Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Quyền sống của thai nhi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.56 KB, 35 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

QUYỀN SỐNG CỦA THAI NHI
Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bộ môn: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật

Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Hoài Phương
TS. Phạm Thị Duyên Thảo


Thành viên nhóm
Họ và tên

MSSV

Hoàng Kiều Trinh

16061208

Vũ Hải Yến

16061194

Định Thị Lan Anh

16061197

Nguyễn Thị Hồng Hạnh


16061177

Phạm Hồng Nhung

16061250

Quyền Thị Kiều Oanh

16061168


MỤC LỤC
Danh mục các từ viết tắt
Lời mở đầu
Chương 1. Các vấn đề lý luận về quyền sống của thai nhi
1. Quyền sống
2. Quyền sống của thai nhi
3. Sự mâu thuẫn giữa quyền riêng tư của người mẹ và quyền sống của thai nhi
4. Quyền sống của thai nhi, vấn đề nạo phá thai nhìn dưới góc độ đạo đức, xã hội, pháp
luật
Chương 2. Pháp luật và thực tiễn việc bảo đảm quyền sống của thai nhi
1. Pháp luật quốc tế về vấn đề quyền sống của thai nhi
2. Pháp luật Việt Nam về vấn đề quyền sống của thai nhi
3. Thực tiễn và một số giải pháp việc bảo đảm quyền sống của thai nhi
4. Đánh giá
Chương 3. Nâng cao nhận thức và ứng xử phù hợp đối với quyền sống của thai nhi


Danh mục các từ viết tắt
CRC

ADN
ICCPR
UNHRC

Convention on the Rights of the Child- Công ước về Quyền Trẻ em
Acid Deoxyribo Nucleic- Phân tử mang thông tin di truyền mã hóa
International Covenant on Civil and Political Rights- Công ước Quốc tế
về các Quyền Dân sự và Chính trị
United Nations Human Rights Council- Hội đồng Nhân quyền Liên
Hiệp Quốc

LỜI MỞ ĐẦU


Căn cứ vào Tuyên bố về Quyền Trẻ em năm 1959, phần mở đầu Công ước về
Quyền Trẻ em (CRC) được ký ngày 20/11/1989 đã nêu rõ: “Trẻ em, do sự non nớt về thể
chất và trí tuệ, cần sự chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, bao gồm sự bảo vệ pháp lý phù hợp,
trước cũng như sau khi ra đời”[1] nhưng do sự không rõ ràng trong việc bảo vệ quyền của
thai nhi và quyền của người phụ nữ mang thai theo Công ước này, nó đã gây ra sự mâu
thuẫn giữa quyền của người mẹ và thai nhi.
Theo quan điểm cổ điển và bảo thủ, việc nạo phá thai là hành động trái với luân lý,
không thể chấp nhận được, đặc biệt trong tôn giáo: Sự sống một khi đã được hình thành
cần được bảo vệ, nạo phá thai và giết trẻ sơ sinh là một tội ác ghê tởm. Nhưng ngược lại
với quan điểm trên, một nhóm khác cho rằng việc nạo phá thai là có thể chấp nhận vì
người phụ nữ có toàn quyền quyết định với thân thể mình ( bào thai là một phần thân thể
người mẹ). Ngoài ra còn một quan điểm dung hòa hai quan điểm trên, cho phép phá thai
tùy thuộc vào giai đoạn phát triển của thai nhi hay với những lý do chính đáng của người
mẹ.
Trong nghiên cứu của mình, chúng tôi tìm hiểu vấn nạn phá thai dưới góc độ đạo
đức, xã hội và pháp luật. Trên thế giới, có không ít các quốc gia đưa ra những luật lệ hạn

chế phá thai nhưng cũng có những quốc gia cho phép nạo phá thai tự do. Từ thực tế các
quy định về phá thai ở Việt Nam, các số liệu về vấn đề nạo phá thai đang tăng một cách
đáng sợ.
Với những lý do đã nêu ở trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “ Quyền sống của thai nhi
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu của mình với mục đích tìm
hiểu thêm về những quan điểm trên thế giới về quyền sống của thai nhi từ đó góp phần
hoàn thiện, bổ sung các quan điểm, chính sách sẵn có đồng thời hạn chế tình trạng phá
thai tăng nhanh và nạo phá thai không an toàn ở Việt Nam.
Chương 1. Các vấn đề lý luận về quyền sống của thai nhi


1. Quyền sống của con người
Ngày nay, xã hội ngày càng trở nên phát triển thì yêu cầu của con người về quyền
con người, quyền sống càng trở nên quan trọng, được đề cao được và trở thành điều mà
con người muốn hướng đến để bảo vệ. Quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi
ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.Hay nhìn một cách khái quát là những quyền
bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống
như một con người, và quyền sống là một quyền quan trọng hàng đầu và cần được đảm
bảo để quyền con người trở nên tối thượng.
Quyền sống là quyền cơ bản và đặc biệt quan trọng của con người, được ghi nhận
trong nhiều văn bản pháp lí quốc tế, cụ thể Điều 3 Tuyên ngôn Nhân quyền quốc tế năm
1948 lần đầu tiên đề cập đến quyền sống với nội dung: “Mọi người đều có quyền sống tự
do và an toàn cá nhân"[2]
Từ trước tới nay, quyền sống đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện pháp lý quan
trọng của quốc tế, của các quốc gia khác nhau và của nước ta như: Tuyên ngôn quốc tế
nhân quyền của Liên hợp quốc năm 1948, Tại Điều 3 của bản Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền năm 1948 khẳng định: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá
nhân”. Trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường
Ba Đình lịch sử ngày 2 tháng 9 năm 1945 không những đã kế thừa tinh hoa về quyền con

người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới bằng việc
nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của nước Mỹ và “Tuyên
ngôn Dân quyền và Nhân quyền” của Pháp. Người khẳng định: “Tất cả mọi người đều
sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc”.
Hiến pháp 2013 đã tiếp tục khẳng định, làm rõ hơn quyền con người, quyền công
dân, trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong việc thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo


đảm quyền con người, quyền công dân. Quyền sống (hay quyền được sống) là quyền cơ
bản và quan trọng nhất của con người, đây cũng là một trong những nội dung quan trọng
của Nhân quyền. Điều 19 Hiến pháp 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính
mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật."
Như vậy, quyền sống là quyền tất yếu, vốn có của quyền con người; là một trong
những vấn đề quan trọng bậc nhất, lần đầu tiên được quy định với ý nghĩa sâu sắc, cụ thể,
đầy đủ và toàn diện về quyền con người trong Hiến pháp năm 2013, đánh dấu sự hoàn
thiện của Hiến pháp - đạo luật gốc trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta và phù hợp
với luật pháp quốc tế về quyền con người.
2. Quyền sống của thai nhi.
Ở nhiều nơi, thai nhi không được xem như là một con người về mặt pháp lý. Đây là
điều chúng tôi khẳng định với bạn, không chỉ ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nước khác.
Thai nhi không được xem là một con người cho đến khi được sinh ra và còn sống. Điều
này gợi lên cho chúng tôi một vấn đề, đó là quyền được sống của thai nhi ?
Vậy quyền sống của thai nhi là gì? Và bảo vệ quyền sống từ thời điểm nào?
Quyền sống của thai nhi hiểu đơn giản là quyền được công nhận sự sống của các
thai nhi đang còn trong bụng mẹ, là quyền được nhà nước bảo vệ và bảo đảm thực hiện
đối với mạng sống của những thai nhi, như những con người bình thường. Tuy nhiên vấn
đề đặt ra là quyền sống của thai nhi có thật sự tồn tại và được công nhận hay không?
Quyền sống quy định trong Hiến pháp đặt ra nghĩa vụ của Nhà nước phải bảo vệ sự

sống của con người trong mọi trường hợp. Lời nói đầu của Công ước về quyền trẻ em năm
1989 nêu rõ “Trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về
mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Vấn đề này không phải chỉ có chúng tôi suy
nghĩ, mà là rất nhiều người đã và đang suy nghĩ, có rất nhiều ý kiến tranh luận, có nhiều
luận điểm cho rằng thai nhi chỉ là một sinh thể người ở khía cạnh nó thuộc giống người
( Homo Sapiens) - tức là về mặt sinh học. Nhưng lại không phải là người trong ý nghĩa


đạo lý tổng thể, và họ không công nhận thai nhi là con người, nghĩa là không công nhận
quyền sống của thai nhi. Thai nhi, theo sự phỏng đoán thì người ta cho rằng :


Thai nhi có bản năng muốn sống, nhưng loại bản năng này giống ởcon thằn lằn. ( Theo R.
D. Precht). Và thai nhi không có ý thức bản ngã ở dạng mong ước cũng như chủ định
phức hợp. Vì điều này, dẫn đến một nguyên tắc hiện hành - hoàn toàn được giết một thai



nhi ở mọi bậc phát triển, nghĩa là trong tuần đầu lẫn đến tháng thứ chín.
Quan điểm theo chiều hướng ngược lại, thì ủng hộ đòi quyền sống và được sống của thai
nhi, tức là quyền sống của thai như cũng giống như quyền sống của một con người, được
pháp luật và xã hội công nhận và bảo vệ.
Với chúng tôi thì chúng tôi cho rằng nên ủng hộ và bảo vệ quan điểm rằng thai nhi
cũng có quyền được sống. Và chắc chắn cần phải có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ
hơn để bảo vệ quyền sống của thai nhi, đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay.
Trong lời nói đầu Công ước về Quyền trẻ em năm 1989 quy định: ‘Trẻ em, do còn non nớt
về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về
mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Điều này có nghĩa là các quốc gia có nghĩa vụ
nhất định trong việc bảo vệ sự sống của trẻ em từ khi còn là bào thai.
Theo khoa học đã chứng minh thai nhi là một cá thể mang ADN có những điểm

tương đồng với người mẹ nhưng nó không giống hoàn toàn với người mẹ, mà có sự riêng
biệt hoàn toàn, tuy thai nhi sống phụ thuộc vào người mẹ nhưng nó phát triển và trở thành
một con người thực sự sau 9 tháng 10 ngày. Dựa trên cơ sở này, chúng ta dễ dàng nhận
thấy bào thai là một con người với những đặc tính của mình chứ không phải là một bộ
phận của người phụ nữ, chính vì vậy các thai nhi cũng cần được thừa nhận và bảo vệ
quyền sống một cách chính đáng. Bảo vệ quyền sống của thai nhi cũng chính là bảo vệ
quyền sống của con người.
3. Sự mâu thuẫn giữa quyền riêng tư của người mẹ và quyền sống của thai nhi
Cuộc đấu tranh đòi quyền phụ nữ được khởi xướng cách đây hơn trăm năm. Và từ
đó đến nay, đã có nhiều bước tiến vượt bậc, Nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa vào luật


để bảo vệ người phụ nữ.Và thực tế đã chứng minh, ngày nay người phụ nữ đã có thể đảm
nhiệm bất cứ vai trò nào mà người đàn ông đảm nhiệm trong xã hội.Tuy nhiên, tình trạng
phân biệt giới tính với những não trạng còn xót lại từ thời phong kiến, vẫn tạo ra những
bất công với người phụ nữ. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến mối liên hệ giữa quyền phụ
nữ và quyền được sống của thai nhỉ, vì lẽ, có những phong trào mang danh “Nữ Quyền”
để đòi “ Quyền Phá Thai”.
Tuy nhiên vấn đề mà chúng tôi muốn đề cập đến ở đây là liệu rằng việc đòi quyền
phá thai có phải là một quyền hay một tự do cá nhân không? Hay đó lại trở thành một vấn
nạn của xã hội? Và liệu rằng nếu quyền phá thai được coi là quyền riêng tư của người mẹ
vậy thì còn quyền sống của các thai nhi thì sao? Với chúng tôi, như đã phân tích ở phần
“Quyền sống của thai nhi”, chúng tôi luôn khẳng định thai nhi hoàn toàn có đầy đủ quyền
được sống như những con người, và thực chất việc bảo vệ sự sống của thai nhi cũng đồng
nghĩa với việc tôn trọng và bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ. Còn vấn đề phá thai có
ảnh hưởng đến quyền riêng tư của người mẹ có lẽ đó là do suy nghĩ và quan điểm cá nhân,
và cũng là do một số nguyên nhân mà người mẹ cho rằng nó ảnh hưởng đến quyền riêng
tư của bản thân, dưới đây sẽ là một số suy đoán của chúng tôi về những lý do đó:



“Tôi được quyết định mọi thứ trên cơ thể tôi”
Đây chính là điểm mấu chốt để hình thành cơ sở của các phong trào nhân danh “Nữ
Quyền” đề đòi quyền phá thai. Họ cho rằng, họ có quyền mọi thứ trên cơ thể họ.Đây là
điều hoàn toàn đúng. Bất kể người nào dù nam hay nữ ở bất cứ đấu đều có quyền quyết
định trên cơ thể mình, miễn điều này không ngược lại đến sự tự do và ảnh hưởng đến
người khác. Tuy nhiên, đây là một trường hợp đặc biệt: Một thai nhi là một con người
thực thụ hay là một bộ phận ( như tay chân, mắt, mũi miệng v.v)? Nếu câu trả lời là một
bộ phận thì người ta có quyền quyết định trên nó, còn ngược lại nếu là con người thực thụ
thì không bao giờ được phép. Vậy thì làm sao có thể biết được đâu là bộ phân đâu là con
người? Trên hình thức, chúng ta thấy thai nhi nằm trong cơ thể người mẹ, phải chăng có
thể kết luận: nó là bộ phận? Như đã nói đây là một trường hợp đặc biệt, vì vậy nếu chỉ trên


hình thức chúng ta không bao giờ chạm được cốt lõi của vấn đề. Sinh học trả lời cho
chúng ta điểm khác biệt: “mọi mô trong cơ thể đều chứa cấu trúc ADN nguyên vẹn của
một cá thể”. Điều đó có nghĩa, mỗi bộ phận trên cơ thể chúng ta đều chứa ADN có cấu
trúc giống nhau. Nếu chúng ta lấy một mô ở tay và một mô ở chân để so sánh , chúng ta sẽ
thấy nó có sự tương đồng hoàn toàn với nhau. Trong khi thai nhi là một cá thẻ mang ADN
có những điểm tương đồng với người mẹ nhưng nó không giống hoàn toàn với người mẹ,
mà nó là một sự riêng biệt hoàn toàn. Chính điều này chúng ta có thể phân biệt được điểm
khác nhau giữa một bộ phận và một con người. Tuy thai nhi sống phụ thuộc vào người mẹ
nhưng nó phát triển và trở thành một con người thực sự sau 9 tháng 10 ngày. Không một
bộ phận nào có thể làm được điều này.“Nếu nó không là người thì nó sẽ không phát triển
được thành người” Dựa trên cơ sở này, chúng ta dễ dàng nhận thấy bào thai là một con
người với các đặc tính của mình chứ không phải là một bộ phận của người phụ nữ. Vậy
nên, người phụ nữ được phép làm mọi thứ trên cơ thể mình với các bộ phận cơ thể mình
chứ không phải với bào thai- một con người thật sự.
Và liệu việc phụ nữ đòi quyền phá thai– là bỏ đi một bộ phận hay là giết người?
Theo chúng tôi, thì việc phá thai là hành động đã giết hại một sinh mạng nhỏ bé, những
bào thai ấy sẽ ra đời và phát triển bình thường và trở thành những con người như chúng ta,

vì thế không một ai có quyền cướp đoạt đi sinh mệnh của đứa trẻ, dù cho đó có là người
mẹ.


Quyền Phụ Nữ giúp người phụ nữ chống lại các định kiến về xã hội. Có lẽ đây là nguyên
nhân thứ hai để người mẹ đòi quyền phá thai, hay nói cách khác là đòi quyền phụ nữ.
Theo như một nghiên cứu tại hoa kỳ, Đến 93% các nguyên nhân dẫn đến việc phá
thai đó chính là những áp lực từ xã hội. Chức năng làm mẹ của người phụ nữ vượt qua cả
bản năng trong tụ nhiên, vì thứ người phụ nữ cưu mang là một con người thực thụ. Chính
vì vậy, người Việt chúng ta dùng từ “thiên chức” để nói về khả năng tuyệt với này. Tuy
nhiên, do chính những định kiến xã hội đã khiến nhười phụ nữ phải từ bỏ cái “thiên chức”
ấy đi, những áp lực về định kiến xã hội như việc: Không chồng có chửa, còn đi học mà có


con, cưới xin gì đâu… rõ ràng những điều này mang đến cho người phụ nữ những sợ hãi
và họ phải từ bỏ đứa con của mình. Cho nên họ cho rằng, để đảm bảo quyền riêng tư nói
chung hay quyền phụ nữ thì họ phải có quyền phá thai.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, nếu phải bỏ đi đứa con của mình, nếu đòi quyền phá thai
để bảo vệ quyền riêng tư của bản thân thì tại sao lại không nghĩ đến những phương án
mang tính chất nhân văn và có hiểu quả lâu dài hơn.Giải phóng phụ nữ đòi quyền bình
đẳng, tại sao chúng ta lại không giải phóng phụ nữ khỏi những định kiến này để họ có thể
sống với thiên chức của mình. Ý nghĩa của việc bình đẳng giới chính là việc người phụ nữ
được trả lại đầy đủ các quyền và sự tham gia của mình. Giải phóng phụ nữ hoàn toàn phải
là việc khi nào người phụ nữ không bị các vấn đề cản trở cho quyền làm mẹ căn bản của
họ.


Vì là bé gái, nên con không được sống
Ở Việt Nam hiện nay, một số gia đình vẫn tồn tại những tư tưởng trọng nam khinh
nữ, tuy không phải là nhiều nhưng nó vẫn là một trong những nguyên nhân để người phụ

nữ đòi quyền phá thai, và đặc biệt tình trạng xảy ra nhiều nhất chính là phá bỏ những bài
thai mang giới tính là nữ. Ví dụ, ở một gia đình đã có 2 hoặc 3 bé gái, đứa trẻ trong bụng
người mẹ lại tiếp tục là một bé gái, vì vậy người mẹ muốn có quyền phá bỏ đi đứa bé vì
một lập luận đơn giản như sau: gia đình chồng tôi muốn có con trai nối dõi chứ không
phải lại là một đứa con gái, nếu sinh đứa con gái này ra gia đình chúng tôi sẽ gặp nhiều
khó khăn hơn, vì thế tôi có quyền từ bỏ đứa bé này, đây là quyền riêng tư của cá nhân.
Tại các quốc gia có nạn phá thai cao như: Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… người ta
nhận thấy rằng một trong những nguyên nhân dẫn đến phá thai đó chính là:phân biệt giới
tính. Các bé gái trở thành gánh nặng cho các gia đình. “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô” Vì vậy, một khi biết là bé gái họ thường phá bỏ. Đây có phải là một bất công lớn nhất
thách thức đe dọa đến Quyền Phụ nữ. Nếu ngay cả Quyền Sống của những bé gái không
được đảm bảo thì chúng ta đều phải đặt vấn đề với tất cả các quyền còn lại. Chínhviệc phá
bỏ các bé gái, đã khiến nhiều quốc gia lâm vào tình huống mất cân bằng giới tính. Các nhà


chính sách giật mình và bắt đầu loay hoay với các giải pháp như: cấm siêu âm giới tính
thai nhi. Các giải pháp này đều chỉ là mang tính cách tạm thời mà không thể giải quyết
được vấn đề, việc tìm kiếm các cơ sở siêu âm để biết giới tính trở nên rất dễ dàng.Và vì
thế, vấn nạn vẫn không được giải quyết. Phải chăng đòi quyền phụ nữ cũng phải đòi
quyền sống cho những bé gái vì nạn phân biệt giới tính mà phải chết.
Đó là một số quan điểm và nguyên nhân chủ yếu khiến các bà mẹ đòi quyền phá thai, còn
theo chúng tôi, lại có quan điểm hoàn toàn ngược lại, và chúng tôi cho rằng quyền đòi tự
do phá thai thực chất ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi của người phụ nữ, quyền được
sống của những bào thai và thực chất đây là một vấn nạn xã hội hơn là một quyền hay một
tự do của cá nhân:


Quyền tự do lựa chọn phá thai của người phụ nữ là không công bằng
Nếu nói rằng, người phụ nữ có quyền tự do quyết định phá thai thì thật không công
bằng. Thai nhi không phải chỉ liên quan đến người phụ nữ mà thai nhi còn có mối tương

quan đến người cha của nó. Không những thế thai nhi còn có cả mối tương quan đến các
quan hệ ruột thịt khác như ông bà, anh em hay thậm chí tương quan đến cả cộng đồng xã
hội. Chẳng lẽ những tương quan ấy không có quyền gì khi sinh mạng nhỏ bé đó có nguy
cơ bị hủy diệt ?
Người phụ nữ không thể tự mình mà có thai, trách nhiệm của người cha và người
mẹ đối với thai nhi là như nhau. Vậy tại sao, chỉ vì quyền tự do lựa chọn của người nữ mà
người nữ có thể đơn phương hành động mà không cần đến ý kiến quyết định của người
nam ? Cho dù trong trường hợp người phụ nữ đó có thai bất hợp pháp hay người cha
không quan tâm đếm xỉa đến giọt máu của mình thì người phụ nữ cũng hoàn toàn không
có quyền phá thai, vì dẫu sao, thai nhi cũng là kết quả của một chuỗi các hành vi có nhận
thức của người phụ nữ.
Chúng ta cũng không thể nói: tôi làm ra nó, nên nếu tôi không muốn nó tồn tại thì
tôi có quyền phá hủy nó đi. Tương tự như với đồng tiền: tôi làm ra tiền, tôi sở hữu nó hợp


pháp, tôi có quyền sử dụng tiền để giao dịch hay cho đi v.v... nhưng tôi lại không có
quyền cố ý phá hủy tờ giấy tiền hay đồng tiền cắc, luật pháp đâu có cho phép như vậy.
Quyền sống là quyền của tất cả mọi người đã được nêu rõ trong Tuyên Ngôn Quốc Tế về
Nhân Quyền, Không ai có quyền quyết định mạng sống của người khác, vậy tại sao lại có
chuyện người phụ nữ lại có quyền tự do lựa chọn chuyện phá thai được? Thật bất công
cho những đối tượng có liên quan và trên hết là bất công cho chính những thai nhi bị hủy
hoại.


Quyền tự do lựa chọn phá thai của phụ nữ thực tế là vô trách nhiệm
Trách nhiệm là điều phải làm, phải gánh vác, phải nhận lấy về mình. Chúng ta phải
công nhận với nhau rằng: cha mẹ luôn luôn có trách nhiệm bảo vệ, nuôi dưỡng và giáo
dục con cái. Câu hỏi được đặt ra là: khi nào thì cha mẹ có trách nhiệm này ? Khoa học đã
chứng minh rằng: các thai nhi có khả năng nhận thức được nhiều điều ngay khi còn trong
bụng mẹ. Thai nhi có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể nhận biết được những cử chỉ âu

yếm vuốt ve hay tiếng nói từ cả cha lẫn mẹ. Vì thế không phải khi sinh con ra rồi cha mẹ
mới có trách nhiệm với con của mình, nhưng mặc nhiên trách nhiệm này đã có ngay khi
biết thai nhi đã hiện diện trong cung lòng người mẹ. Đặc biệt là trách nhiệm bảo vệ Sự
Sống cho thai nhi.
Ngày nay, y khoa còn yêu cầu đối với các bậc cha mẹ phải có kiến thức và sự sắp
sẵn chu đáo khi chuẩn bị có con. Sự chuẩn bị về tinh thần và thể chất đặc biệt quan trọng
cho người mẹ vì có liên quan mật thiết đến sự phát triển của thai nhi.
Do đó, lợi dụng quyền tự do lựa chọn phá thai chính là chối bỏ trách nhiệm làm cha làm
mẹ. Đó là một hành vi vô trách nhiệm. Chúng ta không thể vịn vào bất cứ lý do nào để từ
bỏ trách nhiệm này, một trách nhiệm thuộc loại mặc nhiên dù muốn hay không muốn cũng
phải gánh vác và chu toàn cho hợp với lẽ phải.
Trong cuộc sống, con người vẫn có những trách nhiệm mặc nhiên như thế.Ví như
trường hợp trên chiến trường vị sĩ quan cao nhất tử trận thì trong khi chờ đợi một chỉ thị
nào đó thì viên sĩ quan cấp phó đương nhiên phải giữ trách nhiệm của người đã hy sinh,


anh không có quyền từ chối trách nhiệm này. Cũng thế, khi mang thai người phụ nữ
không có quyền từ chối trách nhiệm bảo vệ cho đứa con trong bào thai của mình. Ít ra chị
cũng phải cho nó chào đời. Và một khi đứa bé đã chào đời, nếu vì một lý do nào đó chẳng
đặng đừng, chị cũng không có quyền mang con đi vứt hay thủ tiêu đứa bé mà phải bằng
cách nào đó đảm bảo cho đứa bé có cơ hội sống sót.
Chúng ta từng thấy cả xã hội và luật pháp lên án và trừng phạt các bà mẹ đem bỏ
con vào sọt rác cho ruồi bu kiến đốt hay như trường hợp cách đây không lâu, một cháu bé
đã bị dã thú ăn hết cả hai chân. Thế mà oái oăm, những bà mẹ giết con ngay trong bụng
mình lại được một thứ quyền do luật pháp bảo vệ. Một nghịch lý mà người ta cố tình chấp
nhận để theo đuổi một mục đích ích kỷ tàn nhẫn nào đó.


Lợi dụng quyền tự do lựa chọn phá thai là sỉ nhục đến phẩm giá của người phụ nữ
Nói theo khoa học thì là tự nhiên, nói theo tôn giáo hay tâm linh thì là thiên tính.

Mang thai là một đặc ân thiên tính mà Thiên Chúa đã phú ban cho người phụ nữ để duy trì
Sự Sống trên trái đất này. Làm mẹ là một trong những phẩm giá cao quý của người phụ
nữ. Từ thời khai sinh lập địa đến nay, chưa có một nền văn hóa nào không ca tụng hình
ảnh người mẹ ngoại trừ Văn Hóa Sự Chết chủ trương phá thai. Một khi người phụ nữ phá
thai cũng chính là lúc chị đã hạ thấp phẩm giá chính mình vì chị đã từ chối đặc ân làm nên
phẩm giá người phụ nữ.
Ngày nay, nhiều phụ nữ thường lập luận một cách sai lầm rằng, thà hy sinh một vài
đứa để có cơ hội tốt hơn cho những đứa còn lại.Như thế thật không công bằng cho những
đứa bị hy sinh và những đứa còn lại sống bằng giá máu của anh chị em nó. Một người mẹ
như vậy đã làm tổn thương cho con cái liệu có còn xứng đáng với danh xưng và phẩm giá
cao quý nữa hay không ? Một người mẹ cao quý là người mẹ dám chấp nhận hy sinh dù là
mạng sống của mình để cho con chứ không thể là người mẹ dùng máu của đứa con này
nuôi dưỡng đứa con khác thay vì phải hy sinh chính mình.
Phẩm giá của người phụ nữ không thể có được bằng lối sống ích kỷ, nhưng phẩm giá chỉ
đạt được khi người phụ nữ biết cho đi cái tôi của mình. Người ta đã từng thống kê và


chứng minh rằng những phụ nữ đã từng phá thai đều có những mặc cảm tổn thương sâu
sắc rất khó chữa lành trong thiên chức làm mẹ, họ bị day dứt, luôn cảm thấy có lỗi vì đã
đối xử bất công đối với chính con mình


Quyền tự do lựa chọn phá thai sẽ làm mất tự do của người phụ nữ
Ngoài định nghĩa về tự do như trên, ngày nay người ta nói đến nhiều về tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng, tự do tinh thần… Tuy nhiên, trong quyền tự do lựa chọn để phá
thai, thoạt nghe qua, chúng ta có thể ngộ nhận là chúng ta có tự do, có dân chủ, có công
bằng. Có thật thế không ? Vì chúng ta được phép phá thai mà không ai có quyền ngăn cản;
phá thai xong chúng ta tự do hơn vì không phải vướng víu vào trách nhiệm lo cho con cái,
chúng ta được rảnh rang hơn để có nhiều thời gian hưởng thụ hơn. Nghe thì thật hay
nhưng chúng ta phải biết, con người có hai mặt thể xác và tinh thần.

Phá thai, đó chỉ là một sự vô trách nhiệm được ẩn giấu trong những cái tưởng như hoàn
hảo. Nhưng khi bước vào cuộc, tinh thần chúng ta lại bị giam hãm trong ngục tối của
“Văn hóa sự chết”. Cái chết oan ức của thai nhi sẽ hàng ngày ám ảnh và kêu gọi công lý
khiến chúng ta mãi mãi không còn cảm thấy bình an trong tâm hồn. Một khi tâm hồn bị
giam hãm, liệu chúng ta có còn cảm thấy sự tự do thật sự ? Bởi một sự thật luôn luôn
chứng minh rằng: trong tự do thật sự thì phải có bình an ngự trị.
Như vậy, quyền tự do lựa chọn để phá thai của người phụ nữ chẳng qua chỉ là một ngôn từ
sáo rỗng nhằm để ngụy biện cho một chuỗi các hành vi nhắm đến một mục tiêu ích kỷ, nó
được ẩn giấu trong một loạt những quyền lựa chọn chính đáng của người phụ nữ. Dĩ
nhiên, người phụ nữ có quyền tự do lựa chọn công việc, lựa chọn bạn đời, lựa chọn những
hành vi tác động trực tiếp lên thân thể như sửa sang sắc đẹp, tất cả những lựa chọn không
làm ảnh hưởng đến sinh mạng của người khác. Thế nhưng người phụ nữ không hề có
quyền tự do lựa chọn để phá thai, vì không ai có quyền quyết định mạng sống của người
khác dù người đó có là tổng thống hay là một ông hoàng nào đó đi nữa.
4.Vấn đề bảo vệ quyền sống của thai nhi, và vấn đề nạo phá thai nhìn dưới góc độ
đạo đức, xã hội, pháp luật


4.1. Bảo vệ quyền sống của thai nhi
Như đã nói ở trên, trên cơ sở công ước quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em phải đc
bảo vệ pháp lý thích hợp trước và sau khi sinh.Như vậy ngay khi hình thành bào thai, thai
nhi đã có quyền được bảo vệ về quyền sống và được sống.
Có hai vấn đề quan trọng cần phải giải quyết để đảm bảo được vấn đề bảo vệ quyền sống
của thai nhi đó là: Vấn đề nạo phá thai và vấn đề bảo vệ thai nhi trước những hành động
hành hạ, đánh đập thai phụ dẫn đến sảy thai, mà ở những mục tiếp theo chúng tôi sẽ đề
cập với các bạn một cách rõ ràng và cụ thể hơn.
4.2.Vấn đề nạo phá thai dưới góc độ đạo đức
Đây là một vấn đề đạo đức cần cả xã hội quan tâm. Theo thống kê của Quỹ Dân số
Liên hiệp quốc, Việt Nam hiện là một trong 5 nước có phụ nữ phá thai cao nhất thế giới,
đứng đầu trong khu vực đông Đông Nam Á và cũng có tỷ lệ sinh con ở tuổi 15-19 cao, ở

mức 46/1.000 trường hợp.Nếu năm 2010 tỷ lệ nữ vị thành niên phá thai là 2% trong tổng
số ca nạo phá thai thì năm 2013 con số này đã tăng gấp đôi.


Phá thai không những ảnh hưởng đến sức khỏe mà đó còn là lương tâm của một con
người.Dưới góc độ đạo đức thì đó là 1 hành động dễ dãi, một thái độ thờ ơ, vô cảm, một
hành động thiếu đạo đức.


Thậm chí một số bạn trẻ còn cho rằng: “Không nuôi được thì bỏ. Phá đau nhưng chỉ một
lúc thôi sau này đẻ đau hơn…” - Những câu nói vô cảm như thế này khiến không ít người
giật mình suy nghĩ, liệu có phải đó là cách sống buông thả, có phần xuống cấp về đạo đức
của một bộ phận giới trẻ. Đó thực sự là một sa mạc lương tâm không có chút tia nước



nguồn thương nào dành cho đứa bé vô tội.
Và chúng ta sẽ cảm thấy bàng hoàng, rợn người khi thấy những “Nghĩa địa ảo”- nơi
“chôn” bao sinh linh nhỏ bé không có số được làm người. Hàng loạt những ngôi mộ



online đã được ghi những dòng chữ lạnh người: 4 tuần tuổi, 6 tuần, 8 tuần, 32 ngày…
Nhìn sâu hơn thì việc nạo phá thai sẽ phần nào làm nhân cách con người đi xuống, không
tuân theo chuẩn mực đạo đức, dần dần cảm xúc sẽ bị trai sạn và dễ dẫn tới những hành vi
sai trái.


Chúng tôi, muốn nhìn nhận vấn đề nạo phá thai dưới một khía cạnh nữa của đạo
đức. Chúng tôi, bạn, mỗi chúng ta, được sinh ra và lớn lên trong sự yêu thương, bao bọc

của cha mẹ thì hẳn chúng ta đều là những đứa trẻ được hưởng trọn sự hạnh phúc. Vậy còn
những đứa trẻ không may mắn, được ra trong hoàn cảnh ngoài ý muốn của bố mẹ và gia
đình, liệu rằng lớn lên trong một môi trường như vậy, đứa trẻ đó có được phát triển một
cách bình thường và toàn diện hay không. Nếu một đứa trẻ lớn lên cùng với những suy
nghĩ: mình sinh ra là một gánh nặng của cha mẹ, cha mẹ đã muốn phá bỏ mình từ trong
trứng nước, mình sinh ra chỉ là dự định ngoài ý muốn, chúng tôi tin chắc rằng, những đứa
trẻ đó ít nhiều sẽ bị ảnh hưởng về việc phát triển về tâm lý cũng như tính cách, và tất
nhiên, cái gọi là tình cảm gia đình, tình thân ruột già máu mủ cũng sẽ bị ảnh hưởng rất
nhiều. Vậy xét về góc độ đạo đức, tình cảm cha mẹ con cái hay nói cách khác là tình cảm
trong gia đình bị ảnh hưởng và xuống dốc thì tất yếu những giá trị tinh thần, những tình
cảm giữa người với người trong xã hội cũng bị ảnh hưởng theo rất nhiều, bởi vì mỗi gia
đình đều là tế bào của xã hội. Chúng tôi thiết nghĩ, việc nạo phá thai chưa nói về nhìn
nhận dưới góc độ pháp luật hay xã hội, chỉ nhìn về góc độ đạo đức thôi, cũng đủ ảnh
hưởng tiêu cực, nó làm hao mòn đạo đức của con người và ảnh hướng rất lớn tới sự phát
triển của xã hội về mặt đạo đức.
4.3.Vấn đề nạo phá thai dưới góc độ xã hội
Ở nước ta, nạo phá thai là vấn đề nghiêm trọng, thường bị cả xã hội dị nghị và
không đồng tình, thậm chí là lên án.
Hiện nay nạo phá thai ngày càng trở nên phổ biến, không chỉ nguy hiểm đến người mẹ mà
còn nguy hiểm cho tương lai của một xã hội khi vấn đề chênh lệch giới tính ngày càng
cao.
Nạo phá thai ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa, mọi người luôn có cái nhìn ko tích
cực về vấn đề này.Một xã hội văn minh thì ko thể có những vấn đề này xảy ra.
Theo đề xuất của chúng tôi, hiện nay vấn đề nạo phá thai đã được xã hội nhận thức một
cách đúng đắn hơn, tuy nhiên, muốn giải quyết được vấn đề nạo phá thai một cách tràn lan


như hiện nay thì cũng cần sự chung tay ủng hộ và tiếng nói đồng thuận của cả xã hội để
ngăn cấm hành vi nạo phá thai và để bảo vệ cho sinh mệnh của những bào thai nhỏ bé
này.

4.4.Vấn đề nạo phá thai dưới góc độ pháp luật
Hiện nay việc nạo phá thai đã được cấm trong pháp luật ở một số nước, trừ trường
hợp thai nhi mắc dị tật bẩm sinh hoặc ảnh hưởng đến tính mạng người mẹ, có 8 quốc gia
đã cấm tuyệt đối nạo phá thai:



Bắc Ireland có luật cấm tuyệt đối nạo phá thai trừ trường hợp bất khả kháng.
Ba Lan là một trong những quốc gia có tỷ lệ nạo phá thai thấp nhất thế giới. Luật pháp
nước này quy định rất chi tiết về những trường hợp nào được phép nạo phá thai và có chế



tài xử phạt nghiêm ngặt với các trường hợp nạo phá thai chui
Mexico là quốc gia có luật cấm nạo phá thai hà khắc nhất châu Mỹ với quy định thai nhi
từ 12 tuần tuổi trở lên được coi là một công dân và việc nạo thai trên 12 tuần tuổi sẽ được



khép vào tội giết người.
Chilê và đảo quốc Malta là những quốc gia có luật cấm nạo phá thai cực kỳ nghiêm ngặt.
Dù là bị hiếp dâm đến mang thai hay thậm chí là thai nhi gây nguy hiểm cho người mẹ



cũng không được phép nạo phá.
Ngoài ra còn có Bắc Triều Tiên, El Salvador cũng có quy định nghiêm cấm việc nạo phá




thai dưới mọi hình thức và trong mọi hoàn cảnh.
Ở Việt Nam, điều 243 Bộ luật hình sự đã quy định về tội phá thai trái phép, gây hậu quả
rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.Nhìn chung pháp luật đã có những quy
định về vấn đề này, tuy nhiên ở nước ta vẫn dừng ở mức độ phạt hành chính, và vẫn còn
chưa có những quy định về pháp luật chặt chẽ và cụ thể để ngăn chặn vấn đề nạo phá thai
một cách tùy tiện như ở Việt Nam hiện nay.


Chương 2. Pháp luật và thực tiễn việc bảo đảm quyền sống của thai nhi
1. Pháp luật quốc tế về vấn đề quyền sống của thai nhi
“Bên trong trẻ nhỏ là vận mệnh tương lai”
“Trẻ nhỏ vừa là hy vọng, vừa là lời hứa hẹn của nhân loại” _ (Maria Montessori)
Đó là những câu nói bao hàm đầy ý nghĩa về trẻ em. Tất cả trẻ em sinh ra trên thế
giới đều may mắn, dù sinh ra trong một gia đình như thế nào. Chỉ vì chúng có cơ hội sinh
ra làm người, để học hỏi và có kinh nghiêm thăng tiến. Tuy nhiên vì những lý do khác
nhau, nhiều em bé không được sinh ra. Chúng không có đến ngay cả một cơ hội để hít thở
bầu không khí mặc dù sự sống của chúng vừa được hình thành rõ rệt, nhưng chúng bị tước
mất quyền được sống.
Vấn đề chúng ta đề cập đến ở đây là “Pháp luật quốc tế về quyền sống của thai nhi”
đây là vấn đề nằm trong ranh giới gây tranh cãi, nó đi ngược với quyền tự do riêng tư của
người phụ nữ. Theo như lời nói đầu của “Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989”
nêu rõ: “trẻ em cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp pháp lý
trước cũng như sau khi ra đời.”
Vậy câu hỏi đặt ra là trước khi ra đời là tính từ thời điểm nào? Đó vẫn là câu bỏ
ngỏ, khe hở của luật pháp về vấn đề này. Khi xét bao quát hơn thì quyền sống là quyền cơ
bản và đặc biệt quan trọng của con người được ghi nhận trong điều 3 “Tuyên ngôn Nhân
quyền quốc tế” năm 1948: Mọi người đều có quyền sống tự do và an toàn cá nhân “Nội
dung trên lại tiếp tục được cụ thể hóa trong điều 6 ICCPR khoản 1: “Mọi người đều có
quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ.Không ai có thể bị

tước mạng sống một cách tùy tiện.”Bên cạnh đó cũng có rất nhiều phiên họp được đưa ra
để thống nhất, bình luận thông qua vấn đề. Điển hình như phiên họp lần thứ 16 của
UNHRC thông qua bình luận chung số 6 hay bình luận chung số 14 cũng được thông qua
(phiên họp lần thứ 23) nhấn mạnh nội dung quyền sống với những điểm như sau:




Thứ nhất, quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào



cũng không thể vi phạm.
Thứ hai, quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng. Hơn
thế quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người. Theo
cách tiếp cận này, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quôc gia phải thực thi những
biện pháp để làm giảm tỉ lệ tử ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của người dân, bao gồm



cả biện pháp chủ động và thụ động.
Thứ ba, Một trong số các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến tranh và các tội
phạm nghiêm trọng (diệt chủng,…) . Vì vậy việc chống chiến tranh và các tội phạm này



cũng là sự bảo đảm quyền sống.
Thứ tư, phòng chống những hành động tội phạm gây nguy hại, tước đoạt tính mạng con
người cũng là biện pháp hết sức quan trọng để đảm bảo quyền sống. Các quốc gia thành
viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tùy tiện tước đoạt tính




mạng con người do bất kì chủ thể nào gây ra, kể cả do các lực lượng an ninh nhà nước.
Thứ năm, mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và quyền sống, mặc dù ICCPR không bắt
buộc các quốc gia thành viên phải xóa bỏ hình phạt tử hình tuy nhiên các quốc gia có



nghĩa vụ phỉa hạn chế sử dụng nó, chỉ áp dụng với những trường hợp cực kì nghiêm trọng.
Vấn đề quyền sống được đưa ra theo cả chu trình sống của con người, từ khi được
hình thành trong phôi thai cho đến khi mất đi. Trên giấy tờ nguyên tắc là vậy, tuy nhiên
trong thực tế pháp lý gây tranh cãi về quyền sống của thai nhi và liệu bào thai có được coi
là con người và được hưởng các quyền chính đáng của con người?. Hiện nay dư luận có



ba luồng quan điểm khác nhau về vấn đề:
Quan điểm thứ nhất: cho rằng quyền sống bắt đầu từ thời điểm quá trình thụ tinh thành




công (không phân biệt tự nhiên hay nhân tạo). [3]
Quan điểm thứ hai: cho rằng quyền sống bắt đầu khi đã hình thành phôi thai (embryo).[3]
Quan điểm thứ ba: cho rằng quyền sống bắt đầu từ khi đứa trẻ sinh ra và còn sống.[3]
Sở dĩ có nhiều luồng quan điểm như vậy vì vấn đề nay liên quan đến bài toán pháp
lý về việc “cho phép hay không vấn đề nạo phá thai”. Vấn đề này từ trước đến nay đa số
pháp luật quốc tế, công ước quốc tế, tòa án quốc tế đã quy định, thiết lập rõ rang rằng : bất



kỳ biện pháp bảo vệ bào thai trước khi sinh ra đều phải phù hợp với quyền con người của
phụ nữ. Tuy nhiên trên thế giới, có rất nhiều quốc gia áp dụng khuôn khổ, pháp lý khác
nhau để giải quyết vấn đề này, ví dụ như:


Ở Chile và Guatamala và một số quốc gia khác, họ thừa nhận sự sống của các bào thai là



một quyền hiến định được ghi trong Hiến Pháp.
Trong khi đó có một số quốc gia, họ ghi nhận, khẳng định sự sống, sự ràng buộc của đứa
con phụ thuộc hoàn toàn vào người mẹ, đặt quyền lợi của bà mẹ lên trên hết như ở Balan,




Nhưng cũng có rất nhiều quốc gia như: Philippines, Ireland ,... họ lại dung hòa , đảm bảo
công bằng cho cả hai bên giữa thai và mẹ trong Hiến Pháp.
Xu hướng trên thế giới về nhân quyền ngày càng thay đổi, phát triển một số nhóm chiến
lược, quốc gia đang thúc đẩy công nhận quyền được sống của thai nhi trong quá trình lập
pháp, cải cách ,… Ví dụ như :



Năm 2007 ở Slovakia các thành viên Quốc hội nước này đã đề nghị, thách thức tính hợp
hiến của pháp luật về việc phá thai của nước này, cho rằng Hiến Pháp cần bảo veeh quyền
sống trước khi sinh. Tuy không được chấp thuận nhưng điều đó cho thấy sự thay đổi trong




quan niệm bắt đầu sự sống cả con người.
Năm 2010, Cộng hòa Dominica đã thông qua bản Hiến Pháp mới trong đó công nhận



quyền được sống từ lúc thụ thai.
Từ năm 2008 có ít nhất 16 tiểu bang Mexico đã sửa đổi Hiến Pháp để bảo vệ quyền được



sống từ khi thụ tinh hoặc thụ thai.
Hiện nay quyền sống cũng đang là vấn đề chú ý ở châu Âu: điển hình như là chiến dịch
“Một người của chúng ta” – (chủ tịch và sáng lập viên là ông Carlo Casini ) , chiến dịch
vận động với mục đích để có ba tuyên bố của ba nhóm sau đây :
1.
Các bác sĩ sẽ quả quyết rằng xét về phương diện khoa học, bào thai đã là một hữu
thể nhân bản.
2.
Các luật gia sẽ yêu cầu để nguyên tắc bình đẳng cũng được áp dụng cho trẻ vừa thụ
thai


3.

Các chính trị gia sẽ chấp nhận nguyên tắc mọi hành vi chính trị phải phục vụ lợi ích

chung.
“Quyền” phá thai đang xuống dốc tại châu Âu. Tiến sĩ Gregor Puppinck, giám đốc
trung tâm Luật Pháp và Công Lý châu Âu thì chú trọng tới khía cạnh tiêu cực của “quyền”

được phá thai. Thực vậy, tỉ lệ các quốc gia đặt điều kiện cho phá thai trong những tuần lễ
đầu tiên của thai kì ngày càng tăng, họ đang mở lại cuộc tranh luận về phá thai và duyệt
lại luật lệ theo chiều hướng hạn chế. Ta có thể nói đây là một xu hướng, đa số đều ngả về
hướng coi phá thai như một vấn nạn xã hội hơn là một quyền hay một tự do cá nhân.
Ngoài trường hợp Tây Ban Nha là nước đang xem xét việc loại bỏ phá thai theo yêu cầu
thì Nghị viện Anh cũng thường xuyên xem xét việc giảm thời gian hợp pháp để phá thai
cũng vì thế mà đến đầu tháng 1/2014 đã hoàn toàn ngăn cấm việc phá thai sau 22 tuần của
thai kỳ (là định mức để trẻ sơ sinh sống còn ngoài tử cung theo quyết định của tổ chức y tế
thế giới). Tại Thụy Sĩ, một số sáng kiến trưng cầu ý dân về việc chấm dứt tài trợ công
cộng cho việc phá thai theo yêu cầu đã được đưa ra. Ngày 10/6/2013, Macedonia cũng đã
thông qua một luật mới mạnh mẽ tăng cường việc bảo vệ sự sống sau 10 tuần của thai kỳ.
Từ năm 2011, chính phủ Nga cũng theo đuổi một chính sách coi phá thai không còn được
sử dụng như một phương pháp ngừa thai nữa. Còn đối với Thổ Nhĩ Kỳ, vào tháng 5/2012,
chính phủ nước này công bố cá kế hoạch nhằm giảm thời gian hợp pháp để phá thai từ 10
tuần xuống còn 6- 4 tuần, tuy nhiên vì áp lực mạnh mẽ của cá nước châu Âu thay đổi này
đã bị hủy bỏ. Điều đáng chú ý hơn ở xu hướng này đó chính là Hoa Kỳ nơi mà chỉ có 12%
dân số cho rằng phá thai là điều có thể chấp nhận được về phương diện luân lý. Ngày
10/12/2013, Quốc Hội châu Âu bác bỏ nghị quyết muốn phá thai thành một quyền căn
bản, mặt khác Quốc Hội lên án việc phá thai về việc lựa chọn giới tính của Trung Quốc
(Trích: GiuseAnBinh.net). Cả về chính trị lẫn pháp lý, luật ở châu Âu không đảm bảo
quyền phá thai, luật quốc tế cũng không, nó chỉ bảo đảm quyền sống cho mọi người và
khuyến khích các quốc gia giảm thiểu việc phá thai.


2. Pháp luật Việt Nam về vấn đề quyền sống của thai nhi

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa coi thai như là một con người có tư cách pháp
nhân, và chưa có những đạo luật cụ thể nào để bảo vệ quyền sống của thai nhi. Như đã đề
cập ở phần vấn đề bảo vệ quyền sống của thai nhi, vấn đề quan trọng đặt ra cần phải giải
quyết để nâng cao và bảo vệ vấn đề quyền sống của thai nhi: Vấn đề nạo phá thai và vấn

đề bảo vệ thai nhi trước những hành động hành hạ, đánh đập thai phụ dẫn đến sảy thai.
Quyền sống là quyền của tất cả mọi người đã được nêu rõ trong Tuyên Ngôn Quốc Tế về
Nhân Quyền, Không ai có quyền quyết định mạng sống của người khác, vậy tại sao lại có
chuyện người phụ nữ lại có quyền tự do lựa chọn chuyện phá thai được ? Thật bất công


cho những đối tượng có liên quan và trên hết là bất công cho chính những thai nhi bị hủy
hoại. Khoa học đã chứng minh rằng: các thai nhi có khả năng nhận thức được nhiều điều
ngay khi còn trong bụng mẹ. Thai nhi có thể nghe, có thể cảm nhận, có thể nhận biết được
những cử chỉ âu yếm vuốt ve hay tiếng nói từ cả cha lẫn mẹ. Vì thế không phải khi sinh
con ra rồi cha mẹ mới có trách nhiệm với con của mình, nhưng mặc nhiên trách nhiệm này
đã có ngay khi biết thai nhi đã hiện diện trong cung lòng người mẹ. Đặc biệt là trách
nhiệm bảo vệ sự sống cho thai nhi. Ở nhiều quốc gia, đã có những đạo luật nghiêm cấm
hành vi phá thai trừ trường hợp liên quan đến vấn đề sức khỏe của người mẹ, Tuy nhiên, ở
Việt Nam hiện nay, chưa có bất kỳ đạo luật riêng nào về bảo vệ sự sống của thai nhi hay
nói cách khác ở nước ta không coi các thai nhi là những con người thực thụ, và việc nạo
phá thai vẫn xảy ra thường xuyên, liên tục, diễn ra hằng ngày hằng giờ. Hiện nay, chỉ có
các quy định về việc cấm siêu âm giới tính của thai nhi mà vẫn chưa có những đạo luật cụ
thể về vấn đề phá thai và vấn đề công nhận và bảo vệ sự sống của thai nhi.
Chúng ta từng thấy cả xã hội và luật pháp lên án và trừng phạt các bà mẹ đem bỏ con vào
sọt rác cho ruồi bu kiến đốt hay như trường hợp cách đây không lâu, một cháu bé đã bị dã
thú ăn hết cả hai chân. Thế mà oái oăm, những bà mẹ giết con ngay trong bụng mình lại
được một thứ quyền do luật pháp bảo vệ. Một nghịch lý mà người ta cố tình chấp nhận để
theo đuổi một mục đích ích kỷ tàn nhẫn nào đó.
Theo chúng tôi chắc chắn cần phải có những ràng buộc pháp lý chặt chẽ hơn để giới hạn
việc nạo phá thai một cách tùy tiện như hiện nay ở Việt Nam.


)Vấn đề bảo vệ thai nhi trước những hành động hành hạ, đánh đập thai phụ dẫn đến
sảy thai:

Trong bộ luật hình sự Việt Nam, vì thai nhi không được xem là người. Nên một kẻ
nào đó, có thể sử dụng bạo lực với một phụ nữ có thai dẫn đến hư thai ( dù thai ở giai
đoạn nào ), mà không bị khép vào tội giết người. Tòa án tùy vào mức độ thương tích của
người phụ nữ mang thai, để khép kẻ sử dụng bạo lực vào tội cố ý gây thương tích. Vậy
điều này có đáng lo lắng không ?Câu trả lời là CÓ.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×