được họ hàng ủng hộ và thường là vợ cả đi hỏi
vợ lẽ cho chồng.
Sau hôn nhân, thông thường đôi vợ chồng trẻ cư trú bên nhà chồng.
Trường hợp bên nhà gái không có con trai thì người ta lấy rể. Tuy nhiên những người ở
rể đời hoặc chồng kế của người đàn bà góa, không nhất thiết phải đổi họ mình theo họ vợ,
nhưng có nhiệm vụ thờ phụng tổ tiên của gia đình mình và cả tổ tiên gia đình nhà vợ và

do đó có quyền kế thừa tài sản của gia đình nhà vợ.
Theo quan niệm của người Sán Dìu, nam nữ từ 15 tuổi trở lên được cộng đồng công nhận
là người trưởng thành, khi đó gia đình không phải cúng mụ nữa. Đến tuổi này, các chàng
trai, buổi chiều tối hay rủ nhau đi sang các làng khác chơi, hát đối đáp giao duyên với gái
làng đó. Qua một vài lần gặp gỡ nhau nơi làm mộng, làm nương, nơi chợ hội, trong các
dịp hội hè, lễ tết, cưới xin, ma chay; lại thêm sau vài lần hát giao duyên tìm hiểu, trai, gái
tâm đầu ý hợp, cùng nhau đồng thuận xây dựng gia đình, người con trai về nhà báo với
gia đình để bố mẹ đi hỏi cô gái về làm dâu.
Theo phong tục truyền thống, hôn nhân thường diễn ra theo 4 nghi lễ: Xin lá số - lổng
nén sang, Báo yên - hự thênh, Ăn hỏi - bạo nhít. lễ cưới - sênh ca chiu.
Lễ xin lá số: Để thực hiện nghi lễ này, nhà trai hỏi ý kiến nhà gái thích ai làm mối. Nhà
gái thường chọn người trong họ hàng của mình hoặc ít nhất cũng là người có quan hệ họ
hàng với mình để làm mối. Người được chọn làm mối thường là người có đạo đức, có vợ
con đầy đủ, có kinh tế khá giả, thông thạo phong tục tập quán dân tộc, giỏi ăn nói, nhanh
nhẹn tháo vát trong ứng xử. Thông thường, mỗi đám làm mối thành công, ông mối và bà
mối trở thành bố, mẹ nuôi của đôi vợ chồng trẻ, đôi vợ chồng trẻ mang ơn suốt đời, “sống
có lễ, chết để tang”. Mời ông mối, bố chàng trai mang một nải chuối sang nhà thưa
chuyện. Khi ông mối đồng ý đi xin lá số, nhà trai sẽ chuấn bị lễ vật để ông mối đưa sang
nhà gái xin lá số. Lễ vật là: một nải chuối, chè, thuốc, trầu và một vài đồng bạc. Ông mối
sang nhà gái một mình để xin lá số của cô gái. Nghi lễ xin lá số chưa phải là nghi lễ quyết
định hôn nhân. Do một đặc điểm trong việc xin lá số của người Sán Dìu là một cô con
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 15 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

gái có thể đưa lá số cho hai ông mối khác nhau để về so với lá số của hai chàng trai và
cũng tương tự như vậy, một chàng trai có thể xin lá số của hai cô gái trong một gia đình
để về so với lá số cúa chàng trai. Hợp với lá của cô nào thì nhờ ông mối sang báo lại với
nhà gái. Nếu không hợp thì không cần báo lại với bên nhà gái.

Lễ báo yên: Thực hiện nghi lễ này, ông mối cũng đi một mình sang nhà gái với lễ vật vẫn
là: nải chuối, chè, thuốc, trầu cau. Mục đích là thông báo cho nhà gái biết là số cô gái và
chàng trai hợp nhau, đôi trai gái có thể lấy nhau được. Trong thời hạn mười ngày kể từ
ngày Báo yên, nếu nhà gái không đồng ý thì mang lễ vật trả lại nhà trai. Quá thời gian
trên mà nhà gái không có ý kiến gì, nhà trai sẽ nhờ thanh niên đưa chú rể tương lai đến
nhà gái để nhận mặt, tìm hiếu, hát giao duyên. Đây là lần duy nhất chàng trai sang nhà
gái, trong toàn bộ quá trình cưới hỏi đó, ông mối sang nhà gái hỏi ý kiến lần nữa nhà gái
có đồng ý gả cô gái cho chàng trai không và xin phép cho nhà trai tiến hành lễ ăn hỏi.
Lễ ăn hỏi: Nhà trai chuẩn bị lễ vật gồm rượu, gạo nếp, 4 đến 6 con gà để ăn hỏi. Phía nhà
trai có ông mối và hai thanh niên là anh em họ hàng hoặc bạn bè chú rể, mang lễ vật sang
nhà gái. Mục đích của nghi lễ ăn hỏi là nhà trai thông báo ngày cưới và giờ đón dâu.
Ngày, tháng và giờ đón dâu hoàn toàn phụ thuộc vào lá số của cô gái. Cũng trong lễ ăn
hỏi này, nhà gái thách cưới. Thông thường đồ thách cưới gồm: 60 kg thịt lợn móc hàm,
40 - 60 lít rượu, 4 con gà và một số lễ vật khác như gạo, chăn màn, 4 bộ quần áo cho cô
dâu và một chiếc hòm (để đựng chăn màn, quần áo), một đôi hoa tai bằng vàng, một số
tiền mặt tương ứng với một con trâu.
Lễ cưới - sênh ca chiu: Thường tổ chức ở nhà gái hôm trước hôm sau tổ chức ở nhà trai.
Từ chiều ngày hôm trước, nhà trai đưa đồ thách cưới sang nhà gái. Trong đồ thách cưới,
trọng lượng con lợn là quan trọng. Nếu thiếu, nhà trai phải mua thịt lợn bù vào cho đủ
cân như đã thoả thuận. Và nét đặc biệt ở đây là bên nhà trai, sau khi giao lợn cho nhà gái,
phải chú ý giữ chiếc cây (đòn) khiêng lợn. Nếu không giữ được cây gậy (đòn) khiêng lợn,
nhà gái coi như chưa nhận được lợn thách cưới. Đoàn nhà trai gồm ômg mối (trưởng
đoàn), bốn, năm chàng trai khiêng đồ lễ vật cưới và cô phù dâu. Cô phù dâu là người nhà
chú rể và là gái chưa chồng. Tập quán của người Sán Dìu quy định giao đồ thách cưới ở
giữa sàn.Giao xong đồ lễ cưới, đoàn nhà trai chưa được vào nhà ngay. Nhà gái đặt một
chiếc ghế băng trước cửa nhà, trên ghế người ta uốn một mảnh tre cong, trên mảnh tre đó
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 16 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần


dán một giấy đỏ, ngay cạnh ghế, dưới đất đặt một đĩa trầu cau. Đây là nghi lễ chắn cửa,
không cho nhà trai vào nhà ngay mà phải hát “quan lang” - hát mở cửa dây. Hai bên: bên
nhà gái và bên nhà trai hát đối đáp nhau làm cho không khí đám cưới trở nên sinh động
hẳn lên. Hát một hồi lâu, khi nhà trai cảm thấy thoải mái, mới cho bên nhà trai vào nhà.
Thông thường trong ngày cưới, chú rể không đi đón dâu. Theo phong tục, đoàn đón dâu
ngủ lại nhà cô dâu một đêm. Ngày hôm đó, sau khi ăn xong cơm chiều, nhà gái công bố
giờ nhà trai đón dâu vào ngày hôm sau. Giờ đón dâu do nhà trai quyết định, nếu giờ đón
dâu mà nhà trai quyết định phạm vào số mạng và không tốt cho cô dâu, thì thầy cúng cho
nhà gái làm một chiếc bùa cho cô đeo trong khi tổ chức đám cưới và những ngày đầu về
nhà chồng. Hai quả trứng vịt luộc sẵn được đặt trên giấy cắt hình hoa, hai mặt, một mặt
trắng, một mặt đỏ. Hai quả trứng này được nối với nhau bằng một sợi chỉ đỏ, hai đầu dây
có xâu vài đồng xu. Rồi cuộc hát đám cưới - sình ca chiu cô giữa hai họ bắt đầu.Việc tổ
chức hát đám cưới được quy định chặt chẽ về vị trí của hai họ. Họ nhà gái là những người
già, ngồi trên chiếc giường kê giữa nhà; họ nhà trai cử hai người ra đứng ớ hai bên cửa để
tỏ lòng kính trọng. Nhà gái hát đố nhà trai về đường đến nhà gái, cách đặt trên mặt hoa
giấy màu trắng hay đỏ. Nhà trai hát đáp lại. Khi nhà gái vừa ý về câu đối đáp của nhà trai,
sẽ đập trứng lấy lỏng đỏ hoà vào rượu uống. Theo quan niệm của đồng bào, lòng đỏ trứng
gà tượng trưng cho sự hoà thuận, sinh sôi nảy nở, phát triển và thể hiện tình cảm hai gia
đình từ nay đã hoà làm một.Cuộc rượu và hát giữa hai họ làm cho cuộc vui mang không
khí đặc trưng của đám cưới.
Tiệc chính của đám cưới được tổ
chức vào trưa ngày hôm sau.
Nhà trai thường đón dâu vào
buổi chiều.
Đến giờ đón dâu, cô dâu được
tánh cả dắt từ trong buồng ra. Cô
dâu mặc trang phục cưới của dân
tộc, mặc quần áo vải màu nâu,
quấn khăn, đầu trùm khăn che

kín mặt, ông mối nhà trai có lời
thưa với ông bà nhà gái cho cháu

Lễ đón dâu (Ảnh sưu tầm)

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 17 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

ra khỏi nhà cho đúng giờ. Nhà gái thông báo với tổ tiên bằng một văn tự cổ xưa truyền lại
về việc con gái đi lấy chồng, cô dâu đến lễ trước bàn thờ tổ tiên, rồi than khóc tạ ơn cha
mẹ đã sinh thành dưỡng dục, đến chào từ biệt từng người bề trên trong họ. Những người
được cô dâu đến chào từ biệt đều cho cô dâu quà mừng hạnh phúc. Ra khỏi nhà, cô dâu
được anh trai cõng trên lưng đi ba bước, ông trưởng đoàn nhà trai phải che ô cho cô dâu.
Chiếc ô này do tánh cả giữ. Trên ô có 5 đôi đồng xu: 4 đôi đồng xu đính vào xung quanh
ô, còn 1 đôi đính ở giữa ô. Tánh cả giữ không để mất 5 đôi đồng xu đó. Ra khỏi nhà gái,
có tục chăng dây ngang đường đi, nhà trai phải hát, cho tiền để xin qua. Trên đường đi về
nhà chồng, nếu đi qua sông, qua suối đoàn đưa dâu phải bỏ tiền xuống sông, suối để cúng
thần, phù hộ cho đám cưới được tốt đẹp.
Đến nhà trai, nếu trời chưa tối thì phải đợi ở ngoài làng, chờ đón khi trời tối hẳn mới
được vào nhà. Người Sán Dìu quan niệm, đưa cô dâu mới vào nhà khi mặt trời đã lặn sẽ
tránh được rủi ro. Lúc vào nhà chồng cô dâu mặc chiếc váy nâu, tánh cả che ô cho cô dâu
từ cổng vào nhà. Chú rể đưa cô dâu đến lễ trước bàn thờ tổ tiên. Nhà trai cũng báo về
việc đón dâu về bằng một bài cúng được lưu truyền theo phong tục dân tộc Sán Dìu. Sau
đó cô dâu được đưa vào buồng cưới. Trong buồng cưới bố mẹ chồng cô dâu đã để sẵn
dưới chiếu một ít tiền cho cô dâu. Ngoài ra cô dâu còn được hưởng tiền xâu ở hai quả
trứng và cả số tiền ở ô, để trong ngày làm dâu đầu tiên, khi cô dâu rửa bát, nấu cơm, gánh
nước... thì phải bỏ tiền xuống chậu rửa, hồ ao, sông suối. Đây là nghi lễ trình báo với thổ
công, thần làng nhà trai và xin phép được nhập vào cộng đồng mới.

Tiệc cưới chính thức được tổ chức vào sáng ngày hôm sau. Họ hàng nội ngoại nhà trai có
mặt đầy đủ. Cô tánh cả thay mặt nhà trai giới thiệu họ hàng với cô dâu. Theo phong tục
người Sán Dìu, sáng ngày hỏm sau (sau ngày tiệc cưới chính thức), nhà trai chuẩn bị 12
bánh chưng, 1 chân giò lợn, cử chị gái của chú rể hoặc bác ruột chú rể đưa cô dâu về nhà
bố mẹ đẻ và cô dâu quay về nhà chồng trong ngày. Sau nghi lễ này cô dâu, chú rể mới
được động phòng.
3.11.

Tập quán tang ma

Người Sán Dìu tin vào vạn vật hữu linh, mọi vật đều có linh hồn. Con người có phần xác
và phần hồn, khi chết đi phần xác bị tiêu huỷ, nhưng phần linh hồn vẫn tồn tại. Linh hồn
qua 100 lần đầu thai thành các đồ vật, các loài cây, các con vật... mới được quay lại làm
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 18 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

người. Mỗi khi trong nhà có người ốm nặng, anh em họ hàng đến thăm hỏi, biếu quà bồi
dưỡng sức khoẻ. Đám tang của người Sán Dìu thường tổ chức từ hai đến ba ngày, với các
thủ tục nghi lễ chính sau: Tắm rửa cho người chết; Lễ khâm liệm; Lễ dâng cơm; Lễ chay;
Lễ đưa tang; Lễ hạ huyệt; Lễ trao nhà táng. Những đồ dùng hàng ngày của người chết:
quần áo, giày dép, dao đều cho vào quan tài; còn giường chiếu, chăn màn... đều mang vứt
ở nơi rất xa nhà chứ không đốt.
Việc làm chay của người Sán Dìu thường thực hiện theo hai cách: nhà giàu thường làm
chay cho người chết cùng với lúc làm ma, vào đêm hôm trước khi đưa tang, để nhập linh
hồn người chết vào bàn thờ tổ tiên luôn, không thờ riêng nữa. Còn người nghèo thì sau
khi mai táng được một thời gian, linh hồn người chết được thờ riêng, nhưng đặt thấp hơn
bát hương của tổ tiên gia đình. Khi nào làm xong chay, linh hồn người chết mới được
nhập vào bàn thờ tổ tiên và bỏ bát hương thờ riêng đi. Sau ba năm thì người Sán Dìu tổ

chức cải táng, sang cát mồ mả.
3.12.

Văn nghệ dân gian

Người Sán Dìu có kho tàng văn nghệ dân gian phong phú về thể loại, lại giàu tính nhân
văn, nhân bản, đậm nét bản sắc dân tộc. Một số thể loại nổi lên là: Truyện cổ, dân ca,
tranh tượng dân gian.
Truyện cổ dân gian: Truyện cổ dân gian của
người Sán Dìu có khá nhiều, trong đó truyện
được dân gian kể nhiều là truyện Vũ Nhi thư
cộng đồng thiềm thừ vương là truyện kể về
Vũ Nhi. Đây là truyện thơ gồm 800 câu, mỗi
câu 7 chữ, kể về Vũ Nhi mồ côi mẹ từ khi
lên 9 tuổi. Cha Vũ Nhi lấy vợ kế, bắt đầu từ đó,

Hát soọng cô của người Sán Dìu

Vũ Nhi sống trong cảnh dì ghẻ con chồng. Dăm
bảy lần Vũ Nhi bị dì ghẻ đày ải vào chỗ chết, nhưng nhờ sự giúp đỡ của Thiên thần, Thổ
thần, Vũ Nhi đều thoát chết. Cực quá Vũ Nhi phải bỏ nhà ra đi. Trải qua nhiều gian khổ,
nhiều biến cố, số phận đã định, Vũ Nhi được mời về cung làm vua trị vì thiên hạ. Được
làm vua. Vũ Nhi mời dì ghẻ đến cung vua chơi. Đến lúc đó, dì ghẻ vẫn lại bày trò sát hại
Vũ Nhi, nhưng kế sát hại chưa thực hiện được thì dì ghẻ bị Thiên Lôi đánh chết.
N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 19 | 20


TỔNG QUAN VỀ DÂN TỘC SÁN DÍU | Hoàng Trần

Dân ca: Dân ca của người Sán Dìu có nhiều chủ đề khác nhau: chủ đề dân ca nghi lễ, chủ

đề hát giao duyên giữa nam, nữ, chủ đề dân ca đám cưới, hát mừng nhà mới. Một đặc
điểm của dân ca người Sán Dìu có lời bài dân ca là lời thơ 7 chữ. Làm thơ để hát dân ca;
muốn sáng tác dân ca là phải sáng tác theo vần thơ.
Tranh, tượng dân gian: Tranh dân gian của người Sán Dìu chủ yếu là tranh thờ cúng. Các
ông thầy cúng thường lưu giữ loại tranh này. Khi đi hành nghề, thầy cúng mang theo
tranh. Tranh thờ cúng có hai loại: tranh cúng chay và tranh cúng mặn. Tranh cúng chay
có 18 bức; tranh cúng mặn có 6 bức.
Tượng ở người Sán Dìu chủ yếu là tượng Phật, tượng rồng và tượng Bát đại kim cương.
Đây cũng là những tượng liên quan đến cuộc sống tâm linh, thờ cúng.

N g u ồ n : t ổ n g h ợ p t ừ i n t e r n e t - P a g e 20 | 20



×