Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Luận văn Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.76 MB, 131 trang )

Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3
2.1.Trước tiên, chúng ta có thể biết tới các công trình nghiên cứu về nền
giáo dục khoa cử nói chung ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX: ............... 3
2.2. Những tác phẩm viết về giáo dục khoa cử được viết trong giai đoạn
hiện nay: ..................................................................................................... 4
2.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa bảng của các nhà
nghiên cứu lịch sử địa phương: .................................................................. 6
3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu............................................. 7
3.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 7
3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 8
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 8
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 8
4.1. Nguồn tài liệu ...................................................................................... 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu..................................................................... 9
5. Đóng góp của đề tài.................................................................................... 9
6. Bố cục của đề tài: ..................................................................................... 10
Chƣơng 1: LẬP THẠCH – VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI VÀ TRUYỀN
THỐNG LỊCH SỬ ......................................................................................... 11
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ......................................................... 11
1.2. Dân cư ................................................................................................... 13
1.3. Địa lý hành chính huyện Lập Thạch qua các thời kỳ ........................... 16
1.4. Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội ....................................................... 22
1.5. Truyền thống lịch sử - văn hóa ............................................................. 23
CHƢƠNG 2: GIÁO DỤC NHO HỌC VÀ CÁC NHÀ KHOA BẢNG
HUYỆN LẬP THẠCH TỪ THẾ KỶ XV ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX .......... 29




Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
2.1. Nền giáo dục nho học Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX ..... 29
2.2. Giáo dục Nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh
Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX. ....................................................... 42
2.2.1.Giáo dục Nho học huyện Lập Thạch từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX.42
2.2.2. Thành tựu khoa bảng huyện Lập Thạch từ thế kỷ XV đến đầu thế
kỷ XX ....................................................................................................... 48
Chƣơng 3: ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ KHOA BẢNG HUYỆN LẬP
THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC ĐỐI VỚI QUÊ HƢƠNG ĐẤT NƢỚC ..... 67
3.1. Trên lĩnh vực chính trị - quân sự - ngoại giao. ..................................... 67
3.3. Sự kế thừa, phát huy truyền thống khoa bảng huyện Lập Thạch trong
giai đoạn hiện nay. ....................................................................................... 83
PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 92
PHỤ LỤC


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các triều đại phong kiến Việt Nam, nhất là vào các thời kỳ thịnh trị có
“vua sáng tôi hiền”, luôn coi trọng nhân tài. Bởi nhân tài được xem là “quốc
bảo”, là tinh hoa của dân tộc, là “rường cột”, là “nguyên khí” của quốc gia,
mà nguyên khí mạnh hay yếu lại ảnh hưởng đến vận mệnh dân tộc, thịnh suy
của đất nước. Trong tấm bia tiến sĩ đầu tiên (khoa Nhâm Tuất 1442), tại Văn
Miếu – Quốc Tử Giám đã thể hiện sự khẳng định của các bậc tiền nhân về vai

trò của nhân tài: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì
thế nước mạnh mà vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp.
Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng
nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên. Kẻ sĩ quan
hệ với quốc gia trọng đại như thế, cho nên quý trọng kẻ sĩ không biết thế nào
là cùng”. Do đó, các bậc minh quân luôn coi trọng nhân tài, vì muốn xây
dựng nền thịnh trị cho đất nước phải dựa vào nhân tài nước nhà: “Cầu cho
nước trị bình thì lấy nhân tài làm trước tiên, rường điện tất phải có cái trụ gỗ
đội lên, cũng như trong nước có người hiền tài giúp sức, mới thường giữ
được yên lành. Người đời xưa nói: người hiền tài là rường cột của quốc gia
là thế”. Các vương triều đã có nhiều cách khác nhau để phát hiện và tuyển
chọn nhân tài ra giúp nước, trong đó giáo dục, khoa cử là một trong những
phương thức hiệu quả nhất.
Giáo dục và khoa cử nho học giữ một vị trí vô cùng quan trọng, bởi nó
không chỉ tạo nền kiến thức về chữ Hán, về Nho giáo – hệ tư tưởng chính
thống nhằm tạo ra sự ổn định và thống nhất xã hội mà còn là phương thức
chính để tuyển chọn quan lại. Từ khoa thi đầu tiên tổ chức năm Ất Mão
(1075) đến khoa thi cuối cùng năm Kỷ Mùi (1919), các triều đại kế tiếp nhau
đã tuyển chọn được đội ngũ quan lại phục vụ đắc lực cho đất nước, cho nhân

1


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
dân. Nền giáo dục khoa cử đó đã góp phần quan trọng vào việc đào tạo nhân
cách, rèn rũa tài năng cho biết bao con người, bao vị quan lại. Trong đó, nhiều
người về sau đã đem hết tài năng, trí tuệ phụng sự triều đình và đất nước,
nhiều người trở thành niềm tự hào của gia đình, làng xóm, có người trở thành
biểu tượng của cả một vùng quê rộng lớn. Nền giáo dục khoa cử nho học là cơ

sở hình thành truyền thống nho học và khoa bảng của nhiều làng quê trên các
miền của đất nước.
Sự xuất hiện các nhà khoa bảng là hệ quả của nền giáo dục nho học, của
chế độ tuyển bổ quan lại theo ngạch văn của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Nghiên cứu về các nhà khoa bảng trước hết nhằm tìm hiểu hệ thống giáo dục
khoa cử thời phong kiến, hệ thống ấy đã đào tạo ra những nhân tài phục vụ
quê hương đất nước.
Trong thời đại ngày nay, mặc dù nền giáo dục của Việt Nam đã có nhiều
những chuyển biến, đổi mới, không còn là nền giáo dục nho học như thời
phong kiến, nhưng mục tiêu chung là đào tạo, bồi dưỡng, quý trọng nhân tài thì
không hề thay đổi. Việc nghiên cứu nền giáo dục nho học và lịch sử khoa bảng
không chỉ nhằm khôi phục lại những “rạng danh một thời” trong quá khứ, nâng
cao sự hiểu biết về truyền thống của cha ông mà quan trọng hơn cả là nhằm rút
ra những bài học kinh nghiệm lịch sử, phát huy những truyền thống cao đẹp
trong sự nghiệp giáo dục, khuyến học, đào tạo nhân tài cho đất nước.
Lập Thạch là huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Vĩnh Phúc, là
vùng đất cổ kính nhất của tỉnh Vĩnh Phúc, là nơi sinh tụ của người Việt cổ.
Đồng thời, đây cũng là một trong những cái nôi của nền khoa bảng Vĩnh
Phúc. Có tên từ thế kỷ XIII, vùng đất miền núi phía bắc với dân số không quá
đông mà từ mấy trăm năm nay đã xuất hiện hàng loạt các nhà khoa bảng, các
danh nhân văn hóa làm phong phú thêm cho lịch sử phát triển tỉnh Vĩnh Phúc
qua các thời kỳ chống ngoại xâm và xây dựng đất nước.

2


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Vì vậy, việc tìm hiểu truyền thống giáo dục và khoa cử huyện Lập Thạch
sẽ góp phần giúp thế hệ ngày nay hiểu rõ thêm về một truyền thống vẻ vang

của quê hương mình, nâng cao niềm tự hào và tinh thần hiếu học, từ đó không
ngừng rèn luyện, ý thức được trách nhiệm của mình với công cuộc xây dựng
quê hương đất nước.
Với những lý do như trên, tôi xin chọn vấn đề “Giáo dục nho học và các
nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế
kỷ XX” nhằm mục đích sau:
- Tìm hiểu về nền giáo dục nho học huyện Lập Thạch từ thời Hậu Lê
đến nhà Nguyễn (từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX).
- Các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch từ thời Hậu Lê đến nhà Nguyễn
và những đóng góp của họ đối với quê hương đất nước.
- Nêu lên một số nhận xét về sự tiếp nối truyền thống trong giai đoạn
hiện nay trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị về việc phát huy truyền
thống, góp phần vào việc đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài của
địa phương.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lập Thạch vốn là một vùng đất cổ kính, nơi có truyền thống văn hóa,
lịch sử đặc sắc của tỉnh Vĩnh Phúc. Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về
các truyền thống lịch sử, văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần của con người
nơi đây. Tuy nhiên, về vấn đề nền giáo dục và các nhà khoa bảng của huyện
còn tương đối ít công trình nghiên cứu, hoặc mang tính chất sơ lược, chưa đầy
đủ, hệ thống.
2.1.Trước tiên, chúng ta có thể biết tới các công trình nghiên cứu về
nền giáo dục khoa cử nói chung ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX:
Sách “Quốc triều hương khoa lục” của tác giả Cao Xuân Dục in lần đầu
tiên năm 1873, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, tái bản năm 1993, là công trình

3


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh

Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
ghi chép các thể thức, kết quả của 47 khoa thi hương và tiểu sử vắn tắt của
5226 người thi đậu cử nhân, hương cống của cả nước dưới triều Nguyễn từ
khoa thi đầu Gia Long Đinh Mão (1807) đến khoa thi cuối Khải Định Mậu
Ngọ (1918). Trong đó, tác giả có ghi chép một cách sơ lược về tiểu sử của các
nhà khoa bảng huyện Lập Thạch.
Sách “Thiên Nam lịch triều liệt huyện đăng khoa bị khảo” của tác giả
Phan Huy Ôn, chép lược truyện các vị đậu tiến sĩ xếp theo từng huyện, phủ và
thứ tự khoa thi trước sau: họ tên, quê quán, tên năm thi đậu, lý lịch làm quan,
gia thế văn chương… mang tính sơ lược. Tuy nhiên, công trình này chưa
được in, mới có bản chép tay nên mỗi người lại có những điểm không đồng nhất,
tam sao thất bản.
2.2. Những tác phẩm viết về giáo dục khoa cử được viết trong giai
đoạn hiện nay:
ược khảo về khoa c Việt Nam t khởi thủy đến khoa

ậu Ngọ 1918

của nhà sử học Trần Văn Giáp, Khai trí tiến đức tập san, Hà Nội, 1941, có
thể xem như chuyên luận sớm nhất của học giới hiện đại đối với thể chế khoa
cử. Trình bày một cách lược khảo những vấn đề cốt lõi nhất của “s s và
hình thức khoa c , trường thi cùng s dưỡng dục nhân tài” giới hạn trong
“phạm vi trường thi Nam”, Trần Văn Giáp – nhà sử học, thư mục học trong
nghiên cứu này của ông đã sớm đưa ra những chỉ d n cần làm tiếp tới đối với
lĩnh vực nghiên cứu khoa cử. Một mặt, ông chỉ d n những tài liệu Hán Nôm
cơ bản nhất liên quan đến khoa cử ở Việt Nam, như các ghi chép về khoa cử
trong Kiến văn ti u lục của Lê Quí Đôn, mục Khoa mục chí trong ịch triều
hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, phần bàn về khoa cử trong Thoái
th c kí văn của Trương Quốc Dụng, sự khảo lược khoa cử Tàu trong


c

triều lịch đại đi n yếu thông luận của Vũ Phạm Khải, các bài tổng luận về
lịch sử khoa cử trong các bộ đăng khoa lục cho đến những bộ sách muộn hơn

4


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
như C kim khoa thí thông khảo của Nguyễn Chuyết Phu, Hoàng Việt khoa
c kính của Nguyễn Văn Đào. Mặt khác, ông chỉ ra rằng, muốn “có th kết
luận một cách đích xác thiết th c” về khoa cử thì còn phải tiếp tục “bàn tiếp
đến tinh thần cùng công hiệu của khoa c ”, nghĩa là cần phải đem những
văn chương t ng thời đại c n lại ra giải thích, k r bài nào hay, bài nào dở,
phán đoán phân minh xem hiệu quả s học thế nào”
Cuốn sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam”(1075-1919), Ngô Đức Thọ
chủ biên, Nxb Văn học, 1993, tác giả đã hệ thống lịch sử khoa bảng Việt
Nam qua các triều đại phong kiến, ghi lại con số ngót 3000 nhà trí thức nho
học nước ta đã trúng tuyển trong các kỳ thi Hội chính thức do triều đình
phong kiến tổ chức ở cấp toàn quốc. Trong đó có nhắc đến các nhà khoa bảng
huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Tác phẩm “Khoa c và giáo dục Việt Nam”, Nguyễn Quang Thắng, Nxb
văn hóa thông tin, 1993, giới thiệu về lịch sử giáo dục và khoa cử nho học ở
Việt Nam, đi sâu phân tích và hệ thống một số khía cạnh nền giáo dục khoa
cử thời Lê sơ như thể chế, tổ chức trường học, nội dung học tập, thi cử, người
đỗ đạt và truyền thống khoa bảng....
Tác phẩm “Nho giáo Việt Nam – Giáo dục và thi c ”, Nguyễn Thế Long,
Nxb Giáo dục, 1995, đã cung cấp cho độc giả những kiến thức cơ bản về nền
giáo dục Nho học của các triều đại phong kiến, giúp chúng ta có cái nhìn bao

quát về nền tảng nho học chung của nước nhà từ thời Lê sơ đến nhà Nguyễn
đồng thời nắm được tình hình giáo dục ở các địa phương.
Trong công trình "Văn bia Quốc T Giám Hà Nội” do Đỗ Văn Ninh
biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, 2000, đã ghi lại danh sách những
người đỗ từ tiến sĩ đến trạng nguyên trong các khoa thi từ năm 1442. Nội
dung của các văn bia này đã cung cấp nhiều tư liệu quý báu giúp chúng ta có
thể nghiên cứu một phần tình hình giáo dục khoa cử thời Lê sơ.

5


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Cuốn “Trạng nguyên, tiến sĩ, hương cống Việt Nam”, Bùi Hạnh Cẩn –
Minh Nghĩa – Việt An biên soạn, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, 2002, đã
thống kê khá đầy đủ danh sách các vị đỗ Cử nhân, Phó Bảng, Tiến sĩ trong
các khoa thi từ 1075-1919.
Cuốn “Giáo dục, khoa c và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến, thời
Pháp thuộc”, Nguyễn Công Lý, Nxb Đại học Quốc gia TPHCM, 2011, giúp
cho người đọc tiếp cận với những kiến thức cơ bản nhất về giáo dục, khoa cử
và quan chế của Việt Nam trước năm 1945.
Cũng trong năm 2011, tác phẩm “Nhà nước phong kiến Việt Nam với
việc s dụng các đại khoa học vị tiến sĩ”, Nxb Khoa học xã hội đã nghiên cứu
những giá trị truyền thống của lịch sử dân tộc trong việc sử dụng những người
có học vấn cao – những bậc tiến sĩ trong việc chính sự ở các vương triều từ
1075-1919.
Năm 2012, cuốn sách Hệ thống giáo dục và khoa c nho giáo triều
Nguyễn”, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Nxb Chính trị quốc gia, đã tìm tiểu về tình
hình chính trị xã hội và chính sách giáo dục khoa cử nho giáo triều Nguyễn,
hệ thống các nhà khoa bảng trong bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội

triều đại này.
Những công trình nêu trên đã cũng cấp cho chúng ta nhiều kiến thức về
nền giáo dục nho học và khoa cử thời phong kiến, tuy nhiên, chỉ mang tính
chất khái quát trên phạm vi cả nước, chưa đi sâu, cụ thể về nền giáo dục và
các nhà khoa bảng ở một địa phương, mà cụ thể ở đây là huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc.
2.3. Các công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa bảng của các nhà
nghiên cứu lịch sử địa phương:
Tác giả Lê Kim Thuyên – Hội nghiên cứu lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc trong
cuốn “Danh nhân Vĩnh Phúc” do Sở văn hóa thể thao Vĩnh Phúc xuất bản

6


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
năm 1999 đã khái quát và giới thiệu về các danh nhân của tỉnh, trong đó có
các nhà khoa bảng Lập Thạch.
Trong năm 2000, sách “Địa chí Vĩnh phúc”, Sở văn hóa thông tin – thể
dục thể thao Vĩnh Phúc, đã tập trung làm rõ những nét cơ bản về đất đai, địa
hình núi sông, con người, truyền thống lịch sử văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo,
phong tục tập quán, hệ thống chính trị, an ninh quốc phòng trên nền địa lý
tỉnh Vĩnh phúc, trong đó có nhắc đến truyền thống hiếu học và các danh nhân
của huyện Lập Thạch.
Năm 2009, tác giả Trần Thị Xuyến có công trình luận văn thạc sĩ với đề
tài Văn hóa làng khoa bảng Quan T , xã Sơn Đông, huyện ập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc. Đề tài đã khái quát về tình hình kinh tế, tổ chức xã hội của làng và
việc hình thành truyền thống khoa bảng của Quan Tử - làng khoa bảng duy
nhất của tỉnh Vĩnh Phúc.
Năm 2010, tác giả Trần Thị Thu Hà có công trình luận văn thạc sĩ,

Hương ước cải lương huyện ập Thạch tỉnh Vĩnh Yên 1921 – 1942), trong đó
có nêu tên một số nhà khoa bảng của huyện.
Năm 2010, tác giả Nguyễn Hữu Mùi trong cuốn “Truyền thống hiếu học
và hệ thống văn miếu văn t văn chi ở Vĩnh Phúc” đã nghiên cứu về truyền
thống hiếu học, số người đỗ đại khoa, trung khoa thời Lê và thời Nguyễn;
đồng thời trình bày một cách có hệ thống các văn từ văn chỉ tỉnh Vĩnh Phúc.
Như vậy, trong số các công trình nghiên cứu về lịch sử khoa bảng Việt
Nam nói chung và tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng chưa có công trình nào tập trung
nghiên cứu một cách toàn diện về nền giáo dục nho học và các nhà khoa
bảng của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX.
3. Đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Lựa chọn lịch sử khoa bảng huyện Lập Thạch làm đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi mong muốn luận văn sẽ làm rõ về nền giáo dục nho học và các nhà

7


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ
XX, đặc biệt là những đóng góp của họ đối với quê hương đất nước.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận văn là nền giáo dục nho học và
các nhà khoa bảng của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến
đầu thế kỷ XX.
- Phạm vi không gian, đề tài nghiên cứu các giáo dục nho học và các nhà
khoa bảng của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc khi chưa tách thành hai
huyện: Lập Thạch và Sông Lô.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài làm rõ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, dân cư và tình hình xã hội
của huyện Lập Thạch, tĩnh Vĩnh Phúc, trên cơ sở ấy làm nổi bật nền giáo dục
nho học và truyền thống khoa bảng của các xã, thôn thuộc huyện.
Đề tài tập trung vào tìm hiểu về các nhà khoa bảng của huyện và những
đóng góp của các nhà khoa bảng đối với địa phương và đất nước.
4. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu
khác nhau:
- Các văn kiện của Đảng, nhà nước ta về tầm quan trọng và định hướng
đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
- Nguồn tư liệu được trình bày trong các bộ chính sử do nhà nước phong
kiến biên soạn, trong đó nội dung có đề cập tới nền giáo dục nho học và các
nhà khoa bảng của huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Đại Việt sử ký toàn thư bản khắc in năm Chính Hòa 18(1697)
+ Lịch triều hiến chương loại chí, phần Khoa mục chí – Phan Huy Chú,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992,…

8


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
- Nguồn tài liệu bi ký, trong đó đáng chú ý là 82 bia Tiến sĩ tại Văn Miếu
Quốc Tử Giám, trong đó có nhiều nhà khoa cử của huyện Lập Thạch.
+ Bài kí đề tên tiến sĩ khoa Kỷ Sửu niên hiệu Minh Đức năm thứ 03-1529;
+ Lập Thạch huyện văn từ tiến sĩ bi. Thác bản 15503;…
- Nguồn tài liệu điền dã: Tại các địa phương còn lưu trữ nhiều di tích lịch
sử văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia như: Văn bia có ghi tên 12 tiến sĩ nho
học của làng Quan Tử, xã Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc; đền thờ nhà giáo

Đỗ Khắc Chung tại Xã Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc; đền thờ Triệu Thái
tại xã Đình Chu, Lập Thạch, Vĩnh Phúc; đền thờ ông Nguyễn Thiệu Chi tại
xóm Bún, xã Xuân Lôi, Lập Thạch, Vĩnh Phúc…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch,
chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp luận lịch sử, trước hết là việc sưu
tầm, tập hợp nguồn tư liệu liên quan đến nền giáo dục, khoa cử và các nhà
khoa bảng của địa phương và cả nước…từ đó chọn lọc những nội dung phù hợp
phục vụ đề tài.
Ngoài ra trong đề tài còn có sự kết hợp với các phương pháp liên ngành
khác: logic, phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra nhận xét, kết luận, bài học lịch
sử..để xử lý các nguồn tài liệu khác nhau, giải quyết các nội dung trong đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở tập hợp, nghiên cứu các tài liệu lịch sử địa phương, tài liệu
lưu trữ, công tác khảo sát thực tế địa phương…luận văn bước đầu hệ thống
được tình hình giáo dục khoa cử của huyện Lập Thạch từ nhà Lê sơ đến nhà
Nguyễn (thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX), hệ thống trường lớp, những người
thầy tiêu biểu và thống kê một cách đầy đủ những nhà khoa bảng và cống
hiến của họ với quê hương, đất nước.

9


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Đề tài giúp cho thế hệ con em của địa phương thấy được niềm tự hào về
truyền thống vẻ vang của cha ông, từ đó cổ vũ, động viên tinh thần học tập
của các em, không ngừng phấn đấu vươn lên, xây dựng quê hương giàu mạnh.
Trên cơ sở đó, luận văn sẽ làm phong phú thêm kho tư liệu của địa
phương, rút ra những bài học kinh nghiệm lịch sử trong việc phát huy truyền

thống ấy đối với sự nghiệp giáo dục, khuyến học, đào tạo và bồi dưỡng nhân
tài, góp phần phát triển phát triển nền kinh tế xã hội địa phương theo hướng
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
6. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lập Thạch - vùng đất, con người và truyền thống lịch sử
Chƣơng 2: Giáo dục Nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX.
Chƣơng 3: Đóng góp của các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc với quê hương, đất nước.

10


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Chƣơng 1: LẬP THẠCH – VÙNG ĐẤT, CON NGƢỜI VÀ
TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Lập Thạch là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Vĩnh Phúc.
Trung tâm huyện lị là thị trấn Lập Thạch.
Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 401205,8 ha(chiếm 30% diện tích
tỉnh Vĩnh Phúc) trong đó:
- Đất nông nghiệp là 16796,57 ha, chiếm 40,3 % diện tích đất tự nhiên.
- Đất lâm nghiệp là 1328,44 ha chiếm 31,8% diện tích đất tự nhiên.
- Đất chuyên dùng là 4261,58 ha, chiếm 10,2% diện tích đất tự nhiên.
- Đất ở là 939,14 ha, chiếm 2,3% diện tích đất tự nhiên.
- Đất chưa sử dụng và sông suối, núi đá là 6396,75 ha chiếm 15,4% diện
tích đất tự nhiên.

Huyện Lập Thạch nằm trong tọa độ địa lý từ 1050 30’ đến 1050 40’ kinh
độ Đông và 210 10’ đến 210 30’ vĩ độ Bắc.
Điểm cực Bắc nằm tại xã Đạo Trù trên vĩ tuyến 20030’ Bắc
Điểm cực Nam nằm tại xã Sơn Đông, trên vĩ tuyến 210 10’ Bắc
Điểm cực Tây tại xã Bạch Lưu, trên kinh tuyến 1050 30’ Đông
Điểm cực Nam tại xã Đạo Trù, trên kinh tuyến 1050 45’ Đông
Lập Thạch là vùng đất cổ kính nhất tỉnh Vĩnh Phúc, phía Bắc giáp với
huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang; phía Đông Bắc giáp huyện Đại Từ tỉnh
Thái Nguyên; phía Đông và Đông Nam giáp huyện Tam Dương và Vĩnh
Tường; phía Tây giáp huyện Phù Ninh và phía Tây Nam giáp với thành phố
Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ.
Với vị trí và diện tích đất đai như trên, Lập Thạch là vùng đất có điều
kiện thuận lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, giao lưu buôn bán với các

11


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
vùng khác trong cả nước. Đồng thời, đây là nơi hội tụ của nhiều loại động,
thực vật khác nhau tạo nên hệ sinh thái phong phú, đa dạng về giống loài.
Về điều kiện tự nhiên
Lập Thạch là một huyện miền núi nên có địa hình khá phức tạp, xen kẽ
gò đồi là những dải ruộng hẹp, khe lạch, núi non, làng mạc. Khái quát điạ
hình Lập Thạch có thể chia làm ba dạng địa hình chính là: vùng núi, vùng đất
giữa và vùng đất trũng. Lập Thạch còn là huyện có cấu tạo địa tầng cổ nhất ở
tỉnh Vĩnh Phúc, nằm trên một địa tầng rất vững vàng, cổ xưa, nơi trẻ nhất
cũng cách nay hơn 200 triệu năm.
Chính những yếu tố địa hình và cấu tạo địa tầng đã tạo cho Lập Thạch
nhiều loại khoáng sản, mà nhiều nhất là các loại phi kim làm vật liệu xây

dựng như than bùn, sét gạch ngói, cremrit(loại sét làm vật liệu nhẹ trong xây
dưng có ở thị trấn Lập Thạch, Tử Du), cát cuộn sỏi, mica…đây là cơ sở quan
trọng để Lập Thạch phát triển nền kinh tế công nghiệp.
Mặt khác, ở Lập Thạch còn có nhiều sông suối và hồ lớn mà tiêu biểu là
sông Phó Đáy và sông Lô. Hai con sông này hàng năm đã cung cấp một lượng
phù sa lớn bồi đắp cho các dải đất ven sông thêm màu mỡ, đồng thời cung cấp
thực phẩm cho dân cư trong vùng như cá, tôm, cua..
Hơn nữa, Lập Thạch còn là nơi tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc và Tây
Bắc Việt Nam nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều vào mùa
hè và khô hanh vào mùa đông, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22-230.. Số
giờ nắng trung bình vào mùa hè là 6-7 giờ/ngày, mùa đông là 3-4h/ngày, tổng
số giờ nắng trung bình hàng năm là 1450-1550h. Lượng mưa trung bình hàng
năm ở Lập Thạch là 1500-1800 mm.
Nguồn thủy văn và khí hậu ấy là điều kiện thuận lợi cho cư dân nơi
đây tiến hành sản xuất nông nghiệp với nhiều lọa cây trồng, vật nuôi rất
phong phú..

12


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
- Về thực vật: trên các cánh rừng đại ngàn, thực vật tạo thành tầng tầng
lớp lớp với nhiều loại cây quý hiếm như: lim, chẹt, trò chỉ, muồng đen,...Dưới
tán cây cổ thujl là tầng lớp cây dây leo cho quả như gắm, chuối rừng, sa nhân,
đến rừng giang, rừng nứa, rừng vầu, song mây...Tất cả tạo thành thảm thực
vật dày đặc giữ cho đất đỡ bị xói mòn vào mùa mưa lũ đồng thời giữ ẩm và
tạo nguồn sinh thủy trong những tháng mùa khô.
- Về động vật: Với thảm thực vật phong phú nêu trên, động vật rừng ở
Lập Thạch cũng khá phong phú như: cheo cheo, cáo, lợn rừng, nhím, cầy

hương, sóc đỏ bụng....Lớp chim có nhiều loại như: Gà rừng, bìm bìm, cò trắng,
cò lửa, khướu, họa mi, vàng anh...Lớp bò sát có tắc kè, kỳ đà, các loại rắn, trăn
gió, ba ba, rùa...Thảm thực vật và động vật phong phú này là điều kiện thuận
lợi để cu dân Lập Thạch phát triển ngành du lịch sinh thái. Hiện nay, rừng cò ở
Hải Lựu đã trở thành điểm du lịch sinh thái hấp d n của Lập Thạch.
Bên cạnh những thuận lợi, thiên nhiên Lập Thạch cũng rất khắc nghiệt,
hàng năm nơi đây thường xảy ra lũ lụt vào mùa mưa, hạn hán vào mùa khô.,
địa hình xen kẽ gò núi nên việc sản xuất nông nghiệp gặp phải những khó
khăn nhất định. Do đó, để tồn tại và phát triển, cư dân Lập Thạch cần không
ngừng cải tạo và làm chủ thiên nhiên.
1.2. Dân cƣ
Ngay từ xa xưa, Lập Thạch là vùng núi cao rừng rậm, có vị trí địa lý đặc
biệt là tiếp giáp với đỉnh của tam giác đồng bằng châu thổ sông Hồng, đất đai
khá màu mỡ phì nhiêu, rừng có nhiều lâm sản quý, giao thông thuận lợi... nên
từ lâu đời đã có dân cư sinh tụ.
Dân cư Lập Thạch có nhiều nguồn gốc khác nhau. Trước hết là người
Việt cổ cư trú ở Lập Thạch từ hàng ngàn năm trước. Vào năm 1964 đầu năm
1965 tỉnh Vĩnh Phúc đã tiến hành đợt 1 “Ki m kê ph thông các di tích lịch
s ” ngành khảo cổ học đã xác định ở Lập Thạch có di chỉ thời đại đồ đá mới

13


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
ở xã Đôn Nhân và thôn Đồng Xuân xã Xuân Hòa, tại hai di chỉ đó đã tìm thấy
những lưỡi rìu bằng đá của người Việt Cổ. Điều này khẳng định, người Việt
cổ đã cư trú ở Lập Thạch từ hàng ngàn năm nay.
Từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ I TCN trở về sau, dân cư Lập Thạch
đã có nhiều biến đổi qua các thời kỳ, do các cuộc chiến tranh, một bộ phận

dân cư bị phiêu tán.
Theo truyền thuyết và thần phả ở một số đình làng ven sông Lô, phía Tây
Bắc huyện vào cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ I TCN, thừa tướng Lữ gia (Cha
là người Hán, Trung Quốc, mẹ là người Việt) của nhà Triệu không chịu thần
phục nhà Hán, bị quan quân nhà Hán đánh bại. Lữ gia đã chọn con đường
hướng Nam, nương nhờ dân Âu Lạc. Ông đã đưa quan quân cùng thân tộc về
xây dựng căn cứ ở vùng Tây Bắc Lập Thạch rồi chung sống hòa bình với dân
cư địa phương.
Những năm đầu thế kỷ I SCN, bùng nổ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng(40-43) chống quân xâm lược nhà Hán, vùng đất Lập Thạch là một trong
những căn cứ rộng lớn của cuộc khởi nghĩa. Vùng Đông Bắc của huyện có căn
cứ và địa bàn hoạt động của nghĩa quân do các thủ lĩnh chỉ huy như ở Đạo Trù
có Bà Chúa Bầu, ở xã Hợp Lý có ba anh em Nguyễn Trĩ, Nguyễn Tuấn,
Nguyễn Lĩnh; ở Thái Hòa có vợ chồng ông Nguyễn Tuấn và bà Thục Nương;
ở thôn Thản Sơn xã Liễn Sơn có bà Quế Lan (thường gọi là Quý Lan nương)
Bản anh hùng ca ngắn ngủi của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng sau ba
năm được giải phóng, đất nước ta lại bị bọn phong kiến phương Bắc đô hộ.
Sau cuộc khởi nghĩa này, nhiều nghĩa quân của các thủ lĩnh của Hai Bà Trưng
đã ở lại trên đất Lập Thạch với dân bản địa.
Thế kỷ XIII – XIV, nhiều vương hầu công chúa của nhà Trần được
phong đất ở nhiều nơi như quan tư đồ Trần Nguyên Đán đã đem con cháu, nô
tỳ, nông nô lên lập điền trang ở Bạch Hạc (Vĩnh Tường) rồi sau lập Điền

14


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
trang tại thôn Đa Cai(Xã Sơn Đông) ngày nay. Vì vậy, dân cư Lập Thạch thời
kỳ này tăng lên nhanh chóng

Vào những năm XX của thế kỷ XVII, dân tộc Cao Lan (còn có tên là Sán
Chay) là một dân tộc nhỏ bé sống tập trung ở tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc,
bị nhà Minh đàn áp, bóc lột đói rách cực khổ đã tìm đường sang Việt
Nam(năm 1624), lúc đầu ở Móng Cái, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái
nguyên.... Quá trình làm ăn sinh sống lâu đời được nhân dân ở các địa phương
đùm bọc, giúp đỡ họ di cư sâu vào các tỉnh Bắc Giang, Yên Bái, Hòa Bình,
Phú Thọ, Hà Tây cũ, Vĩnh Phúc. Đến cuối thế kỷ XIX, người Cao Lan nhập
cư vào Lập Thạch tập trung thành các thôn bản tại xã Quang Yên.
Cuối thế kỷ XVII, đời nhà Thanh – Trung Quốc, người Sán Rìu(còn gọi
là dân tộc Trại hay Mán quần cộc..) ở Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc)
vì không chịu nổi ách áp bức dã man của bọn phọng kiến thống trị, họ đã nổi
dạy đấu tranh và bị đàn áp tan cửa nát nhà, bản làng bị thiêu rụi, phiêu bạt
khắp nơi. Số người sống sót đã tập trung lại, tìm đường sang Việt Nam, sinh
sống tại xã Đạo Trù-Lập Thạch.
Năm 1898, có trên 100 người đủ mọi lứa tuổi cả nam l n nữ thuộc dân
tộc Dao từ tỉnh Hòa Bình nhập cư vào huyện Lập thạch tạo thành bản người
Dao ở thôn Thành Công xã Lãng Công.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra
đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, người dân Lập thạch cùng với nhân dân cả
nước tiến hành hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) và chống Mỹ
(1954-1975) giành lại độc lập tự do hoàn toàn cho dân tộc, thống nhất nước
nhà. Và trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới
hôm nay, dân cư Lập Thạch tăng nhanh về số lượng. Tuy nhiên, thành phần
dân cư chính của Lập thạch cho đến nay v n bao gồm bốn dân tộc là Kinh,
Cao Lan, Sán Rìu và Dao. Trong đó, người Kinh là thành phần chủ yếu chiếm

15


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh

Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
khoảng 93.2% dân số toàn huyện. Ngoài 4 dân trộc trên, Lập Thạch còn là nơi
cư trú của nhiều dân tộc thiểu số khác như: Tày, Nùng, Thái, Hoa...
Tất cả các dân tộc ấy sinh sống hòa hợp với nhau tạo ra một cộng đồng
dân cư ổn định và thống nhất trên vùng đất lập thạch.
1.3. Địa lý hành chính huyện Lập Thạch qua các thời kỳ
Trong số các địa danh các huyện của tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, Lập
Thạch là tên huyện tương đối ít biến động suốt chiều dài lịch sử. Nguyên
nghĩa chữ Lập Thạch (立 石) theo Hán tự là "Đá d ng". Trước khi có tên
huyện, thì đó là tên làng, làng Lập Thạch, bởi trong làng có cột đá dựng tự
nhiên, tựa như một tòa miếu cổ.
Về sau làng Lập Thạch đổi gọi là xã Lập Thạch gồm có 4 thôn: Do Nha
(còn gọi là làng Ngà hoặc Miêu Nha Thôn), Vĩnh Quang (tức xóm Chùa), Đại
Trung (tức làng Cả, Cao trung thôn), Văn Lâm (tức Văn Minh thôn). Tại xã
Lập Thạch trước kia có ngôi chùa Long Hoa, hiện nay không còn. Tại chùa có
quả chuông được đúc từ đời Lý, đến năm Đinh Mùi (1787) chuông bị phá ra
đúc tiền sau đó lại phục dựng vào năm Kỷ Mùi (1799). Quả chuông cao
khoảng 120 cm, chạm hoa văn cầu kỳ và khắc bài minh văn chữ Hán trên bốn
mặt chuông với khoảng 80 dòng, 4000 chữ. Dòng ghi địa danh cho biết Tam
Đái phủ, Lập Thạch huyện. Lập Thạch, Thiều Thạch nhị xã Vi Văn Minh
thôn..." nghĩa là: "thôn Văn

inh cùng 2 xã Thiều Thạch, ập Thạch huyện

ập Thạch phủ Tam Đái...".Trong các thư tịch cổ, địa danh huyện Lập Thạch
được chép lần đầu tiên trong sách Đại Việt Sử ký tục biên của Phan Phu Tiên,
và đặc biệt là trong Đại Việt sử ký toàn thư năm 1479, sử quan Ngô Sĩ Liên
đã chọn chép vào phần Bản kỉ toàn thư, Quyển thứ VIII, kỉ nhà Trần một
đoạn có nhắc đến tên huyện Lập Thạch: Thiếu Đế, Kỉ Mão (Kiến Tân) năm
thứ 2 (1399), (Minh Thái Tổ kiến văn, năm thứ nhất). Tháng 8, tên cướp

Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết Sơn, làm giả tiền giấy tiêu dùng. Gặp lúc

16


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Thuận Tông bị giết, Khát Chân bị chém, mới chiêu dụ dân lành được hơn vạn
người, hoạt động ở các xứ Lập Thạch, Để Giang, Lịch Sơn, Đà Giang, Tản
Viên, cướp bóc bừa bãi, các châu huyện không sao khống chế được. Căn cứ
theo Đại Việt sử ký toàn thư các sách địa chí cổ về sau như Sơn Tây chí, Sơn
Tây tỉnh chí khi chép về huyện Lập Thạch đều khẳng định ...nhi Lập Thạch
tri danh thủy kiến, nghĩa là "tên huyện ập Thạch, lần đầu tiên thấy có t đó
(tức từ "Đại Việt sử ký toàn thư)". Như vậy, năm 1399 là năm đầu tiên tên
huyện Lập Thạch được chép vào chính sử. Tính đến nay, đây là một địa danh
cấp huyện được ra đời sớm nhất của tỉnh Vĩnh Phúc và tồn tại lâu nhất với
trên 600 năm lịch sử. Theo những điều ghi chép trong chính sử và Đại Nam
nhất thống chí, được Đào Duy Anh d n lại trong cuốn Đất nước Việt Nam
qua các đời, tên huyện Lập Thạch xuất hiện từ đời nhà Trần (1225-1400).
Trong giai đoạn này huyện mang tên Lập Thạch thuộc châu Tam Đới, lộ
Đông Đô. Đến đời nhà Lê, nhà Nguyễn, huyện Lập Thạch v n thuộc châu
Tam Đới sau đổi tên là phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây. Tới năm Minh Mệnh thứ
2 (1821), phủ Tam Đới đổi tên là phủ Tam Đa và năm Minh Mệnh thứ ba
(1822) thành lập tỉnh Vĩnh Yên. Huyện Lập Thạch v n giữ nguyên tên cũ và
địa lý hành chính cũ bất di bất dịch cho tới ngày nay.
Trong thời kỳ này địa dư huyện Lập Thạch khá rộng, đến đầu thế kỷ 20
(năm 1903) huyện có tới 11 tổng (Bạch Lưu, Đạo Kỷ, Đông Định, Đông Mật,
Hạ ích, Hoàng Chỉ, Nhân Mục, Sơn Bình, Thượng Đạt, Tử Du và Yên Xá) và
bao gồm tới 81 làng. Tới năm 1927, do sáp nhập một số làng với nhau và
phân bố lại một số tổng, huyện Lập Thạch còn 70 làng, v n giữ nguyên số

lượng tổng tuy tổng Đông Định đổi tên thành tổng Đại Lượng và tổng Sơn
Bình đổi thành tổng Bình Sơn.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam xoá bỏ
cấp phủ và tổng là hai cấp trung gian, mở rộng cấp xã, nhỏ hơn tổng nhưng

17


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
lớn hơn làng xã trước kia, bao gồm một số thôn xóm cũ. Nhiều tên xã mới ra
đời và có xã lấy tên các anh hùng dân tộc, các liệt sĩ cách mạng, các nhà hoạt
động chống Pháp đặt tên xã mình (như xã Hải Lựu đổi là xã Hồng Phong, xã
Xuân Hoà là xã Quang Trung). Một số xã là sự kết hợp 2 từ đầu hoặc 2 từ
cuối, hoặc 1 từ đầu 1 từ cuối trong hai thôn hợp nhất (như: xã Quang Yên là 2
thôn Quang Viễn và Yên Thiết hợp lại; Phương Khoan là Phương Ngạc và
Khoan Bộ; Triệu Đề là Triệu Xá và Đại Đề). Cũng có xã thống nhất lấy một
tên tiêu biểu nhất, chung cho cả các thôn trong xã mình, (xã Tứ Yên gồm 4
thôn: Yên Lập, Yên Lương, Yên Phú, Yên Kiều; xã Đôn Nhân gồm 4 thôn:
Đôn Hạ, Đôn Mục, Đôn Thượng, Đôn Nhân).
Trong thời gian hợp nhất tỉnh, với huyện Lập Thạch có 2 lần thay đổi
địa lý hành chính:
- Theo Quyết định số 178/QĐ ngày 15-7-1977 của Hội đồng Chính phủ,
huyện Lập Thạch được hợp nhất với huyện Tam Dương thành một huyện lấy
tên là huyện Tam Đảo.
- Theo Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa 6 và Thống số 13/TB/TW
ngày 14-12-1978, huyện Tam Đảo được tách thành hai huyện: huyện Lập
Thạch giữ nguyên tên cũ; huyện Tam Dương hợp với huyện Bình Xuyên và
lấy tên là huyện Tam Đảo.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1996, huyện Lập Thạch có 39 đơn vị hành chính

cấp cơ sở (38 xã và 1 thị trấn):
1. Xã Bắc Bình có các thôn xóm: Yên Thính, Bình Chỉ, Hoàng Chỉ, Băc
Sơn, Bảo Sơn, Bình Sơn, Phúc Long, Phúc Lâm, Hữu Thịnh.
2. Xã Bạch Lưu có các xóm: Hồng Đường, Anh Dũng, Hùng Mạnh, Tân Tiến.
3. Xã Bàn Giản có các thôn xóm: Xuân Lai, Tây Hạ, Trụ Thạch, Đồi
(Ngọc Xuân), Me (Ngọc Xuân), Bồ Thầy, Bồ Môm, Mật, Ổ Gà, Rừng Trưởng,
Rừng Chùa.

18


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
4. Xã Bồ Lý có các thôn: Bồ Lý, Nghĩa Lý, Bồ Lý Trong (Hạ Bì), Bồ Lý
Ngoài (Trung Bì), Yên Hòa, Tân Lập, Đồng Bụi, Trại Mái, Ngọc Thụ.
5. Xã Cao Phong có các thôn: Phan Dư, Phan Lãng, các xóm: Phục, Cây
Gạo, Ngọc Bật, Tổ Gà, Nông, Xanh, Si, Bà Giang, Dùng, Hàng, Đồi Vỡ,
Hốp, Chòi, Mới, Giang, Suối Đình.
6. Xã Đạo Trù có các thôn: Đồng Quạ, Vĩnh Thành, Tân Tiến, Phân Lân,
Gò, Tân Phú, Đạo Trù, Tân Lập, Đồng Mỏ, Vĩnh Kiên, Đồng Giếng.
7. Xã Đình Chu có các xóm: Tiền Phong, Tự Do, Kiến Thiết, Phấn Khởi,
Thái Bình, Ngọc Sơn, Trung Kiến, Ái Quốc, Trung Thành, Bắc Sơn.
8. Xã Đôn Nhân có các thôn: Thượng, Hạ, Trung (còn có tên là Hòa
Bình), Đôn Mục (Dân Chủ).
9. Xã Đồng Ích có các thôn: Hoàng Chung, Đại Lữ, Tân Lập, Bỉ La,
Xuân Đán, Hạ Ích, Viên Luận, Chùa.
10. Xã Đồng Quế có các thôn: Quế Nham, Quế Trạo, Văn Đoàn.
11. Xã Đồng Thịnh có các xóm: Đấu Tranh, Cương Quyết, Quyết Thắng,
Chiến Thắng, Thắng Lợi, Đại Đồng, Tiến Bộ, Hiệp Lực, Vạn Thắng, Đồng
Tâm, Yên Thái, Liên Hòa, Yên Phú, Bàng Phú, Phú Bình, Yên Bình.

12. Xã Đức Bác có các thôn: Nam Giáp, Khoái Thọ, Thượng Thọ.
13. Xã Hải Lựu có các xóm: Dừa Cả, Dừa Lẽ, Đồng Soi, Gò Dùng, Dân
Chủ, Đoàn Kết, Hòa Bình, Đồng Vằm, Đồng Chổ, Trung Kiên, Thắng Lợi,
Khu Sơn, Dốc Đỏ, Lòng Thuyền, Đồng Trăm, Lăng Sen, Giếng Trẹo, Gò Dài,
Lũng Lợn.
14. Xã Hợp Lý có các thôn: Thọ Linh, Độc Lập, Phú Dị, Tùy Sơn, Tân Lập.
15. Xã Lãng Công có các xóm: Trường Xuân, Thành Công, Hoành Sơn,
Yên Sơn, Thống Nhất, Đoàn Kết, Lãng Công, Phú Cường, Lãng Sơn, Tam Đa.
16. Xã Liên Hòa có các thôn: Ngọc Liễn, Phú Ninh (Vườn Chì), Phú Thụ
(Phú Thọ), Thượng Đạt (Làng Bẽn), Tây Thượng.

19


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
17.Xã Liễn Sơn có các thôn: Thản Sơn, Dương Chỉ, Liễn Sơn, Hoa Lư.
18. Xã Ngọc Mỹ có các làng: Oản, Han, Lả, Cương, Vôi, các thôn, xóm:
Ngọc Kỳ, Rừng Đình, Hà Loan, Minh Sơn.
19. Xã Nhạo Sơn có các xóm: Đồng Đạo, Làng Giàng, Ngọc Đèn, Cửa
Ngòi, Nhạo Sơn, Hoa Cao.
20. Xã Nhân Đạo có các xóm: Hy Sin, Đại Nghĩa, Hồng Sinh, Trần Phú,
Tiền Phong, Lê Xoay, Minh Tân, Thống Nhất, Đoàn Kết, Đồng Tâm.
21. Xã Như Thụy có các thôn: Như Sơn (Kim Sơn), Ngọc Sơn (Ngọc
Trí), Thụy Sơn (Liễn Sơn).
22. Xã Phương Khoan có các thôn: Khoan Bộ, Hòa Bình, Đại Minh,
Chiến Thắng, Đồng Tâm.
23. Xã Quang Sơn có các xóm: Đại Diễn, Bác Ái, Đồng Hàng, Trại
Chuối, Sơn Kịch, Ba Cầu, Quế Miêng, Quảng Cư, Đình, Làng, Ấp.
24. Xã Quang Yên có các xóm: Đồng Dạ, Yên Thiết, Đức Thịnh, Đồng

Dong, Đá Đen, Quang Viễn, Đồng Tâm, Đá Đứng, Đồng Chăm, Xóm Mới,
Đồng Găng.
25. Xã Sơn Đông có các xóm: Trại Đẽn, Đa Cai, Trại Miễn, Quân Tử
(Gốm), Nam Hải, Đong Tiến, Bắc Sơn, Lũng Hòa, Yên Hòa, Hòa Bình, Đông
Phú 1, Đông Phú 2, Đông Thịnh.
26. Xã Tam Sơn có các xóm: Lạc Cầu, Bình Lạc, Bình Sơn.
27. Xã Tân Lập có các xóm: Cầu Gạo, Cẩm Bình, Thụy Điền, Si, Văn
Nhưng, Đồng Sinh.
28. Xã Tiên Lũ có các xóm: Mới, Tân Phong, Trung Thành, Quang Trung,
Hợp Tác, Thiên Trụ, Minh Đức, Liên Hợp, Liên Minh, Vinh Quang, Chùa, Trong.
29. Xã Tử Du có 3 thôn: Bản Lập, Bản Hậu, Tử Du.
30. Xã Tư Yên có 3 thôn: Yên Lương, Yên Phú, Yên Lập.
31. Xã Thái Hòa có các thôn, xóm: Sen Hồ, Đại Lương, Đình Che, Đình
Hà, Đông Định, Tây Sơn, Khảng.

20


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
32. Xã Triệu Đề có các thôn: Đại Đề, Triệu Xá, Tên Tiến, Đoàn Thành,
Chớp Nón (Tiền Phong), Hạnh Phúc, Kim (Kim Tiến), Đồi, Nội (Minh Đạo),
Bèo (Nam Hùng).
33. Xã Văn Quán có các xóm: Đức Lễ, Mỹ Ân, Đồng Xuân Lan, Xuân
Quang, Tương Kế, Sơn, Xa, Phùng Nguyên, Đoan Hùng, Nhật Tân, Nam
Trong, Nam Ngoài, Đình, Gò Dê.
34. Xã Vân Trục có các thôn: Bồ Tỉnh, Vân Trục, Tam Phú, các xóm:
Đầu Bò, Đầu Núi.
35. Xã Xuân Hòa có các xóm: Đồng Chủ, Làng Chằm, Ao Thung, thôn
Đồng Núi (thuộc HTX Đồng Xuân); Giếng Khoai, Chí Hầu, Hồng Thái, Cây

Trám, Vườn São, Đồng Quyền, Đồng Cháy, Thành Lập, Bãi Cháy (thuộc
HTX Thanh Xuân); Rừng Re, Văn Thịnh, Tân Triền, Nhà Hắc, Long Cương,
Bới Đăng, Đồng Quyền, Giếng (thuộc HTX Đông Phú).
36. Xã Xuân Lôi có các xóm: Chiến Thắng (Lăng), Cộng Hòa (Giang),
Xuân Phong (Bàn), Đông Xuân (Cũ), Nghệ An (Vai), Lục Trụ (Chôi), Vườn
Trùng (Vườn Tràng), Thi Đua (Đền), Đồng Tâm, Đoàn Kết (Chay), Minh
Khai (Sửu), xóm Đông.
37. Xã Yên Dương có các xóm: Đồng Mới (Đồng Mai), Đồng Tĩnh
(Đồng Quán), Đồng Bục (Giếng Đương), Đồng Ơn (Đồng Nang), Cầu Ván,
Đồng Pheo, Đồng Cù, Quang Đạo, Yên Phú (Đồng Cù Con).
38. Xã Yên Thạch có các khu: Minh Khai, Thống Nhất, Đoàn Kết, Đại
Thắng Trại, Đại Thắng Làng, Minh Tân Đồi, Minh Tân Làng, Tiền Phong,
Ngọc Mỹ, Trung Kiên, An Khang 1, An Khang 2, Sông Lô 1, Sông Lô 2.
39.Thị trấn Lập Thạch có 11 khu từ khu 1 đến khu 11.
Tới năm 2000 các khu dân cư thuộc các xã, thị trấn trong huyện được
đổi thành các thôn, làng và khu phố. Toàn huyện có 422 thôn, làng, khu phố,
trong đó có 389 thôn, 27 làng và 6 khu phố. Đến năm 2003 Ủy ban nhân dân

21


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
tỉnh Vĩnh Phúc công nhận các thôn và tổ dân phố hiện có của tỉnh Vĩnh Phúc,
trong đó huyện Lập Thạch có 411 thôn thuộc 38 xã và 11 tổ dân phố thuộc thị
trấn Lập Thạch. Năm 2003, Chính phủ ra nghị định về việc thành lập thị xã
Phúc Yên và huyện Tam Đảo, huyện Lập Thạch chuyển 3 xã Bồ Lý, Đạo Trù,
Yên Dương về huyện Tam Đảo mới. Sau khi điều chỉnh, từ ngày 1 tháng 1
năm 2004 huyện Lập Thạch còn lại 3230,17 ha diện tích tự nhiên và 207.326
nhân khẩu với 36 đơn vị hành chính trực thuộc (gồm 35 xã và 1 thị trấn), v n

là huyện rộng nhất của tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, tách thị
trấn Tam Sơn và 17 xã: Bạch Lưu, Cao Phong, Đôn Nhân, Đồng Quế, Đồng
Thịnh, Đức Bác, Hải Lựu, Lãng Công, Nhạo Sơn, Nhân Đạo, Như Thụy,
Phương Khoan, Quang Yên, Tam Sơn, Tân Lập, Tứ Yên, Yên Thạch để thành
lập huyện Sông Lô. Huyện Lập Thạch hiện nay có 20 đơn vị hành chính phụ
thuộc, đólà 2 thị trấn: Lập Thạch (huyện lỵ), thị trấn Hoa Sơn và 18 xã: Bàn
Giản, Bắc Bình, Đình Chu, Đồng Ích, Hợp Lý, Liên Hòa, Liễn Sơn, Ngọc
Mỹ, Quang Sơn, Sơn Đông, Tiên Lữ, Thái Hòa, Triệu Đề, Tử Du, Văn Quán,
Vân Trục, Xuân Hòa, Xuân Lôi.
1.4. Vài nét về tình hình kinh tế, xã hội
Nền kinh tế huyện Lập Thạch đang từng bước phá thế độc canh, song tỷ
trọng thu nhập chủ yếu v n từ kinh tế nông nghiệp.
Ngoài ra, các cây lương thực, cây nguyên liệu, cây công nghiệp ngắn
ngày như lạc, đậu tương, mía v n được duy trì và phát triển. Một số cây công
nghiệp dài ngày đang dần được thu hẹp về diện tích để nhường chỗ cho các
giống cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như nhãn, vải, hồng, xoài. Bên cạnh
những nỗ lực tìm hướng đi trong việc phát triển tối ưu cây trồng trên đất nông
nghiệp, lâm nghiệp của huyện, các vùng chiêm trũng ven sông, các hồ trong
huyện đang được chú trọng phát triển chăn thả thủy sản, chủ yếu là cá. Với
phong trào cải tạo đồng chiêm trũng nuôi thả cá vụ, những năm gần đây Lập

22


Luận văn: Giáo dục nho học và các nhà khoa bảng huyện Lập Thạch, tỉnh
Vĩnh Phúc từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX
Thạch luôn duy trì ở mức ±1.200 ha mặt nước. Ngoài gia súc, gia cầm là vật
nuôi truyền thống, một số động vật nuôi mới đã được đưa vào sản xuất với
quy mô tương đối rộng như bò sữa, dê, ong mật. Phát triển đa dạng sản phẩm
hàng hóa và quy mô sản xuất, quy mô hộ gia đình và nhóm hộ gia đình gắn

với nông nghiệp nông thôn. Khôi phục và đầu tư chiều sâu các ngành nghề
truyền thống, ưu tiên phát triển sản xuất vật liệu xây dựng, sơ chế, chế biến
nông lâm sản, sản xuất hàng tiêu dùng, sửa chữa cơ khí, điện, điện tử là
những mục tiêu ưu tiên của chính quyền huyện. Những mặt hàng truyền thống
về mây, tre đan ở Triệu Đề sẽ là một trong những thế mạnh của huyện nếu có
được thị trường ổn định và sự quan tâm đầu tư đúng mức.
Về xã hội: Mạng lưới giáo dục rộng khắp phân bố đều trên địa bàn
huyện Lập Thạch, đáp ứng nhu cầu học tập của con em cư dân trên địa bàn
huyện. Hệ thống trường lớp phần lớn được đầu tư xây dựng kiên cố, cao tầng.
Ngoài ra,với sự quan tâm thích đáng của các cấp, các ngành và nhân dân
trong huyện nên chất lượng giáo dục ở các cấp học, bậc học ngày càng được
nâng lên.
Các cơ sở khám chữa bệnh trong huyện được trang bị cơ sở vật chất
tương đối đầy đủ. Đội ngũ cán bộ y tế được nâng lên cả số lượng và chất
lượng đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong huyện. Các chính
sách đối với người có công, người nghèo, vấn đề xóa đói giảm nghèo, giải
quyết việc làm cũng được các cấp chính quyền của huyện quan tâm góp phần
ổn định xã hội.
1.5. Truyền thống lịch sử - văn hóa
Thời kỳ dựng nước, Vĩnh Phúc là vùng đất liền kề với Kinh đô Văn Lang
và tiếp giáp với đỉnh tam giác Châu thổ sông Hồng, một miền đất có vị trí
chiến lược quan trọng, để lại nhiều di tích quý báu từ thời dựng nước và các
thời kỳ đấu tranh giữ nước. Trải qua các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại

23


×