Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Nghệ thuật chùa keo hành thiện nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.82 MB, 63 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài tiểu luận này là của tôi. Đề tài này không lập
lại những đề tài nào đã nghiên cứu trước đây. Tôi xin chịu hoàn toàn trách
nhiệm về lời cam đoan này.

LỜI CẢM ƠN


Tôi xin chân thành cảm ơn trường Đại Học Sư Phạm Hà Nôi, mái
trường đã cho tôi hành trang vững chắc để bước tiếp trên con đường sự
nghiệp của mình.
Xin được bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Nghệ
Thuật đã tận tình giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập. Đặc
biệt xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô giáo Trần Tuyết Nhung, người đã
tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình hoàn thành tiểu luận.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng bài tiểu luận vẫn không tránh khỏi những
thiếu xót. Kính mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo và
đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 5 năm 2016
Sinh viên
Trần Thị Huệ

MỤC LỤC



A.PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Di tích lịch sử văn hoá có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã
hội của mỗi quốc gia, dân tộc. Bởi đó là tài sản vô cùng quý giá, là bộ phận


hợp thành nên nền văn hoá Việt Nam được lưu giữ và trường tồn từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Ở đó thể hiện bản sắc dân tộc, các sinh hoạt văn hoá tín
ngưỡng diễn ra ở các di tích có tác dụng giáo dục lòng tự hào dân tộc, lòng
yêu quê hương đất nước.
Nam Định vốn là nơi có bề dày lịch sử có những di tích văn hóa được
nhà nước xếp hạng. Tiêu biểu là chùa Keo Hành Thiện một di tích lịch sử lớn
thuộc xã Hành Thiện huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Đây là ngôi chùa
cổ được bảo tồn nguyên vẹn kiến trúc khoảng 400 năm tuổi.
Chùa Hành Thiện đặc biệt độc đáo về cả kiến trúc và điêu khắc. Điều
góp phần nên sự đặc biệt này chính là ngôi chùa xây dựng hoàn toàn bằng gỗ
quý. Trên các kèo, xà ngang được chạm khắc những hình phù điêu rất công
phu như hình Rồng, Phượng, Chim Muông, Hoa Lá tinh tế và độc đáo. Bên
cạnh đó trong chùa còn rất nhiều pho tượng lớn nhỏ khác nhau, chúng là đỉnh
cao của nghệ thuật điêu khắc trong cách diễn tả đường nét và hình khối.
Chính vì vậy việc nghiên cứu nghệ thuật chùa Keo Hành Thiện có ý
nghĩa vô cùng quan trọng giúp chúng ta hiểu thêm về công trình kiến trúc độc
đáo này. Sinh ra và lớn lên tại quê hương Nam Định, tôi muốn tìm hiểu nghệ
thuật kiến trúc, điêu khắc, nơi đã gắn bó với tuổi thơ tôi, để có thể giới thiệu
cho mọi người biết nét độc đáo về nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc của chùa
Keo Hành Thiện. Điều đó giúp chúng tôi có thêm trải nghiệm về vốn kiến
thức và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc quê hương dân tộc Việt Nam. Chính
vì thế đề tài mà tôi chọn làm bài tiểu luận tôt nghiệp là “Nghệ thuật chùa Keo
Hành Thiện Nam Định ”

4


2.Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu với mục đích là tìm hiểu thêm và làm sáng tỏ vẻ đẹp
kiến trúc, điêu khắc chùa Keo Hành Thiện Nam Định.

Giúp bản thân tôi thấy được vẻ đẹp tinh tế của đường nét trong mỗi tác
phẩm điêu khắc cũng như sự bề thế uy nghi về kiến trúc của chùa. Đem
những giá trị đó tới mọi người đồng thời áp dụng kiến thức vào công tác
giảng dạy và học có hiệu quả tốt nhất.
3.Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của đề tài “Nghệ thuật chùa keo Hành Thiện Nam Định
- Nghiên cứu lịch sử phát triển của chùa Keo Hành Thiện.
- Nghiên cứu văn hóa tín ngưỡng của chùa Keo Hành Thiện.
- Nghiên cứu nghệ thuật kiến trúc thế kỉ XVII.
- Nghiên cứu kiến trúc và điêu khắc của chùa Keo Hành Thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là chùa Keo Hành Thiện Định với nghệ thuật
kiến trúc và điêu khắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã ( khảo sát thực địa )
Sử dụng phương pháp điền dã khảo sát thực địa tại xã Xuân Hồng, huyện
Xuân Trường tỉnh Nam Định để thu thập thông tin, hình ảnh của chùa Keo
Hành Thiện.
- Phương pháp sưu tầm, nghiên cứu tài liệu
Tham khảo các bài viết, sách báo đã tìm hiểu về đề tài và có liên quan
đến đề tài từ đó có cái nhìn đúng nhất về đề tài
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Phân tích tổng hợp và hệ thống hóa các tư liệu dùng phương pháp so sánh,
đối chiếu với các tư liệu điền dã thực địa sau đó rút ra kết luận cho đề tài

5


6. Dự kiên đóng góp của đề tài
Bài tiểu luận sẽ góp phần vào công cuộc bảo tồn những giá trị văn hóa

của dân tộc. Bản thân có thêm hiểu biết về di tích, sáng tạo mới trong sáng tác
và công cuộc giảng dạy sau này. Làm tài liệu tham khảo giúp các bạn sinh
viên hiểu biết thêm về nghệ thuật chùa Keo Hành Thiện.
Đặc biệt là vấn đề giáo dục ý thức trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa lịch sử của dân tộc ở sinh viên.
7. Cấu trúc tiểu luận :
Ngoài mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu gồm hai chương là:
Chương 1. Khái quát chung về Chùa Keo Hành Thiện Nam Định có 11 trang
Chương 2. Vẻ đẹp về kiến trúc và điêu khắc của Chùa Keo Hành Thiện có 24
trang
Phần cuối của tiểu luận là Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.

6


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHÙA KEO
HÀNH THIỆN NAM ĐỊNH
1.1.Vị trí địa lý và sự phát triển
1.1.1 Vị trí
Chùa Keo Hành Thiện có tên chữ là Thần Quang Tự là một ngôi chùa ở
làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Chùa
tọa lạc trên khu đất rộng, giáp sông Hồng và sông Ninh.
Mỗi vùng đất thiêng lại có một phương vị địa thế hài hòa hợp lý về mặt
phong thủy ở nơi đó địa linh luôn sinh nhân kiệt. Một trong những vùng đất
thiêng đã được kiểm chứng qua chiều dài lịch sử hình thành và phát triển hơn
600 năm là làng Hành Thiện huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định. Nổi tiếng
không chỉ vì truyền thống khoa cử Hành Thiện còn đặc biệt bởi ngôi cổ tự
Chùa Keo Hành Thiện. Chùa tọa lạc trên khu đất phẳng rộng, giáp sông Hồng
và sông Ninh. Địa thế nơi đây rất đẹp như bài minh ở bia đá chùa đã ghi:

Biển xanh ở phía Đông
Sông Hồng quanh phía Bắc
Phía Nam sông bao bọc
Nước lững lờ chảy quanh
Làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, Nam Định vốn có tên gọi là
"Hành Cung Trang" được thành lập vào khoảng năm 1500. Đến năm 1823,
vua Minh Mạng cho đổi tên thành Hành Thiện với ý nghĩa "nơi chỉ làm những
điều lành, điều thiện" và ban cho làng 4 chữ "Mỹ Tục Khả Phong". Điều đáng
khâm phục là ngay từ khi lập làng các cư dân nơi đây đã có ý thức quy hoạch
một không gian sống hết sức khoa học, quy củ: hình cá chép (hình 1.1)

7


Bao quanh làng là hai nhánh của một con sông nhỏ rộng khoảng 7m,
được gọi là sông Con (để phân biệt với sông Cái - sông Ninh Cơ là một nhánh
của sông Hồng). Điều làm nên sự kì ảo của hai nhánh con sông này chính là
việc nó đã tạo địa thế ngôi làng hình dáng như con cá chép. Nhìn từ trên cao,
hai nhánh con sông như những đường viền ngăn cách ngôi làng với vùng đất
bên cạnh, khiến cho khu đất bên trong hiện lên hình dáng "lý ngư", những cây
cầu xung quanh làng cũng được xây dựng ở vị trí tương ứng với các loại vây
trên mình cá, tại phần đầu cá còn có một chiếc giếng khơi, nước trong vắt nên
được gọi là giếng Mắt cá.
Nếu coi làng Hành Thiện như một chú cá chép thì vùng đất từ giữa
bụng cá trở lên đến mang cá được quy hoạch làm nơi sinh sống của dân cư
trong làng. Trong khu vực này hình thành lên 14 dong (xóm), mỗi dong cắt
ngang theo thân cá như chia khúc, gồm một con đường chạy dọc ở giữa và
các ngôi nhà được xây dựng hai bên. Phần đầu cá được quy định làm nơi họp
chợ của cả làng, tại đuôi cá là khu nghĩa trang và chùa miếu để phục vụ nhu
cầu tín ngưỡng của nhân dân.

Nhìn tổng thể mặt địa lý làng Hành Thiện ta không thể không khâm
phục óc tưởng tượng của các cư dân cách đây hơn 510 năm, theo như tài liệu
để lại, trước đây toàn bộ đường đi trong làng đều được lát đá xanh, "mưa gió
bùn đất không bén gót chân", bên cạnh đường xóm là rãnh thoát nước được
xây bằng gạch mộc, chính vì thế làng không bao giờ phải chịu cảnh ngập lụt
bởi tất cả nước mưa, nước sinh hoạt đều theo các rãnh này chảy ra hai nhánh
con sông quanh làng và từ đó thoát ra sông Ninh Cơ. Ngày nay về cơ bản làng
vẫn giữ nguyên hình dạng như thửa sơ khai…
Được thành lập từ thời nhà Trần, sau hơn bảy thế kỷ tồn tại, Hành
Thiện còn mang đậm nhiều nét đặc trưng của làng quê Việt Nam. Bản hương
ước xưa của làng vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay. Ngôi làng này từ

8


những thế kỷ trước đã nổi tiếng với câu "trai học hành, gái canh cửi". Mỗi khi
trong làng có người đỗ đạt, làng thường tổ chức lễ khen thưởng trang trọng.
Điều này đã động viên, khích lệ tinh thần học tập của các thế hệ "nho sinh".
Cũng bởi vậy, ngoài việc là nơi sinh ra nhiều người tài thì Hành Thiện còn là
mảnh đất có đời sống yên bình, nề nếp. Nhiều thiết chế văn hóa truyền thống
vẫn còn được bảo tồn. Hiện làng vẫn còn hàng trăm ngôi nhà cổ có giá trị mỹ
thuật và lịch sử.
Tại Xã Hành Thiện ngoài những dân cư có nghề nghiệp đỗ đạt học
hành thì phần lớn dân cư còn lại là sống bằng nghề nông nghiệp, nghề nông
của vùng này chủ yếu là trồng lúa nước, đây là vùng đồng bằng giáp với Sông
Hồng nên rất thuận lợi cho phù xa bồi đắp, rất thuận tiện cho tăng gia sản
xuất. Vì nằm trên địa thế ven Sông Hồng với đồng lúa bát ngát, người dân nơi
đây quanh năm sống với nghề nông nghiệp lúa nước. Quê Hương Nam Định
với gạo tám Hải Hậu từ xưa đã nổi tiếng đặc sản của cả nước. Nam Định
không chỉ biết đến bởi đồng lúa bạt ngàn mà con biết đến bởi những con

người đôn hậu cần cù lao động, còn in đậm dấu tích lịch sử quý giá những di
tích cổ những danh lam thắng cảnh đền chùa miếu mạo.
1.1.2 Lịch sử hình thành
Chùa Keo Hành Thiện là ngôi chùa có từ rất lâu đời, được xây dựng
vào thế kỷ XVII đời Vua Lý Thánh Tông một trong những thời kỳ phát triển
cao về kiến trúc phật giáo. Tương truyền, nguyên thủy chùa do Thiền sư
Không Lộ xây dựng ở ven sông Hồng từ năm 1061 dưới thời Lý Thánh
Tông, tại Giao Thủy, phủ Hải Thanh (nay là xã Nam Hồng, huyện Nam Trực,
tỉnh Nam Định). Ban đầu, chùa có tên là Nghiêm Quang tự, đến
năm 1167 mới đổi thành Thần Quang tự. Vì Giao Thủy có tên Nôm là Keo,
nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.

9


Theo sách "Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược" (Phòng Địa chí Thư viện tỉnh Nam Định chế bản) tại trang 146, trong mục chùa Keo thì:
Không Lộ tên chính là Nguyễn Chí Thành người xã Điềm Xá huyện Gia
Viễn cùng Nguyễn Viết Y người xã Loa Điền Hải Thanh kết bạn với nhau,
Chí Thành đạo hiệu là Không Lộ, Viên Y đạo hiệu là Giác Hải, sau gặp sư Từ
Đạo Hạnh người Yên Lãng cùng sang Tây Trúc học đạo đều thành.
Trải qua 2 triều đại Lý Trần với sự cực thịnh huy hoàng của đạo Phật
đến năm Tân Hợi 1611 một trận lũ lớn đã làm đất lở và chon vùi nhiều đền
đài cung điện và các kiến trúc Phật giáo khác trong đó đã có ngôi chùa Thần
Quang Tự vĩnh viễn chôn vùi vào quá khứ khép lại một thành tích huy hoàng
sau trên 500 năm tồn tại. Sau sự kiện đó dân ấp Keo xây chùa làng Hành
Cung và Làng Dũng Nhuệ, phải đổi đi 2 nơi. Dân làng Dũng Nhuệ rời sang
tản ngạn Sông Hồng (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay) còn dân lang Hành
Cung chuyển về phía Nam hữu ngạn sông Hồng lập ấp xây chùa, làng Hành
Cung sau đổi thành làng Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường, Nam Định.

1.2. Tín ngưỡng văn hóa dân gian
1.2.1 Văn hóa dân gian
Ở Việt Nam chùa chiền không chỉ là nơi thờ phụng, diễn ra các nghi
thức tôn giáo mà còn là nơi bảo lưu văn hóa tinh thần truyền thống của dân
tộc với nhiều các lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian. Ở đây, giữa Phật giáo với
văn hóa dân gian có nhiều mối quan hệ giao lưu, gắn bó với nhau.(hình 1.2)
Lễ hội chùa Keo Hành Thiện là một lễ hội lớn, không chỉ giới hạn ở
địa phương mà là lễ hội mang quy mô lớn vừa có tính chất lễ hội vừa mang
tính chất hành hương của du khách thập phương về đây dâng hương lễ Phật

10


và dự hội, tín ngưỡng đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của
không chỉ người dân đia phương mà còn của nhân dân cả nước.
Chùa Keo Hành Thiện một năm có hai lễ hội khởi đầu là lễ hội mùa
xuân vào ngày mùng 4 Tết Nguyên Đán, nhân dân làng Keo xã Hành Thiện,
huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định lại mở hội xuân đầu năm ở ngôi chùa
mang tên làng.
Hội thứ hai cũng chính là hội chính được mở vào các ngày 13, 14, 15
tháng 9 âm lịch hằng năm, kỷ niệm ngày Thiền sư Không Lộ (1016-1094)
người đã sáng lập ra ngôi chùa chính (ngài đã qua đời vào ngày mùng 3 tháng
6 âm lịch) trong ngày hội người ta tổ chức rước kiệu, hương án, long đình,
thuyền rồng, tiểu đỉnh. Để suy tôn Đức thiền sư Không Lộ là người rất giỏi
Phạt pháp, giỏi cả pháp thuật, có công chữa bệnh cho vua Lý
1.2.2. Ý nghĩa tâm linh
Lễ hội chùa Keo Hành Thiện có ý nghĩa rất lớn tới đời sống tâm linh
của người dân địa phương cũng như đới sống văn hóa cộng đồng. Cũng như
hầu hết các lễ hội trên đất nước ta lễ hội chùa Keo bắt nguồn từ truyền thống
nhớ về cội nguồn, từ đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.

Lễ hội gợi lại công lao của thánh Tổ Không Lộ người đã có công chữa khỏi
bệnh cho nhà vua và được dân gian coi là ông tổ của nghề chài lưới. Đây là
một dịp để người trong vùng, trong tỉnh và cả những người xa quê hương hội
tụ trong tinh thần lễ hội, cầu cho cuộc sống được yên bình, nhân khang vật
thịnh, cầu cho quê hương đất nước phát triển
Lễ hội diễn ra cũng là lúc con người trở về với quê hương và hoạt động
của lễ hội chính là nhằm ôn lại quá khứ của địa phương. Đó là cội nguồn của
tự nhiên, đất nước xóm làng và cội nguồn của cả hệ thống tôn giáo tín
ngưỡng. Đến với lễ hội mỗi người dân đều cầu cho mình những điều tốt đẹp
về sức khỏe bình an về sự ấm no hạnh phúc, họ cầu cho mưa thuận gió hòa
mùa mạng bội thu. Do nhiều nguyên nhân chi phối, trước hết là do chính nhận

11


thức và quan niện tôn giáo tín ngưỡng của mỗi người dân trước khi làm việc
gì ngoài việc chuẩn bị bổ trợ về mặt kinh tế thì họ còn nhờ cậy sự giúp đỡ của
bậc thần linh linh thiêng với quan niên “ Vạn vật hữu linh. Có thờ có thiêng”
Sau khi thành công họ không quên sự giúp đỡ ấy để bày tỏ sự biết ơn tôn kính
của mình mà họ thông qua những hoạt động thờ cúng ở mỗi dịp lễ hội.
Ngoài hoạt động vui chơi giải trí những người dự lễ hội chùa keo Hành
Thiện đều mơ hồ cảm thấy và tin rằng mình sẽ thu nhận được nhiều điều may
mắn tốt lành từ những đấng siêu nhiên vô hình cho họ thứ quyền lợi tinh thần.
Điều đó đã đi vào tiềm thức của mỗi người dân khi dự hội và trở thành niềm
tin, niềm động lực để họ về với hội ngày một đông hơn.
1.3. Đặc điểm nghệ thuật tạo hình thế kỷ XVII
1.3.1 Khái quát chung về bối cảnh xã hội TK XVII
Vào thế kỉ XVII thì đất nước ta bị chia làm hai Đàng Trong, Đàng
Ngoài và rơi vào tình trạng chiến tranh giữa các tạp đoàn phong kiến lớn. Các
cuộc chiến tranh kéo dài này đã huy động sức người, sức của rất lớn. Chính vì

thế đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển của văn hóa nghệ thuật. Mặt khác
trong nội bộ giai cấp phong kiến thống trị cũng nảy sinh mâu thuẫn. Nhà nước
ít quan tâm đến việc chung của làng xã, do đó khi xảy ra thiên tai lũ lụt…dân
chúng bị thiệt hại nhiều. Từ năm 1680 đến năm 1740 đã xảy ra 24 lần thiên
tai, 14 nạn đói lớn và 7 lần thủy tai. Cũng trong thời kì này hoạt động công
thương nghiệp lại được chú trọng phát triển. Kinh tế hành hóa phát triển dẫn
đến ảnh hưởng đời sống xã hội, đồng thời tác động vào mọi lĩnh vự trong xã
hội và làm lũng đoạn mọi giá trị: Văn hóa, giáo dục, học hành thi cử, mua
quan bán tước.
Như vậy, trong thế kỉ XVII tất cả các tình hình trên đã làm cho người
dân ngày càng cùng cực. Họ phải rời bỏ quê hương đi làm ăn sinh sống. Trật
tự phong kiến thì ngày càng lỏng lẻo. Tư tưởng nho giáo bị suy thoái. Trong

12


tình hình đó thì Phật giáo lại được phát triển. Sự suy yếu của nhà nước phong
kiến, mâu thuẫn nhà nước ngày càng trở lên sâu sắc, đói kém mất mùa…đã
ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của con người. Vì thế trong thời kì này các
chùa chiền được xây dựng sửa chữa nhiều ngôi đình làng cũng được xây
dựng. Nhiều tục lệ dân gian tín ngưỡng của dân tộc được phục hồi. Khi lòng
tin bị giảm sút con người tìm đến đấng siêu nhiên để tăng thêm sức mạnh
vượt qua khó khăn của cuộc sống
Tình hình xã hội thời Lê Trung Hưng có nhiều biến động lớn, ảnh
hưởng trực tiếp tới sự phát triển tới mỹ thuật và các loại hình nghệ thuật khác.
Có những lúc trong thế kỉ XVII, dòng nghệ thuật dân gian đã thắng thế và
thậm chí lấn át cả dòng nghệ thuật chính thống và ngược lại. Mĩ thuật đã phát
triển phong phú đa dạng về các loại hình nghệ thuật. Một trong những loại
hình nghệ thuật dân gian đậm nét phát triển ở thế kỉ XVII là nghệ thuật đình
làng và phật giáo Việt Nam

Vào thế kỉ XVII, Phật giáo đã có bước phát triển mạnh. Đây có thể coi
là đỉnh cao thứ hai của nghệ thuật Phật giáo sau thời kì Lý Trần. Ở thời Lê
Trung Hưng nhiều ngôi chùa được trùng tu, dựng lại mới trong đó có chùa
Côn Sơn (Hải Dương), chùa Keo (Thái Bình-Nam Định), chùa Ngọc Khám,
chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Thái Lạc (Hưng Yên)…Những chùa được
dựng vào đầu thế kỉ XVII không để lại dấu vết gì. Do điều kiện khí hậu, chiến
tranh các công trình cổ của ta thường được tu sửa nhiều lần, khó giữ được
kiểu dáng kiến trúc ban đầu. Một số ngôi chùa được dựng từ giữa thế kỉ XVII
về sau này vẫn còn nguyên vẹn như chùa Mía, chùa Keo, chùa Bút Tháp, chùa
Thầy…
Ở trong các làng xã, bên cạnh chùa, đền, quán còn một loại hình rất gắn
bó với đời sống làng xã đó là đình làng. Có thể nói, từ thời Mạc đình làng với
tư cách là ngôi nhà chung của làng xã được xây dựng nhiều. Sang thế kỉ
XVII, việc xây dựng đình làng diễn ra sôi nổi ở hầu hết các làng xã trên đất

13


nước ta. Đình làng ở thế kỉ XVII được xác định niên đại tuyệt đối và nhiều
công trình còn giữ được đến ngày nay.Đình làng ở thế kỉ XVII là một loại
hình kiến trúc công cộng với nhiều chức năng : tôn giáo, hành chính, văn hóa,
sinh hoạt …Ngôi đình là biểu tượng cho cộng đồng làng xã Việt Nam, là một
yếu tố hữu hình của văn hóa làng Việt.
1.3.2 Đặc điểm về kiến trúc điêu khắc TK XVII
Nói đến nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở thế kỉ XVII không thể
không kể đến nét độc đáo về kiến trúc, điêu khắc Phật giáo tiêu biểu là kiến
trúc chùa Bút Tháp, chùa Keo Thái Bình và kiến trúc đình làng. Nét độc đáo
của kiến trúc ở thời kì này đó là các chùa chiền được xây dựng chủ yếu bằng
gỗ.
Điêu khắc gỗ cũng là một nghệ thuật đặc trưng đã phát triển mạnh, nó

gắn liền với sự xây dựng, tôn tạo và mở rộng hệ thống chùa chiền trên khắp
đất nước, phản ánh sâu sắc ý thức tâm linh của người dân nước Đại Việt
hướng về cái thiện, mong muốn cho đất nước thái bình. Đặc biệt là vai trò
người phụ nữ trong xã hội thời Lê Trịnh đã xuất hiện không ít trong việc chấn
hưng xã hội. Ở đây có rất nhiều tượng đẹp từ tượng Phật, tượng Bồ Tát đến
tượng Thị giả, tượng Tổ, tượng Hậu đều dựa theo những mẫu người đẹp quý
phái. Các pho tượng phật chùa ở chùa bút tháp nhìn chung đều mang vẻ đẹp
đầy đặn, trọn trịa và cân đối. Ở đó vừa có cái đẹp theo lý tưởng tôn giáo vừa
mang vẻ đẹp của hiện thực. Nó khác với vẻ đẹp mang tích chất lí tưởng và
mẫu mực của thời lý, vẻ đẹp hiện thực sống động của thời Trần. Vẻ đẹp sang
trọng, quí phái được thể hiện trên các pho tượng mực dù dáng ngồi vẫn theo
kiểu ngồi của nhà phật. Sự nghiêm trang tĩnh lặng,thoát tục giảm dần thay vào
đó là sự sinh động hiện thực được biểu hiện qua chân dung của các nhân vật.
Như vậy ta có thể thấy phong cách tượng thời kì này khá phong phú
dạng khi thì cầu kì đài các khi thì chất phác thô sơ…ở mỗi chùa mỗi đền ta lại

14


thấy một phong cách riêng biệt,làm nên một diện mạo hết sức đa dạng cho
tượng thời Lê Trung Hưng
Mỗi làng quê Việt Nam đều có một ngôi đình. Đình là nơi thờ Thần
Thành Hoàng của làng. Thành Hoàng thường là những bậc anh hùng có công
dựng nước, giúp nước, chống giặc ngoại xâm; hoặc một Thần Sông, Thần Núi
mang tính huyền thoại như giúp dân trị thuỷ, trừ khử yêu quái, đem lại cuộc
sống yên lành cho mọi nhà, mọi người. Đình vừa là nơi thờ cúng, vừa là nơi
hội họp của dân làng. Đình làng là một biểu tượng của văn hoá - nghệ thuật,
biểu hiện của đời sống sung túc và trình độ thẩm mỹ cao của dân làng, cũng
thể hiện tính cộng đồng cố kết trên địa bàn quần cư của người nông dân. Nó
là ngôi nhà công cộng của một tập thể cư dân nông nghiệp làng xã, là niềm tự

hào của người dân làng xã. Mọi tập tục, văn hoá, nếp sống của làng đều được
định ra ở đây, có tên gọi là “Hương ước”, một thứ luật lệ dưới luật, nhưng
không kém phần nghiêm ngặt với các thành viên của làng. Đình làng xuất
hiện cùng với nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc trang trí cũng ra đời và phát
triển. Sự phát triển thắng thế của phù điêu đình làng là sự giải quyết trang trí,
để làm giảm nhẹ cảm giác nặng nề của các cấu kiện kiến trúc. Điêu khắc đình
làng ra đời đã làm bật lên một tiếng nói mới. Tiếng nói của tâm tư, tình cảm
người lao động. Chạm khắc đình làng chủ yếu miêu tả những cảnh sinh hoạt
bình thường, gần gũi với con người và cuộc sống thường ngày.
Ngoài hai mảng nghệ thuật Phật giáo và nghệ thuật đình làng trong
thời Lê Trung Hưng còn nổi lên một số công trình kiến trúc - điêu khắc khác,
và có cả tranh cổ. Tất cả nói lên sự phong phú của một giai đoạn phát triển sôi
động.Thời Lê Trung Hưng còn cho xây dinh thự, do sự ăn chơi sa đoạ của
tầng lớp quý tộc thống trị mà tiêu biểu là các chúa Trịnh Cương, Trịnh Giang,

15


đã cho xây dựng một số phủ đệ, dinh thự ở các địa phương để phục vụ cho
các cuộc du ngoạn.
Nền mỹ thuật của thời Lê Trung Hưng là một giai đoạn phát triển, tuy
xã hội được coi là giai đoạn trì trệ, chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài nhưng
vì thế mà các đình, chùa mới được xây dựng và phát triển. Các công trình
kiến trúc - điêu khắc tiêu biểu thuộc các loại hình chùa - đình đền - lăng mộ
với các chất liệu gỗ - đá - đồng đều phát triển đến đỉnh cao. Và đây cũng là
giai đoạn mà cả kiến trúc và điêu khắc đều đạt đến đỉnh cao còn lại đến tận
ngày nay và phát triển hơn, tồn tại lâu hơn theo thời gian để cho lịch sử văn
hoá Việt Nam tự hào là một nền văn hoá mỹ thuật lâu đời.
Kiến trúc chùa thế kỉ XVII được xây dựng rất độc đáo đó là nối kiến
trúc tiêu biểu với kiến trúc 2 tầng 8 mái, các chùa được xây dựng theo kiểu

nội Công ngoại Quốc: Một kiểu chùa khá phổ biến ở miền Bắc Việt Nam là
kiến trúc có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường (hay nhà bái đường) ở
trước với nhà hậu đường có thể là nhà Tổ hay nhà Tăng xá ở phía sau làm
thành một hình chữ nhật bao quanh lấy các kiến trúc khác ở giữa. Kiểu chùa
này gọi là nội công ngoại Quốc. Có nghĩa là phía trong có hình chữ Công
(工), còn phía ngoài có cái khung bao quanh như ở chữ Quốc. Tiêu biểu kiểu
kiến trúc này chùa Keo (Thái Bình) và chùa Keo Hành Thiện…Một số chùa
bố trí gác chuông phía trước, gác chuông phía sau, chùa có gác chuông ngay
trên cửa tam quan. Hầu hết các chùa ở thế kỉ này đều có hướng là Hướng
Nam (Từ Hướng Đông Nam đến Tây Nam), đây là hướng phù hợp với các
vùng địa lý có khí hậu khắc nghiệt. Bố trí hướng chùa theo các hướng Nam để
tránh rét về mùa đông có được sự mát mẻ về mùa hè.
Tiểu kết 1

16


Chùa Keo Hành Thiện Chùa Keo Hành Thiện có tên chữ là Thần
Quang Tự là một ngôi chùa ở làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân
Trường, tỉnh Nam Định. Chùa tọa lạc trên khu đất rộng, giáp sông Hồng và
sông Ninh. Chùa Keo Hành Thiện được xem là ngôi cổ tự được xây dựng
hoàn toàn bằng gỗ quý cách đây gần 400 năm vì thế chùa mang đậm nét kiến
trúc của thế kỉ XVII. Cho đến ngày nay chùa Keo đã trải qua nhiều lần trùng
tu nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn hình dáng sơ khai.
Chùa Keo Hành Thiện là môt di sản văn hóa truyền thống đã được nhà
nước công nhận. Cho đến ngày nay chùa Keo Hành Thiện vẫn giữ trong mình
những giá trị đặc sắc được tích tụ trong mỗi quá trình tồn tại của mình. Hằng
năm mỗi dịp xuân về và ngày 15 tháng 9 âm lịch hội chùa Keo lại được diễn
ra trong niềm vui náo nức và lòng sùng kính của khách hành hương. Trải qua
bao dặm dài của lịch sử, chùa Keo Hành Thiện luôn được trân trọng, được

bảo vệ gìn giữ. Với giá trị đặc sắc và nổi bật, chùa Keo Hành Thiện xứng
đáng là một di tích Phật giáo độc đáo của đồng bằng Bắc Bộ.
Vào thế kỉ XVII, Phật giáo phát triển mạnh, đây có thể coi là đỉnh cao
của nghệ thuật Phật giáo. Chính vì vậy Chùa Keo Hành Thiện có kiến trúc và
điêu khắc rất độc đáo.

17


CHƯƠNG 2. VẺ ĐẸP VỀ KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC CỦA
CHÙA KEO HÀNH THIỆN
2.1 Nghệ thuật kiến trúc chùa Keo Hành Thiện
Chùa Keo Hành Thiện là một công trình kiến trúc độc đáo và tiêu biểu
có quy mô rộng lớn của thế kỉ XVII. Mặc dù chùa đã trải qua 400 năm qua
những biến cố thăng trầm của lịch sử cùng với nhiều lần tu bổ và sử chữa
nhưng chùa giữ được gần như nguyên vẹn các công trình kiến trúc trong chùa.
Vẻ đẹp của kiến trúc chùa Keo Hành Thiện được tôn lên rất nhiều ở cảnh
quan kiến trúc tổng thể, là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc chùa do con
người tạo ra với cảnh đẹp thiên nhiên. Tất cả đã góp phần tạo nên một công
trình cổ quý giá, đẹp đẽ mang tính dân tộc và truyền thống.
2.1.1 Tổng quan kiến trúc chùa Keo Hành Thiện
Chùa Keo nằm trên khu đất rộng là một kiến trúc tôn giáo có bề dày
lịch sử, mặt bằng di tích đã trải qua nhiều giai đoạn xây dựng và sửa chữa tôn
tạo. Kiến trúc chùa Keo là nét tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc thế kỉ XVII
(hình 2.1)
Chùa Keo Hành Thiện cổ kính, bóng cả cây cao và bề thế toà dọc dãy
dài gồm 121 gian, ở đầu làng Hành Thiện trong khuôn viên 18.000 m2 (5 mẫu
Bắc Bộ) nhưng khu dân cư lấn chiếm dần, nay chỉ còn 10.000 m2. Chùa Keo

18



có nhiều hạng mục kiến trúc như: Tam quan, chùa Phật, điện Thánh, hành
lang, khu tăng xá…. là quần thể kiến trúc hài hoà với sinh cảnh. Khu vực
ngoại vi chùa khoảng 8.000 m2 có con đường rợp bóng cây xanh bao quanh
vòng ngoàivà bức tường hoa thấp bao loan vòng trong với hai cổng ra vào
phía Đông và phía Tây (hình 2.2)
Tam quan đứng giữa bức tường bao loan phía trước, hướng Nam, nhìn
ra hồ nước sen. Phía trước hồ sen là vườn sinh cảnh ( còn gọi là Hoa viên) tạo
ra thế giới gần thiên nhiên, tĩnh lặng nhưng tươi đẹp, cây và hoa trong chùa
phải được chăm sóc cẩn thận phù hợp với cảnh chùa trang nghiêm và thanh
tịnh. Sau Tam quan là hồ nước rộng hơn 1000 m2 hình nhật nguyệt (hình chữ
nhật lượn tròn 4 góc) là nơi bơi thuyền cò cốc dạo theo đoàn phụng nghinh và
rước đèn trên bờ hồ trong dịp lễ hội chùa Keo. Quanh hồ có nhiều cây cổ thụ
như đa, đề, muỗm gốc to dăm bảy người ôm, tán lá rộng và dày, là nơi trú ngụ
của nhiều loại chim muông. (hình 2.2)
Nhà thờ mẫu ba gian bên cổng Tây bức tường bao loan ngoại vi chùa.
Gần cổng Tây vào nội chùa có giếng nước độc đáo với thành giếng xếp bằng
đá hộc và 33 khối đá thủng, tương truyền là các cối đá giã gạo phục vụ thợ
xây cất chùa. Giếng hình trụ sâu 8 m, đường kính miệng giếng 1,5m. Nước
giếng xưa trong mát, là nguồn nước chính để đồ xôi và làm bánh dày đặc
trưng lễ hội chùa Keo Hành Thiện. Nội chùa Keo nằm trong khuôn viên 2000
m2 với tổng thể kiến trúc theo phong cách thời hậu Lê: “Nội nhị công, ngoại
nhất quốc” khép kín. Gác chuông là 2 cổng ra vào nội chùa đứng mặt trước
hướng Nam. Một hướng truyền thống của người Việt, đối với đạo phật hướng
Nam là hướng của trí tuệ của bát nhã nhờ có trí tuệ chúng sinh mới đáo bỉ
ngạn ( đến bến bờ giải thoát)
Hành lang hai dãy mỗi bên 40 gian, chạy dọc hai bên Đông và Tây.
Nhà thờ Tổ ba gian, nhà oản 3 gian và nhà kí đồ 3 gian chắn mặt sau. Công


19


trình chính nội chùa là hai cụm nhà to kiểu chữ công (I): nhà trước thờ Đức
Phật (chùa Phật) và nhà sau thờ Đức Thánh Tổ (chùa Thánh). Mỗi cụm nhà
chữ công 10 gian, 2 chái với 10 mái cong lợp ngói mũi, uốn lượn 8 góc cong
đầu rồng, vì kèo gối trên 52 cột gỗ lim kê đá tảng (hình 2.3)
Chùa Phật phía sau gác chuông, cách mảnh sân rộng. Chùa có 3 cung:
cung ngoài, cung giữa và cung hậu (toà Tiền Đường, toà Thiên Hương, toà
Tam Bảo). Cột kèo, dầm xà đều sơn vẽ vàng son tươi màu các hoa văn, rồng
mây, muông thú sống động. Cả 3 cung lưu giữ 67 pho tượng cổ bằng các chất
liệu: đồng, gỗ, gốm sứ và đất nung (kim mộc thổ), tất cả đều rất sắc nét, có
thần.
Kế ngay điện thờ Phật là khu thờ Thánh Không Lộ Thiền sư cũng có
mặt bằng hình chữ công. Nó đã kiến tạo nên dạng thức kiến trúc “tiền Phật
hậu Thánh” rất độc đáo. Nếu ở chùa Keo Thái Bình, các nhà kiến trúc sư dân
gian đã thêm vào tòa Giá roi để tạo sự phân cách giữa hai khu thờ Phật và
Thánh, thì ở Keo Hành Thiện người ta lại nhìn thấy một sự thống nhất liên
thông cho hai điện thờ.
Bằng lối kiến trúc này, họ đã tạo ra sự tương phản trong việc thay đổi
nhịp điệu của kiến trúc. Từ khối kiến trúc mở của khu thờ Phật cho đến lối
kiến trúc hoàn toàn đóng kín để tạo nên sự thâm nghiêm cho khu thờ Thánh.
Một hệ thống cửa bức bàn, vách gỗ đã được tạo ra ngay từ hệ thống cột quân
đầu tiên của khu tiền đường. Đồng thời người ta cũng nhận thấy sự phô diễn
của nghệ thuật chạm khắc gỗ thế kỷ XVII đã được tạo dựng nên ở đây. Từ
mảng chạm rồng ở hai bên mặt tiền cho đến các mảng chạm ở cung đệ nhất,
đệ nhị, đệ tam, tầng tầng lớp lớp của các mảng chạm khiến cho hậu cung thờ
Thánh trở nên lung linh rực rỡ.
Có thể lối trang trí kiến trúc này đã phản ánh rất rõ quan niệm thờ tự
của người Việt trong kiến trúc. Phật điện cho thấy một sự giản dị như tinh


20


thần Phật giáo muốn tìm đến bản thể chân tâm, Thánh điện thì sang trọng,
lung linh, huyền bí như để tạo ra một cõi tiên giới trên phàm trần.
Ngoài vẻ đẹp về kiến trúc, trong chùa còn lưu giữ, bảo tồn những di vật
cổ có giá trị của thế kỷ 17 thời Hậu Lê. Đó là những án thưsập thờ, tượng
pháp nhiều chuông khánh, văn bia cổ, hoàng văn phi đối và sách chữ Hán nói
về chùa Keo.
Điện thờ Thánh
Di tích chùa Keo là tổng thể kiến trúc thờ tự theo kiểu Tiền Phật Hậu
Thánh.Tiếp theo chùa Phật cách mảng sân rộng là khu đền Thánh, kiến trúc
tương tự chùa Phật, nhưng các cột kèo, dầm xà không sơn vẽ. Khu đền là sự
kết hợp kiến trúc hoại cảnh Chùa Thánh có 4 cung: cung ngoài, cung giữa,
hậu cung và cấm cung ( toà Giá Roi, toà Thiên Hương, toà Phụ Quốc và toà
Thượng Điện). Cung ngoài có 3 bức hoành phi bằng gỗ thếp vàng trạm nổi
chữ Hán sơn đen, treo ở thượng tầng (hai bức bên Đông và Tây bằng nhau,
thấp hơn bức ở giữa):
Gian giữa có 3 chữ (Đại Pháp Sư)
Gian bên Đông có 4 chữ (Tây Pháp Tự Thiên)
Gian bên Tây có 4 chữ (Nam Hải Tôn Thiền)
Câu đối tám đôi bằng gỗ sơn đen mài bong, chữ khảm trai hoặc trạm nổi
hay khắc chìm, treo đối xứng ở các hàng cột. Đạo sắc vua phong Đức Thánh
Tổ là Quốc Sư trên bục thờ gian giữa, là đạo sắc Cảnh Hưng tứ thập tam
(1783), đẹp nhất (chữ đen nhũ bạc trên giấy gió màu vàng nhạt hoa văn
chìm); đạo sắc Cảnh Hưng thập tứ (1754) cổ xưa nhất trong 38 đạo sắc còn
lưu giữ ở chùa Keo Hành Thiện. Nội dung các sắc chỉ nói về công đức Quốc
Sư đại đế như hai vế đối: “Thượng phù quốc hội - Hạ hội dân an”. (trên phò


21


nước thịnh - dưới giúp dân yên). Sách Tiền lục và Hậu lục ghi chép việc chùa,
kinh kệ và nhiều văn tự khác chạm khắc trên biển gỗ và thêu trên tàng lọng,
cờ quạt.
Cung giữa có bát hương đồng hình trụ tròn (đường kính miệng 40cm);
đôi hạc bằng đồng cao 1,5m đứng 1 chân trên lưng rùa đồng, đôi hạc gỗ cùng
kiểu dáng, cao gấp rưỡi hạc đồng; đôi ngựa gỗ (con hồng, con bạch) to bằng
ngựa non. Hậu cung thờ bài vị Đức Thánh Tổ khoác miều phục.
2.1.2 Cổng tam quan
Nét độc đáo của chùa Keo Hành Thiện chính là chùa có hai tam quan
đó là tam quan nội và tam quan ngoại. Tam quan đặt ở ngoài công trình, là
cửa chính đi vào khuân viên của công trình. Ý nghĩa thông thường nhất của
tam quan là tam quan biểu thị ba cách nhìn của đạo phật về thế gian, đó là giả
quan, trung quan và không quan. Tam quan được xây dựng nhằm mục đích
phân cách không gian thuộc thế giới tâm linh và không gian đời thường.
Người ta quan niệm bước qua tam quan chùa như bước qua một cánh cửa
nhiệm màu, mọi thứ thần tục được gạt lại, chỉ còn đó sự thanh thản nhẹ nhõm
đến lạ thường. Nét đặc sắc về kiến trúc chùa Keo Hành Thiện đó là hệ thống
tam quan ngoại (hình 2.4) và tam quan nội (hình 2.5)
Đi hết dọc khu hàng rào bên ngoài từ cổng trái đó là tam quan ngoại
còn được gọi là tam quan ngoài. Từ tam quan ngoai nhìn ra ta có thể thấy
được hồ bán nguyệt ở dưới hồ bán nguyệt có non bộ nằm chính giữa cao trên
mặt nước hơn 2m thể hiện sự phú quý. Vì chùa Keo được xây dựng ở cạnh
sông Hồng và sông Ninh Cơ nên bên trong hồ bán nguyệt có non bộ thể hiện
quan niệm về phong thủy tốt có sông và núi hài hòa với nhau. Tam quan
ngoại có kiến trúc nhà không lòng nhìn chỗ nào cũng thấy cột thấy hiên. Lối
kiến trúc khá là đơn giản không phải kiến trúc 2 tầng phức tạp hay với kiểu
hình trang trí cầu kì như các tam quan khác. Nhưng lại thể hiện được nét độc


22


đáo riêng của nó. Kiến trúc tam quan ngoài của chùa Keo Hành Thiện có 12
cột trụ hình vuông bắng chất liệu bê tông cao tầm 3 mét và có một mái đơn
giản. Trước tam quan ngoại thì ta bắt gặp hình ảnh hai con voi đá được chạm
khắc tỉ mỉ như đang canh giữ sư bình yên cho ngôi chùa cổ này (hình 2.6)
Tam quan ngoại và tam quan nội bị ngăn cách bởi hồ nhật nguyệt. Tam
quan ngoại có kiến trúc không lòng còn ở tam quan nôi chùa Keo Hành Thiện
có nối kiến trúc rất độc đáo đa phần được tạo nên bằng gỗ và có được chạm
khắc rất tỉ mỉ, tinh sảo. Với những đao loan uốn lượn thanh thoát dáng vẻ nhẹ
nhàng. Sự kết hợp hài hòa giữa gác chuông chùa Keo Hành Thiện cũng là
nét độc đáo của kiến trúc tam quan nội. Tam quan nội của chùa được dựng
theo dạng thức Tam quan kép liền với gác chuông, cấu trúc tam quan 5 gian,
làm theo kiểu chồng diêm 2 tầng 8 máicao 7m50. Nó được dựng trên 8 đại trụ
của bốn bộ vì chính và 16 cột quân kê trên chân đá tảng chạm hoa sen. Toàn
bộ hệ thống vì kèo được kết cấu theo lối chồng giường đỡ mái, kết hợp với
việc làm gác lửng. Kết cấu này đã khiến người ta khi bước vào chốn Thiền
không có thể chiêm ngưỡng nét đẹp của các đầu dư chạm rồng rất tỉ mỉ. Lệch
về phía bên của gác lửng, người ta đặt một cái thang gỗ để có thể leo lên gác
lửng phía trên chiêm ngưỡng cũng như thỉnh những hồ chuông. Trên xà
ngang giữa hai tầng của Tam quan gác chuông này có ghi một dòng niên đại
cho biết: “Ngày lành tháng xuân năm Ất Mùi niên hiệu Thành Thái (1895),
đúc lại chuông đồng và tu tạo lại gác chuông”.
Gác chuông soi bong hồ nhật nguyệt, với tam quan 2 tầng, 2 gian 2
chái, 8 mái cong 2 lớp, vì kèo gối trên 24 cột gỗ lim kê đá tảng (8 cột cái có
đường kính 55 cm/cột và 16 cột quân có đường kính 35cm/cột. Bức đại tự
treo ở gian giữa tầng trên gác chuông có 4 chữ Hán: Đệ nhất tứ linh Chuông
đồng (hình 2.7) và khánh đồng treo ở hai gian bên tầng trên (hình 2.8).

Chuông cao 1,15m và quai chuông cao 48cm hình đôi bồ lao. Chu vi vòng

23


ngoài miệng chuông 2,90m. Mấy dòng chữ Hán đúc ở vai và quanh chuông
“ Thần Quang tự trung, Thành Thái thất niên tuế Ất Mùi, tam nguyệt cát nhật
cung chú” (chuông chùa Thần Quang đúc năm Ất Mùi - 1895, Thành Thái thứ
7, tháng Ba ngày tốt). Khánh cao 1,0m, rộng 1,4m, dày 3cm; hai hàng chữ
Hán đúc nổi ở 2 mặt khánh “Thần Quang tự khách, Tân Dậu niên chú” (khánh
chùa Thần Quang đúc năm Tân Dậu). Tầng dưới gác chuông có 3 bia đá; Đầu
hành lang Đông có 1 bia, mới chuyển ra Tam Quan do bia đổ. Mỗi bia tạc 1
bài văn, một bài minh và danh tính các vị cúng tiến tiền của tu tạo chùa hoặc
số đinh khẩu của các giáp. Còn tấm bia thứ nhất trán bia có chạm hai hình
Quan Thế Âm (hay tiên) cưỡi rồng chầu mặt nguyệt. Tấm bia bên kia thì có
mũ với chạm khắc rất lộng lẫy, đặc biệt những dây hoa cúc ở hai bên diềm
thật tinh vi. Tay người khắc như múa vậy, vì những nét ở đây mảnh và mịn
như dệt lụa.
Chùa Keo Hành Thiện có một kiến trúc khá độc đáo với hai tam quan
nội và tam quan ngoại. Trong lòng kiến trúc là hai điện thờ đều được dựng
theo dạng mặt bằng hình chữ công (I), tạo nên một kiến trúc chữ công kép rất
độc đáo trong số các kiểu thức dựng chùa của thế kỷ XVII. Với hai tam quan
ngoại và tam quan nội thì lối kiến trúc mặt bằng hình chữ công kép này như
càng được nhấn mạnh hơn.
2.1.3 Kết cấu 3 tòa Tiền Đường, Tam Bảo và Thượng Điện
Tòa tiền đường có quy mô 3 gian dài hơn 10 lòng rông mái cao đao
lớn như một ngôi đại đình. Tòa Tiền Đường chùa Keo có hệ cửa đưa thẳng
vào cột cái làm cho hiên thoáng rộng. Hai gian hồi kê 4 tầng ngưỡng mới đến
hàng song gác then bài kết cấu này tạo thành bộ khung vững trác đỡ bộ mái
và cửa chùa rất nặng đồng thời tạo độ thong thoáng nắng gió để bảo vệ kiến

trúc gỗ và đồ thế tự. Kết cấu tòa Tiền Đường có giá trị mỹ thuật cao. Cũng
như bao ngôi chùa ở Việt Nam tòa Tiền Đường Chùa Keo đặt hai pho tượng

24


Hậu Pháp khuyến thiện và trừ ác nên nhiều người gọi tòa Tiền Đường là chùa
Hộ. Các vị Hộ Pháp ở đây có thân tượng lớn mỗi vị ngồi kín một gian chùa.
Trong tiền đường chùa Keo còn thờ tượng Đức Ông và Át Lan ( cùng 4 tuỳ
tùng của 2 vị) và Thập Điện là 10 vị vương thần.
Tòa thứ nhất của khu tam bảo, ở chùa này, cụm tam bảo chữ công có
lối vào lại từ ống muống ở giữa. Nên tượng thờ sẽ quay lưng về mặt trước
này. Tỉ lệ của tòa này cân đối, hài hòa. Mái cong bốn góc có cái hay là với số
gian ít hay nhiều đều hài hòa, có lẽ là vì độ thấp của nó, không vươn cao quá,
cũng như màu sắc trầm của ngói mũi hài.
Tòa Tam Bảo và Thượng Điện có kiến trúc và quy mô nhỏ hơn tòa
Tiền Đường được làm theo kiểu lòng thuyền tứ trụ với đường nét óng mượt
toát nên vẻ đẹp quyền quý và thanh nhã. Không gian thiền nơi gần nhất với
chúng sinh là ban thờ Phật thích Ca. Phật đường Chùa Keo tôn nghiêm lộng
lẫy với hệ tự pháp đầy đủ ban vị trong một ngôi chùa cổ. Trên Thượng Điên
từ lớp tượng Tam Thế Phật qua lớp tượng A Di Đà Tam Tôn đến lớp tượng
trung tâm là pho Quan âm Nam Hải.
2.2 Nghệ thuật điêu khắc trong chùa Keo Hành Thiện
Chùa Keo Hành Thiện không chỉ là một tác phẩm kiến trúc tiêu biểu
cho nghệ thuật kiến trúc phật giáo thế kỉ XVII. Ở đây còn lưu giữ rất nhiều
tác phẩm điêu khắc của Việt Nam. Nghệ thuật điêu khắc chùa Keo hành
Thiện vừa mang tính lích sử, tôn giáo và mang tính dân tộc được thể hiện ở
những giá trị cổ vật của ngôi chùa như nhiều tượng pháp thời Hậu Lê. Điêu
khắc chùa Hành Thiện mang đặc điểm điêu khắc thời hậu Lê và ảnh hưởng
của phật giáo Việt Nam. Chùa Keo Hành Thiện làm hoàn toàn bằng gỗ quý.

Trên cột, xà được trạm khắc những hình phù điêu rất công phu như hình
Rồng, Phụng, Chim Muông, Hoa Lá rất tinh tế và độc đáo. Bên cạnh đó chùa
còn có nhiều những pho tượng to nhỏ khác nhau. Nó đã đạt tới đỉnh cao của

25


×