Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

NGÔ lợi với HOẠT ĐỘNG yêu nước và tôn GIÁO ở HUYỆN TRI tôn, TỈNH AN GIANG THẾ kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.58 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

LÊ TÙNG CHÂU

NGÔ LỢI VỚI HOẠT ĐỘNG
YÊU NƯỚC VÀ TÔN GIÁO
Ở HUYỆN TRI TÔN, TỈNH AN GIANG THẾ KỶ XIX

Chuyên ngành:
Mã số:

Lịch sử Việt Nam
60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ: LỊCH SỬ VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: GS,TS. Nguyễn Ngọc Cơ

HÀ NỘI - 2015


LỜI TRI ÂN
Được tham dự lớp Cao học khóa 23 tại An Giang, tiếp tục nuôi dưỡng
“tình yêu”với môn khoa học lịch sử, bản thân luôn xác định nhiệm vụ quan
trọng nhất là cố gắng học tập, không ngừng trao dồi kiến thức, nắm bắt thật
vững vàng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong quá trình công tác và giảng dạy sắp tới, tác giả tiếp tục nghiên
cứu, bổ sung thêm những vấn đề thực tiễn liên quan đến đề tài, mong muốn
nhỏ nhoi là góp một chút sức lực vào công cuộc xây dựng quê hương, đất


nước ngày càng giàu đẹp. Quá trình thực hiện đề tài “Ngô Lợi với các hoạt
động yêu nước và tôn giáo ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thế kỷ XIX”
không khỏi có những sai sót, khiếm khuyết; những vấn đề lý luận và thực tiễn
chưa đề cập một cách thấu đáo. Kính mong thầy cô và các bạn học viên góp ý
giúp cho tác giả nhìn nhận vấn đề hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành tiếp thu và
tri ân.
Xin cám ơn tất cả thầy cô của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đặc
biệt là thầy cô của Khoa Lịch sử đã dạy dỗ em trong thời gian từ tháng 12
năm 2013 đến tháng 10 năm 2015. Qua thời gian học tập, em càng tin tưởng
hơn nữa tương lai tươi sáng của dân tộc Việt Nam, tin tưởng vào sự nghiệp
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, tin tưởng vào “sức mạnh” của
môn khoa học lịch sử. Xin được tri ân Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Cơ,
người Thầy – người đã bỏ ra rất nhiều công sức, không quản khó khăn để dìu
dắt, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Một lần nữa xin cám ơn!
Học viên thực hiện


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quyển Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1999, trang
459, tác giả Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá Thế đã viết như sau: “Ngô
Lợi (Canh Dần 1830 - Canh Dần 1890). Tu sĩ, tổ dòng Tứ Ân Hiếu Nghĩa 1 ở
miền núi Thất Sơn, tỉnh An Giang”. Bên cạnh đó, Ngô Lợi còn là người yêu
nước, có công khai khẩn đất hoang tại An Giang. Nhân vật lịch sử được hậu
thế ghi lại vài dòng kiêm tốn nhưng đằng sau cuộc đời hoạt động của ông là
pho “tiểu thuyết” đồ sộ về những cống hiến cho dân cho nước.
An Giang có nhiều tôn giáo, được các nhà nghiên cứu nhận định “là

bảo tàng tôn giáo của Việt Nam”, bao gồm: Phật giáo Việt Nam (Bắc tông,
Khất sĩ và Nam tông Khmer), Phật giáo Hoà Hảo, 04 hệ phái Cao đài, Công
giáo, Hồi giáo (Islam), Tin lành, Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam, Tứ ân
Hiếu nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương. Nghiên cứu về Ngô Lợi có ý nghĩa, một
mặt hiểu sâu thêm về nhân vật lịch sử, yêu nước có công lao đối với An
Giang; mặt khác có thể hình dung một cách tiếp cận mới đối với tôn giáo và
văn hóa tôn giáo Tứ ân Hiếu nghĩa.
Mục tiêu được đặt lên hàng đầu của đạo Tứ ân Hiếu nghĩa là đền trả Tứ
ân và yêu cầu đền trả ấy bằng những hành động cụ thể thiết thực. Thực chất
những yêu cầu này là sự xác định quyền lợi, nghĩa vụ của công dân đối với Tổ
quốc, với con người, với nhân loại. Nó thể hiện mối quan hệ đạo với đời, khơi
gợi truyền thống tổ tiên, ông bà; khơi gợi truyền thống yêu quê hương, yêu
đất nước… Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa là nơi hội tụ những người nuôi chí lớn
trước, trong và sau phong trào Cần Vương đã gây bao trở lực cho quá trình
bình định của Pháp trước đây. Trong chống Mỹ cứu nước, Bảy Núi là căn cứ
địa cách mạng của An Giang. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã thu hút
khá đông tín đồ của Tứ ân Hiếu nghĩa. Cho đến nay, có rất nhiều cá nhân và
1

Các tài liệu thường sử dụng cụm từ Tứ Ân Hiếu Nghĩa in hoa các từ đầu, Hiến chương Đạo hội Tứ ân Hiếu
nghĩa (BanTôn giáo Chính phủ ủy quyền UBND tỉnh An Giang chấp thuận năm 2010), chỉ còn từ Tứ và từ
Hiếu là in hoa.

1


tập thể tín đồ được Đảng và Nhà nước phong tặng các danh hiệu cao quý. Đó
cũng là niềm tự hào của những tín đồ Tứ ân Hiếu nghĩa.
Ngô Lợi sáng lập đạo Tứ ân Hiếu nghĩa, được tín đồ suy tôn Đức Bổn
sư. Quá trình hình thành và phát triển của Tứ ân Hiếu nghĩa gắn với lịch sử bi

tráng nhưng hào hùng của dân tộc từ năm 1858 đến ngày nay; vì vậy, có
nhiều tài liệu, công trình nghiên cứu, khảo cứu liên quan chưa công bố hoặc
đã công bố nhưng vì lý do lịch sử nên bị gián đoạn… Tuy nhiên, đến hiện nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, chi tiết, có hệ thống
dưới góc độ khoa học lịch sử, nhất là tiếp cận từ lịch sử địa phương tỉnh An
Giang.
Từ thực tế, yêu cầu khách quan nêu trên, việc nghiên cứu lịch sử
danh nhân địa phương là cần thiết, đây là vấn đề vừa có tính cấp thiết trước
mắt, vừa có tính lâu dài; hy vọng làm sáng tỏ tên thật, năm sinh, năm mất,
công lao khai khẩn đất hoang, chống Pháp…góp phần vào việc giáo dục thế
hệ trẻ qua những tiết dạy lịch sử địa phương. Vì thế tôi chọn đề tài: “Ngô
Lợi với các hoạt động yêu nước và tôn giáo ở huyện Tri Tôn, tỉnh An
Giang thế kỷ XIX” để làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành lịch sử
Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngô Lợi và đạo Tứ ân Hiếu nghĩa được nghiên cứu tương đối sớm ở
Việt Nam. Sau Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương, các tài
liệu, sách, tạp chí đã có đề cập nhưng chủ yếu là ở phía Nam. Sau năm 1975,
đặc biệt từ năm 2010, Đạo hội Tứ ân Hiếu nghĩa được Nhà nước công nhận,
Ngô Lợi và đạo Tứ ân Hiếu nghĩa càng được nghiên cứu sâu rộng hơn, cụ thể:
- Trước hết là các tài liệu đề cập gián tiếp đến Ngô Lợi và đạo Tứ ân
Hiếu nghĩa
Cuốn Đức Phật Thầy Tây An của Vương Kim - Đào Hưng (Nxb Long
Hoa, Sài Gòn, 1954) bàn sâu về ông Đoàn Minh Huyên, người lập ra đạo Bửu

2


Sơn Kỳ Hương, có chủ thuyết “tứ đại trọng ân” có so sánh với thuyết “tứ ân”
của ông Ngô Lợi;

Tạp chí Đuốc Từ Bi số 2/1965 và Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo của
Nguyễn Văn Hầu (Nxb Hương Sen, 1968) bàn về Phật giáo Hòa Hảo cũng đề
cập đến thuyết “tứ ân” của đạo Tứ ân Hiếu nghĩa;
Tác phẩm Nửa tháng trong miền Thất Sơn của Nguyễn Văn Hầu (Nxb
Hương Sen, 1971) giới thiệu về các ông đạo, Đức Bổn sư.
Các tác phẩm khác như : Lịch sử An Giang của Sơn Nam (Nxb Tổng
hợp An Giang, 1988) ; Tìm hiểu An Giang xưa của Võ Thành Phương (Văn
nghệ An Giang, 2004) và Địa chí An Giang xuất bản 2013 đã khái quát những
nét cơ bản về thân thế sự nghiệp của nhân vật lịch sử Ngô Lợi…
Có thể nói, các tài liệu nêu trên đã đề cập một vài nét về thân thế của
Ngô Lợi, về phong trào yêu nước do ông khởi xướng, về tôn giáo do ông sáng
lập. Tuy nhiên, họ tên, năm sinh của ông và ngày khai đạo vẫn chưa đồng nhất.
- Bên cạnh các tài liệu đề cập gián tiếp đến Ngô Lợi và đạo Tứ ân Hiếu
nghĩa, còn có một số tài liệu đề cập trực tiếp đến ông và tôn giáo do ông sáng
lập. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau:
Tác giả Đinh Văn Hạnh trong Luận án Phó Tiến sĩ khoa học lịch sử
(chuyên ngành dân tộc học) “Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt ở Nam
bộ - Việt Nam (1867-1975)” bảo vệ năm 1996 và cuốn sách chuyên khảo Đạo
Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt ở Nam bộ (1867-1975), 1999 đã đi sâu vào
nghiên cứu và giới thiệu sự phát triển của đạo Tứ ân Hiếu nghĩa giai đoạn
1867 - 1975. Tác phẩm cũng đã bước đầu đề cập đến phong trào yêu nước do
Ngô Lợi lãnh đạo;
Kỷ yếu hội thảo khoa học “Danh nhân Ngô Lợi với việc khẩn hoang
vùng đất An Giang vào cuối thế kỷ XIX” do Hội Khoa học lịch sử An Giang tổ
chức năm 2011 có nhiều bài nghiên cứu công lao của Ngô Lợi đối với việc
khẩn hoang.

3



Có thể nói cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu
cuộc đời, sự nghiệp và vị trí, ảnh hưởng của Ngô Lợi đối với vùng đất An
Giang.
Kế thừa thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, tác giả nghiên cứu
một cách hệ thống và toàn diện về Ngô Lợi với các hoạt động yêu nước và
tôn giáo ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thế kỷ XIX.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là cuộc đời và hoạt động yêu
nước, tôn giáo của Ngô Lợi trên địa bàn huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thế kỷ
XIX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian nghiên cứu:chủ yếu là khu vực tập trung đạo Tứ ân Hiếu
nghĩa ở địa bàn Tri Tôn là chủ yếu, Tuy nhiên, đạo Tứ ân Hiếu nghĩa cũng có
ảnh hưởng ở một số địa phương khác trong và ngoài tỉnh An Giang; do đó,
trong khi trình bày, luận văn có thể đề cập đến cả những không gian bên
ngoài địa bàn huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
- Thời gian: từ lúc Ngô Lợi sinh ra - năm 1831 đến lúc mất vào năm
1890 cùng một số mốc thời gian sau đó có liên quan.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ cụ thể sau đây:
Một là, bối cảnh lịch sử và nguồn gốc xuất thân của Ngô Lợi;
Hai là, những hoạt động yêu nước và tôn giáo nổi bật của ông Ngô Lợi;
Ba là, vai trò và ảnh hưởng của Ngô Lợi trong lịch sử An Giang cũng
như trong đạo Tứ ân Hiếu nghĩa.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
- Tài liệu lưu trữ ở UBND tỉnh An Giang; Chi cục Văn thư - Lưu trữ,
Ban Tôn giáo; Thư viện tỉnh An Giang…; như: báo cáo, quyết định, công
văn, sách, tạp chí, tài liệu tham khảo…

- Tài liệu thành văn:
+ Chuyên khảo: viết về tôn giáo
+ Tham khảo: địa chí, lịch sử…

4


Hầu hết các tài liệu nêu trên đều được tác giả thừa hưởng và kế thừa từ
những người đi trước, từ các công trình nghiên cứu…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: thống kê, tổng hợp, phân tích, đặt nhân vật Ngô Lợi trong không gian và
thời gian cụ thể ở huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang thế kỷ XIX và trong mối liên
hệ tương tác, đặt nhân vật lịch sử trong hoàn cảnh khách quan.
5. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ hơn những công lao của nhân vật lịch sử Ngô Lợi về yêu
nước, về tôn giáo; phục vụ cho công tác giáo dục truyền thống.
- Làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách đối với tín đồ
và tôn giáo Tứ ân Hiếu nghĩa.
- Tăng cường công tác quản lý tôn giáo.
- Góp phần hỗ trợ dạy lịch sử địa phương trong chương lịch sử Việt
Nam ở bậc trung học phổ thông.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung luận văn chia làm ba
chương:
Chương 1: Thời thế và nguồn gốc xuất thân của Ngô Lợi
Chương 2: Ngô Lợi với những hoạt động yêu nước và tôn giáo
Chương 3: Vai trò và ảnh hưởng của Ngô Lợi trong dòng chảy lịch sử

An Giang

5


Chương 1:
THỜI THẾ VÀ NGUỒN GỐC XUẤT THÂN
CỦA NGÔ LỢI
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh đất nước
Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước và đã tạo ra được một số dấu ấn
trong lịch sử dân tộc nhưng đến khoảng giữa thế kỉ XIX đã gặp phải nhiều
vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Lịch sử Nam bộ giữa thế kỷ XIX nằm trong bối cảnh lịch sử Việt Nam
bấy giờ. Nhưng ở Nam bộ có những nét đặc trưng tiêu biểu dẫn đến sự ra đời
của nhiều tôn giáo địa phương, trong đó có đạo Tứ ân Hiếu nghĩa.
Với diện tích 67.870 km 2, ở vào vị trí trung tâm của khu vực Đông
Nam Á, Nam bộ là địa bàn thuận lợi trong việc nối liền, giao lưu mọi mặt
với các nước láng giềng, lại có dãy đồng bằng rộng lớn, đất đai bằng phẳng,
màu mỡ, nhiều cá tôm,...[33, 19]. Do đó, từ rất sớm, Nam bộ trở thành miền
đất hứa của những người nông dân ra đi mở đất, tìm kế sinh nhai. Nhưng vì
là miền đất hoang chưa từng được khai phá nên đến giữa thế kỷ XIX, thiên
nhiên nơi đây còn rất khắc nghiệt, lại phải chống chọi với nhiều loại thú dữ
như cá sấu, cọp, muỗi, mồng, rắn rết,... và nhiều loại bệnh tật nơi rừng
thiêng nước độc.
Thành phần dân cư ở Nam bộ phong phú với nhiều tộc người cùng
chung sống như Việt, Khmer, Hoa, Chăm. Người Hoa, Khmer, Chăm sống rải
rác nhiều nơi, tập trung nhiều nhất ở An Giang, Cà Mau, Trà Vinh, Kiên
6



Giang, Sóc Trăng,... Khi mới tới Nam bộ, thực dân Pháp đã thống kê từ năm
1862 đến năm 1888, số người Việt nơi đây là 1.967.000 người, Khmer có
151.367 người, Hoa có 56.000 người và khoảng 13.200 người Chăm (năm
1880) [18, 96]. Tính riêng đồng bằng sông Cửu Long, năm 1867, số dân là
966.479 người2. Tuy các thành phần cư dân này có nguồn gốc địa phương
khác nhau, phong tục tập quán, phương thức làm ăn, thân phận, tôn giáo khác
nhau. Nhưng tất cả đều vì mục tiêu chung là đẩy lùi đầm lầy, cây dại, thú dữ
để khai hoang lập làng. Mặt khác, hầu hết họ là những lưu dân có cuộc sống
vất vả, bị bức bách phải bỏ xứ mà đi, thất bạị trong cuộc sống… nên khi đến
vùng đất mới, đầy lam sơn chướng khí, họ đã sớm nhận ra rằng muốn chiến
thắng thiên nhiên khắc nghiệt cần phải cố kết với nhau, cưu mang, đùm bọc
lẫn nhau. Ở họ, “chất dân chủ và quan hệ bình đẳng rộng rãi hơn, không phân
biệt người quê gốc với người ngụ cư, không nặng nề giáp họ, phe đẳng mà
trọng nghĩa khinh tài, “thấy việc nghĩa không làm là đồ bỏ”, “gặp chuyện
chẳng vừa lòng có thể xuống thuyền bỏ đi nơi khác”. Vả lại: “Nơi đây đất
rộng, người ít nên không phải ganh đua, phân biệt giàu nghèo, thoát khỏi sự
gò bó, cứng nhắc của lối sống cũ nên dần dần đã hình thành ở họ khí chất
phóng khoáng, chính trực, đôi lúc ngang tàng”,... trở thành “cá tính miền
Nam”, “cá tính Nam bộ” hay “đặc tính nông dân Nam bộ”. Do đó, đã diễn ra
quá trình giao thoa văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo giữa các tộc người nơi đây
và tạo thành một sắc thái văn hóa riêng của Nam bộ.
Xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đã rơi vào bế tắc và khủng
hoảng. Mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra liên miên. Đến nửa đầu thế kỷ
XIX vẫn không thể khắc phục được vấn nạn trên với chính sách cai trị hà
khắc, lạc hậu của triều đình nhà Nguyễn. Do sự suy yếu của kinh tế, nhà nước
không ngừng tăng thuế. Ở Nam bộ để thu được nhiều thuế, nhà Nguyễn phải
2

Nguyễn Công Bình (Chủ biên, 1995), Đồng bằng sông Cửu Long, Nghiên cứu Phát triển, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

7


mở rộng việc lập đồn điền ở các tỉnh Sóc Trăng, An Giang,... Điều đó đã đẩy
đời sống nhân dân vào cảnh khốn cùng, điêu đứng. Người dân không trả nổi
thuế phải bỏ xứ mà đi trở thành người đi tha phương cầu thực.
- Kinh tế: Theo thống kê năm 1841, Hà Tiên thiếu gạo, giá tăng hơn
gấp ba lần; năm l844, Biên Hòa mất mùa; từ năm 1851 đến năm 1865 dịch
bệnh, nạn đói hoành hạnh khắp nơi, nhất là các vùng Vĩnh Long, Đồng Tháp
và An Giang. Nhiều năm nông dân bỏ hoang ruộng đất vì đại hạn.
Nền kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp, trồng lúa nước là chủ yếu
nhưng với những chính sách sai lầm, thuế khóa nặng nề… dẫn đến tình trạng
nông nghiệp ngày càng sa sút; hệ quả: Ước tính, năm Tự Đức thứ hai (1849)
riêng tỉnh Vĩnh Long có hơn 43.000 người chết vì dịch bệnh…
- Bối cảnh chính trị: biên giới Tây Nam thường xuyên bất ổn; mối
quan hệ giữa các vương triều phong kiến trong khu vực phức tạp bao gồm nhà
Nguyễn, Xiêm, Chân Lạp và Ai Lao. Cùng lúc đó, thực dân Pháp lần lượt
chiếm Nam Kỳ lục tỉnh của nhà Nguyễn khiến cho dời sống nhân dân ở vùng
Tây Nam bộ, tỉnh An Giang và huyện Tri Tôn cũng bị ảnh hưởng sâu sắc.
Đã thế, bọn quan lại, địa chủ còn ra sức vơ vét, bóc lột nhân dân thậm
tệ, dẫn đến chiến tranh nông dân nổ ra liên miên nhằm tìm một lối thoát cho
cuộc sống làm cho sự rối ren về xã hội ngày càng trầm trọng. Nhưng hầu hết
các cuộc nổi dậy đều mang tính tự phát, chỉ diễn ra ở một địa phương, vùng
miền, rời rạc nên dễ dàng bị đàn áp dã man như: Khởi nghĩa Lê Văn Khôi
(1833 - 1835) ở miền Tây Nam bộ; khởi nghĩa ở Hà Âm, Hà Dương ở Kiên
Giang (1838 - 1842), khởi nghĩa ở vùng kênh Vĩnh Tế, Thất Sơn (1841); khởi
nghĩa Lâm Sâm ở Trà Vinh (1842),… Năm 1858, giặc Pháp nổ súng xâm
lược nước ta. Triều đình nhà Nguyễn bạc nhược, nhượng đất cho giặc, dần

dần biến nước ta thành thuộc địa của thực dân Pháp. Một cổ hai tròng, đời
8


sống nhân dân đã khốn khổ, trở nên khốn khổ, bế tắc hơn bao giờ hết; nảy
sinh nhu cầu an ủi về mặt tâm linh.
Như vậy, bối cảnh chung của xã hội Nam bộ lúc bấy giờ, xuất hiện
một số quan niệm mới trong các tầng lớp dân cư: một số ít đầu hàng theo
chân thực dân Pháp mưu lợi cá nhân; một bộ phận không chịu làm nô lệ dựng
cờ khởi nghĩa và đại đa số là những người chạy loạn từ các tỉnh miền Đông
sang các tỉnh miền Tây, rồi chạy vào rừng sâu núi thẳm để lánh nạn. Trong
hoàn cảnh khốn khó đó, bộ phận này chỉ trông chờ vào phép màu cứu độ cho
qua “bể khổ” .
Thất bại trong kinh tế, thất trận trong đấu tranh vũ trang, khủng hoảng
trong đời sống tinh thần (do không tìm thấy lối thoát),... là những lý do khiến
những người đồng cảnh ngộ cảm thông nhau hơn, yêu thương, đoàn kết hơn,
và cùng mơ ước một tương lai tốt đẹp. Chính thời đỉểm này, sự xuất hiện của
các tôn giáo bản địa với tôn chỉ hành đạo nhập thế, cứu giúp người nghèo
khổ, an bang tế thế, cùng với hệ thống giáo lý mang đậm màu sắc dân tộc
Việt, lại phù hợp với đời sống tâm linh người Việt ở Nam bộ nên dễ dàng
được chấp nhận và ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng. Có nhiều hình thức tôn
giáo, với rất nhiều "Ông đạo” xuất hiện, nhưng có ảnh hưởng hơn cả thời bấy
giờ là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương do ông Đoàn Minh Huyên sáng lập (năm
1849) và Tứ ân Hiếu nghĩa do Ngô Lợi phát phái (năm 1867), sau này là các
đạo Cao Đài (1926), Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam (1936), Phật giáo Hòa
Hảo (1939), ... Thời gian này, sự ra đời của các đạo giáo ở Nam bộ nói chung,
Tứ ân Hiếu nghĩa nói riêng là một phương thuốc hữu hiệu tạo ra sự thăng
bằng trong tư tưởng người Việt ở Nam bộ, là một cứu cánh về niềm tin của
họ. Trong khi với ý thức hệ Nho giáo, các cuộc kháng chiến chống Pháp của
ta đều thất bại, tinh thần Phật giáo không thể giúp đuổi giặc ngoại xâm, các

đạo sĩ Lão giáo không thể "sái đậu thành binh” (tức biến đậu xanh thành binh

9


lính) giết giặc thì sự ra đời của các tôn giáo Nam bộ với sự kết hợp “tinh hoa”
truyền thống (Nho – Lão - Phật, chủ nghĩa yêu nước và tín ngưỡng dân gian)
như một phương thuốc nhiệm mầu, là cứu cánh để người ta tin vào một tương
lai sáng lạn. Nếu ở miền Bắc nước ta nổi lên với các phong trào Cần Vương
(1885 - 1896), Yên Thế (1883 - 1913),... thực hiện bởi những chí sĩ yêu nước
chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng phong kiến thì, ở miền Nam, sau những thất bại
liên tiếp của các cuộc khởi nghĩa như: Võ Duy Dương ở Đồng Tháp Mười
(thất bại tháng 4/1866), Phan Tôn - Phan Liêm ở Bến Tre (thất bại tháng
11/1867), Trương Định (thất bại tháng 8/1868), Nguyễn Trung Trực ở Rạch
Giá (thất bại năm 1868), Trần Văn Thành ở An Giang (thất bại năm 1873).
Nguyễn Hữu Huân ở Mỹ Tho (thất bại năm 1875),.., chỉ còn cách dựa vào các
tổ chức Hội kín, đặc biệt là các tổ chức tôn giáo nhập thế để xây dựng lực
lượng, chờ thời cơ hành động. Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa ra đời đã quy tụ được rất
đông các sĩ phu yêu nước, chiến sĩ thất trận, anh hùng nghĩa sĩ,... nên phát
triển rất nhanh ở vùng đất Nam bộ.
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam vào năm 1858, từng bước chiếm
ba tỉnh miền Đông, ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ. Các phong trào yêu nước
chống thực dân Pháp, giành lại đất Nam bộ diễn ra sôi nổi nhưng vẫn lần lượt
thất bại.Phương thức chiến đấu dựa vào vũ khí lạnh đã không thể chiếm ưu
thế trước hỏa lực, vũ khí hiện đại của thực dân Pháp; hơn bao giờ hết, cần có
một hình thức tập hợp lực lượng và khởi nghĩa vũ trang phù hợp với tình hình
mới. Ông Ngô Lợi đã xuất hiện và thực hiện sứ mệnh của mình với niềm tin
sắt đá đến hơi thở cuối cùng.
Góp những tài liệu sẵn có, phối kiểm cùng những lời truyền tụng,
cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Lợi gắn liền với sự hình thành và phát triển

của Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa.
Sau cuộc khởi nghĩa ở Bảy Thưa, Đô đốc Nam kỳ là Dupé ký nghị

10


định ngày 22/4/1873 cấm Đạo Lành hoạt động, nội dung như sau: Những
chức sắc của đạo lành Bửu Sơn Kỳ Hương đều bị truy tố theo luật “Đảng
Cựu”. Nhưng quan trọng hơn hết là phong trào “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” do Ông
Ngô Viện còn có tên là Ngô Lợi, hoặc Ông “Năm Thiếp” cầm đầu.
Trong thời gian tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương ở vùng Bảy Thưa - Láng
Linh đang chuẩn bị và thực hiện cuộc khởi nghĩa chống Pháp (1867), do Trần
Văn Thành lãnh đạo, thì ở vùng Châu Đốc (An Giang) dân chúng xôn xao về
một người được giáng thế, truyền đạo cứu đời. Người ấy có tên là Ngô Lợi và
tôn giáo do Ông truyền dạy, sau này, được gọi là đạo Tứ ân Hiếu nghĩa hoặc
đạo Hiếu Nghĩa, theo cách gọi tắt của nông dân Nam bộ.
1.1.2. Bối cảnh nơi ra đời và phát triển tôn giáo
- Lịch sử hình thành vùng đất Tri Tôn:
Thế kỷ XVII, vùng đất Tri Tôn đã thuộc về chúa Nguyễn. Năm 1839,
vùng đất huyện Tri Tôn ngày nay thuộc huyện Hà Dương, phủ Tĩnh Biên,
tỉnh Hà Tiên.
Năm 1842, phủ Tĩnh Biên thuộc tỉnh An Giang. Năm 1850, vùng đất
này thuộc huyện Hà Dương, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang.
Năm 1876, Tri Tôn thuộc hạt Châu Đốc.
Năm 1889, vùng đất này là quận Tri Tôn thuộc tỉnh Châu Đốc.
Năm 1857, quận Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang gồm 3 tổng với 15 xã là:
Tri Tôn, An Tức, Nam Quy, Cô Tô, Ô Lâm thuộc tổng Thành Lễ; Tà Đảnh,
Thuyết Nạp, Trác Quan, Tú Tề, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Yên Cư thuộc tổng
Thành Ý; Châu Lăng, Lê Trì, Lương Phi thuộc tổng Thành Ngãi.
Năm 1864, quận Tri Tôn thuộc về tỉnh Châu Đốc gồm 12 xã là: An Cư,

An Hảo, An Lạc, An Tức, Cô Tô, Lê Trì, Lương Phi, Ô Lâm, Tri Tôn, Tú Tề,
Văn Giáo, Vĩnh Trung.
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, quận Tri Tôn thuộc tỉnh Châu Đốc.
Năm 1948, Tri Tôn thuộc tỉnh Long Châu Hậu. Năm 1950, thuộc tỉnh Long
Châu Hà.

11


Tháng 7 năm1951, sáp nhập vào huyện Tịnh Biên. Sau đó, tháng
10/1954, tách thành hai huyện như cũ, Tri Tôn thuộc về tỉnh Châu Đốc. Năm
1971, Tri Tôn thuộc tỉnh Châu Hà; năm 1974, thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Sau năm 1975, huyện Tri Tôn thuộc tỉnh An Giang. Huyện Tri Tôn hợp
nhất với huyện Tịnh Biên thành một huyện lấy tên là huyện Bảy Núi theo
Quyết định 56-CP ngày 11/3/1977 của Hội đồng Chính phủ.
Năm 1979, huyện Bảy Núi tách thành hai huyện lấy tên là huyện Tri
Tôn và huyện Tịnh Biên theo Quyết định 300-HĐBT ngày 23/8/1979 của Hội
đồng Bộ trưởng. Theo quyết định này, huyện Tri Tôn gồm có các xã An
Lạc, An Lập, An Ninh, An Phước, An Thành, Ba Chúc, Cô Tô, Lạc Quới, Núi
Tô, Tân Cương, Tân Tuyến, Vĩnh Gia và thị trấn Tri Tôn (trước là thị trấn
Bảy Núi).
Năm 2003, thành lập thị trấn Ba Chúc trên cơ sở 2.056 hécta diện tích
tự nhiên và 13.122 người của xã Ba Chúc. Đổi tên xã Ba Chúc thành xã Vĩnh
Phước theo Nghị định 119/2003/NĐ-CP ngày 17/10/ 2003 của Chính phủ.
Thế kỷ XIX, quận Tri Tôn có đặc điểm kinh tế - xã hội đặc thù, dân cư
thưa thớt, tập trung những nơi thị tứ (gồm 12 xã/71 xã của tỉnh Châu Đốc),
đất đai hoang hóa, chủ yếu là phèn chua, rừng rậm (dân gian thường gọi là đất
lâm), địa bàn quận Tri Tôn bao gồm cả khu vực Basăc thuộc tỉnh Cần Đăng
và Tà Keo của Campuchia ngày nay; sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với
diện tích nhỏ lẻ, năng suất và sản lượng thấp (mỗi năm làm một vụ lúa).

- Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên:
Tri Tôn là một huyện miền núi có diện tích lớn nhất 59.763 hécta và
dân cư thưa thớt nhất tỉnh An Giang, dân số 132.635 người, chiếm 5,65% dân
số cả tỉnh; Tri Tôn cách tỉnh lỵ (Long Xuyên) 52 km về phía Tây, cách Hà
Tiên - Kiên Giang 83 km, Châu Đốc 44 km, Lâm Viên - Núi Cấm 7 km. Phía
Đông giáp các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, phía Bắc giáp huyện Tịnh
Biên, phía Tây Bắc giáp Campuchia (với 17,2 km đường biên giới), phía Nam
giáp tỉnh Kiên Giang.

12


Địa hình Tri Tôn đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng với nhiều
kênh mương lớn nhỏ ngang dọc. Trên địa bàn huyện có các ngọn núi sau: Núi
Nam Quy cao 213 m, chu vi 8.875 m, thuộc cụm núi Cấm, ở xã Châu Lăng.
Núi Tà Lọt cao 69 m, chu vi 870 m, thuộc cụm núi Cấm, ở xã Châu Lăng. Núi
Dài còn gọi là Ngọa Long Sơn, cao 554 m, chu vi 21.625 m, thuộc cụm núi
Dài, ở xã Lê Trì. Núi Tượng còn gọi là Liên Hoa Sơn, cao 145 m, chu vi
3.825 m, thuộc cụm núi Dài, ở thị trấn Ba Chúc. Núi Sà Lon, cao 102 m, chu
vi 2.325 m, thuộc cụm núi Dài, ở xã Lương Phi. Núi Nước còn gọi là Thủy
Đài Sơn, cao 54 m, thuộc cụm núi Dài, ở thị trấn Ba Chúc. Núi Cô Tô, còn
gọi là Phụng Hoàng Sơn, cao 614 m, chu vi 14.375 m, thuộc cụm núi Cô Tô,
xã Cô Tô. Núi Tà Pạ, cao 102 m, chu vi 10.225 m, thuộc cụm núi Cô Tô, xã
An Tức, thường gọi là đồi.
Tri Tôn có hai loại rừng là: rừng tự nhiên và rừng trồng. Khi xưa, vùng
đồi núi Tri Tôn chủ yếu là rừng rậm với nhiều loại gỗ quý. Đến thế kỷ XVII,
nơi đây vẫn còn là vùng đất hoang vu, chưa được khai thác bao nhiêu, rừng
hãy còn là rừng nguyên sinh.Lịch sử khai phá thảm thực vật ở đây được ghi
nhận từ năm 1862. Qua khai thác và chiến tranh, thảm thực vật bị giảm sút
nghiêm trọng, cân bằng sinh thái bị phá vỡ. Những năm gần đây, huyện tập

trung phát triển rừng trồng, phủ xanh đồi trọc.
Vào mùa khô, nhiệt độ ở Tri Tôn thường rất cao, trung bình khoảng 36
- 38oC, khắc nghiệt nhất là vào tháng 4. Đây là thời điểm khó khăn nhất cho
sản xuất nông nghiệp và đời sống người dân. Các khe suối trê núi đều khô
cạn, những cánh đồng hoa màu chết cháy, hàng ngàn hộ dân thiếu nước sinh
hoạt nghiêm trọng.
1.1.3. Dân tộc, tôn giáo và văn hóa
- Niên giám thống kê năm 2009, huyện Tri Tôn có 132.635 người, mật
độ dân số 221 người/km 2. Thành phần dân tộc bao gồm Kinh, Khmer, Hoa;
trong đó người Kinh chiếm đa số.

13


- Tôn giáocủa huyện cũng khá đa dạng, bao gồm: Phật giáo Việt Nam,
66.363 tín đồ (45 cơ sở thờ tự; trong đó 37 cơ sở thờ tự của Nam tông
Khmer); Tịnh độ cư sỹ Phật hội Việt Nam, 88 tín đồ (01 cơ sở thờ tự); Cao
đài Tây Ninh, 1.004 tín đồ (01 cơ sở thờ tự); Công giáo, 354 tín đồ (01 cơ sở
thờ tự) và Tứ ân Hiếu nghĩa, 30.600 tín đồ (37 cơ sở thờ tự).
- Các lễ hội lớn trong năm của huyện, gồm:
Lễ hội đua bò, được luân phiên tổ chức hàng năm giữa hai huyện Tri
Tôn và Tịnh Biên ngay vào thời điểm tết Đôn ta (Dolta) của người Khmer tức
khoảng tháng 8-9 âm lịch và đua tranh trong một ngày. Nếu như các vùng Sóc
Trăng, Trà Vinh… có đua “ghe Ngo” vì gần sông nước thì ở vùng Bảy Núi
nhiều núi, đồi có đua bò. Đây là một lễ hội mang đậm tính nông nghiệp diễn
ra trên đồng ruộng sau khi đã gặt hái một mùa lúa bội thu. Bò là con vật thân
thiết với đồng bào Khmer Nam Bộ. Đến vùng núi Thất Sơn, có thể dễ dàng
bắt gặp hình ảnh hàng chục đôi bò chăm chỉ cày bừa trên những cánh đồng
lúa dưới chân núi, hay cần mẫn kéo xe trên đường. Ngày trước, vào vụ mùa,
bà con trong phum, sóc thường đến cày ruộng cho chùa và đổi công giúp

nhau. Các đôi bò kéo bừa được chủ nhân rủ nhau đua trên nền ruộng, có khi
bò kéo lúa trở về nhà, cũng được các chủ bò rủ nhau đua. Lễ hội đua bò có
nguồn gốc từ đó.
Lễ hội đua bò Bảy Núi thường được tổ chức vào dịp đồng bào Khmer
đón lễ Đônta. Trước đây, mỗi cuộc đua bò thường được Sư Cả (trụ trì, thường
gọi ông Lục) của ngôi chùa trong vùng đứng ra tổ chức. Đôi bò thắng được
đeo dây cà tha, vòng lục lạc tượng trưng cho chiến thắng. Từ năm 1992, chính
quyền hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên luân phiên nhau tổ chức lễ hội. Những
con bò tham gia thi đấu được lựa chọn qua ba vòng loại từ cơ sở, xã,
huyện. Bò được lựa chọn đi thi phải là những con mình gân, chân cao, dáng
dỏng dảnh, được rèn luyện quyết liệt trong nhiều tháng. Người ta phải tập cho
bò hiểu được ý chủ, lúc nào chạy nhanh lúc nào chạy chậm, khi nào thì vọt

14


nhanh, lúc nào đạp bừa đôi trước, cách bám đường đua và nghệ thuật chặt cua
nhưng vẫn giữ tốc độ, không chạy ra ngoài vòng đua.....
Trước lễ hội một tháng, đôi bò được chủ nhân chăm sóc với một chế độ
dinh dưỡng đặc biệt, tắm rửa, lau khô mình bằng những chiếc khăn bông mềm
mại, uống nước dừa tươi, nước thốt nốt, ăn cháo hột gà nhằm đảm bảo sự dẻo
dai trong suốt những chặng đua. Người tham gia đua bò không vì lợi nhuận
mà vì thú vui, thường là người có kinh tế khá giả.Sau khi đoạt giải, đôi bò
được chào mua với giá cao rất nhiều lần so với giá trị thực, nhưng thường chủ
bò sẽ không bán. Họ giữ bò như tài sản vô giá.
Lễ hội đua bò hằng năm thu hút hàng chục ngàn lượt người từ khắp các
tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long và nhiều nơi khác đến tham dự.
Tết Chol Chnăm Thmây, là lễ tết vào năm mới của người Khmer (mừng
lúa mới hay lễ chịu tuổi). Lễ nhằm vào đầu tháng chét theo Phật lịch phái
nguyên thủy Therevada - tức Phật giáo được tiếp thu nguyên thủy từ Phật

Thích ca tu hành và đạt đạo (Phật giáo của người Kinh đa số theo phái
Mahayana, vốn đã được cải biên và ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc). Đây là
thời gian mùa màng đã thu hoạch xong, rảnh rang tha hồ vui chơi giải trí.
Người Khmer đón năm mới với ý nghĩa cũng như bao dân tộc khác.
Lễ cúng Trăng - Ok Om Bok, là một nghi lễ độc đáo của đồng
bào Khmer Krom (tên gọi của người dân Campuchia gọi đồng bào Khmer ở
vùng đất Thủy Chân Lạp, nay là Nam bộ Việt Nam). Trong quan niệm của
người Khmer thì Mặt Trăng là vị thần bảo vệ mùa màng, bảo vệ tôm cá và
giúp con người sống hạnh phúc ấm no. Lễ cúng Trăng thường được tổ chức
vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch) để tạ ơn thần Mặt Trăng vào đêm rằm, trước
khi trăng sáng, mọi người sửa soạn các mâm cỗ ở sân nhà hoặc sân chùa. Cỗ
cúng Trăng gồm có cốm, chuối chín, dừa tươi gọt vỏ, sắn....Người ta làm lễ
cúng Trăng khi Trăng đã toả sáng. Cùng với lễ cúng người ta thả những chiếc

15


đèn giấy lên trời và thả những chiếc bè chuối có bày lễ vật trôi theo kênh
rạch. Trong ngày cúng Trăng người Khmer tổ chức nhiều trò vui.
- Ở huyện Tri Tôn có nhiều di tích, danh thắng đặc biệt:
Chùa Svay-ton (Xvayton): Địa danh Tri Tôn được xuất phát từ ngôi
chùa Khmer này. Theo lời kể dân gian ngày xưa nơi đây ít người sinh sống,
trên những ngọn cây cao có rất nhiều khỉ thường xuống đất níu kéo người.
Nên khi xây chùa người dân đã đặt cho ngôi chùa tên là Xvayton (Xvay: Khỉ;
Ton: đeo, níu kéo) sau này nói chại là Xà Tón và nay là Tri Tôn. Ngôi chùa đã
có lịch sử trên 200 năm, nằm ngay trung tâm của thị trấn Tri Tôn, trong chùa
còn lưu giữ được bộ kinh Slấc-rích (kinh viết chữ Pali trên lá buông) rất có
giá trị về văn hóa lịch sử của người Khmer.
Đồi Tức Dụp, là một ngọn núi nhỏ của núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn)
thuộc xã An Tức. Tức Dụp có độ cao 216 m, diện tích trên 2 km² cấu trúc khá

độc đáo rất nhiều hang sâu, động lớn và chằn chịt. Là khu căn cứ địa cách
mạng, người Mỹ đã bỏ ra 2 triệu đô la để đổi lấy thất bại với ngọn đồi này.
Hiện nay xung quanh khu vực dưới chân đồi đã xây dựng thành khu du lịch
và giải trí khá rộng lớn. Các hang động được thiết kế đường đi kiên cố dễ
dàng tham quan chiến trường xưa. Đặt biệt có khu giải trí bắn súng thật. (Tức
Dụp, đúng ra là Tức Chôp: Nước chảy như có phép màu).
Nhà mồ Ba Chúc, cách thị trấn Tri Tôn khoảng 17 km về phía tây nam,
Khu chứng tích được xây dựng nhằm tưởng nhớ 3.157 người dân Ba Chúc bị
Pol Pot (Khmer Đỏ) thảm sát, giết hại một cách tàn nhẫn dã man trong 11
ngày đêm vào năm 1978. Nhà mồ còn đang lưu giữ 1.159 bộ xương cốt trong
tủ kính. Xung quanh nhà mồ có Chùa Tam Bửu (tổ đình của đạo Tứ ân Hiếu
nghĩa) và Chùa Phi Lai (nơi vẫn còn để lại những vết máu trong cuộc thảm sát
của Pol Pot).
Hồ Soài So (lúc trước còn gọi là Suối Vàng) và núi Cô Tô, hồ nằm
ngay dưới chân núi Cô Tô cách trung tâm huyện chưa đầy 2 km. Đây cũng là
đường đi chính lên núi Cô Tô. Một nơi khá mát mẻ, yên tĩnh được thiên nhiên
16


ban tặng. Do hồ nằm cạnh núi nên có thể leo núi thưởng ngoạn phong cảnh
hoang sơ đắm mình với những con suối chảy trong xanh mát lạnh. Men theo
triền núi là những ngôi chùa, ngôi miếu có thể nghỉ ngơi để chinh phục độ cao
mới. Ở khu vực giữa núi có một nơi người dân gọi là Sân Tiên (bàn chân
Tiên) theo tương truyền ngày xưa có một vị tiên đã in dấu gót giày xuống đây
(dấu gót giày khoảng 5 - 6 gang tay). Xung quanh khu vực sân Tiên còn có
bàn cờ và hầm chén.
Hồ Tà Pạ nằm ở núi Chưn Num (Tà Pạ). Nó là dấu vết còn sót lại của
khu vực khai thác đất đá đã bị cấm của một vài công ty khai thác trước đây.
Đứng trên núi Tà Pạ có thể thấy một cánh đồng to lớn và một Núi Tô hùng vĩ
trước mắt, phong cảnh nên thơ hữu tình và một bên là hồ Tà Pạ trong xanh.

Hiện nay, huyện Tri Tôn đang phát triển các vùng chuyên canh hoa
màu, chế biến nông sản, khai thác đá và các thế mạnh về tài nguyên thiên
nhiên khác. Đời sống tinh thần của đồng bào rất phong phú với các hoạt động
văn hoá lễ hội như: Chol Chnăm Thmay, Piat bôdia, Chol casa, Dolta.....Với
những tiềm năng đó, Tri Tôn có nhiều cơ hội phát triển đi lên bền vững. Cháo
bò nặn trái chúc (một thứ trái giống như trái chanh nhưng vỏ xù xì, tự mọc
nhiều ở miền núi này; khi nặn, thao tác ngược với nặn chanh), bò xào lá
giang, bánh bò được làm từ trái thốt nốt, khô bò, gà hấp lá chúc, canh sam-lo,
… là những món ăn ngon của người dân Khmer bản địa lâu đời.
1.2. Nguồn gốc và xuất thân của Ngô Lợi
Sau năm 1867, Việt Nam tiếp tục mất ba tỉnh Tây Nam bộ nhưng
ngược lại thái độ yếu hèn của nhà Nguyễn, nhân dân Nam bộ tiếp tục tổ chức
các hoạt động chống thực dân Pháp, lần lượt những phong trào yêu nước xuất
hiện và tiếp tục phát triển. Phong trào yêu nước của Ngô Lợi - Đạo Tứ ân
Hiếu nghĩa ra đời đã quy tụ được rất đông các sĩ phu yêu nước, chiến sĩ thất
trận, anh hùng nghĩa sĩ,... nên phát triển rất nhanh ở vùng đất Nam Bộ.
Ngô Lợi, sinh tại Quận Mõ Cày (Kiến Hòa) lúc giờ Ngọ, ngày mùng 5

17


tháng 5 năm Tân Mão (1831), nhũ danh là Viện. Khi lớn lên có húy danh là
Lợi [13, 15] nay là xã Trà Tân, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Về nơi sinh và
năm sinh của ông còn có nhiều điểm chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng ông
sinh năm Canh Dần (1830)3, hoặc năm Nhâm Thìn (1832)4 và nơi sinh lại là
Châu Đốc (Làng Dội, Mộc Bài)5. Trên thực tế từ trước đến nay, hàng năm tín
đồ đạo Tứ ân Hiếu nghĩa tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật người sáng lập ra tôn
giáo của họ là mồng 5 tháng 5 âm lịch và lấy năm 1831 để làm mốc tính tuổi.
Và, điều này lại được căn cứ vào lời một bài Kệ trong Kinh Hiếu Nghĩa
(quyển Trung):

Tân Mão niên Ngũ ngoạt,
Sơ ngũ nhật Ngọ thời,
Hạ trưởng thọ thiên ân,
Ngô bổn tôn sở hiệu...6.
Từ nhỏ Ngô Lợi đã bị mất bố (tên là Ngô Nhàn, làm nghề thợ mộc;
nguyên quán xã Bình An, Định Tường, nay là Cai Lậy, Tiền Giang. Khi mang
thai ông Ngô Lợi, bố mẹ ông đã về Mỏ Cày), ông sống với mẹ (bà Phạm Thị
Xuyên) ở Trà Tân, Mỏ Cày, Bến Tre đến lúc trưởng thành 7,8. Trước 20 tuổi,
Ngô Lợi làm nghề nông, tự học và thích đọc sách Phật 9; đến giai đoạn này,
hậu thế vẫn chưa biết rõ tuổi thơ, con người, cá tính của Ngô Lợi nhưng vào
năm 1851, ông viết Bà - La - ni kinh, dài khoảng 223 chữ Hán. Đây là một
trong những cuốn kinh quan trọng, được viết đầu tiên của đạo Tứ ân Hiếu
nghĩa. Cũng cần nói thêm, trước khi viết cuốn kinh này và sau đó, có thể Ngô
3

Nguyễn Văn Hầu (1969), Nhận thức Phật giáo Hòa Hảo, Nxb Hương Sen, Sài Gòn.
Huỳnh Ngọc Trảng - Trương Ngọc Tường (1992), Nghìn năm bia miệng, Tập II, Nxb Tp Hồ Chí Minh.
5
Vương Kim - Đào Hưng (1953), Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
6
Đức Bổn Sư (1967), Linh sơn hội thượng kinh, Hiếu nghĩa kinh (Quyển Thượng, Trung và Hạ), Nhà in Phật
Đường Tự, Chợ Lớn, Bản dịch Việt ngữ.
7
Hà Tân Dân (1971), Hệ Phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật giáo Bửu Sơn Kỳ
Hương,Sài Gòn.
8
Lược về bốn chữ Bửu – Sơn – Kỳ - Hương, Tài liệu chép tay của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa xã Ba Chúc, lưu
giữ tại nhà cố Trưởng gánh Bùi Văn Lê (An Định, Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang), 22 tờ.
9
Phan Lạc Tuyên (9/1992), Những Đạo giáo ở Nam bộ, Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Kỷ yếu hội

thảo khoa học "Các giáo phái Phật giáo ở miền Nam Việt Nam", Bản quay Ronéo.
4

18


Lợi chưa bao giờ là đệ tử học đạo hay tín đồ của Phật Thầy Tây An10, 11, 12.
Nhiều tài liệu cho biết, trước năm 1866, Ngô Lợi đã viết một số sách
kinh, đi rao giảng và khuyên người đời tu niệm nhiều nơi [13, 15 - 16]. Ngô
Lợi khuyên mọi người bỏ tư danh, tư lợi, đừng ham công danh phú quý, phải
biết yêu thương đồng bào, nhân loại, có trách nhiệm với đất nước khi bị ngoại
xâm giày xéo13. Vào thời gian này bệnh dịch đang hoành hành khắp nơi, thực
dân Pháp đẩy mạnh việc bình định các tỉnh ở Nam bộ. Đời sống nhân dân hết
sức bế tắc, điêu linh.
Năm 1864, việc thương thuyết hoàn trả ba tỉnh miền Đông Nam bộ
mà triều Nguyễn đã nhượng cho người Pháp trước đó không thu được kết
quả14. Phong trào “tỵ địa” của một bộ phận khá đông sỹ phu và nông dân từ
miền Đông sang miền Tây diễn ra mạnh mẽ, gây nên sự xáo trộn xã hội, ảnh
hưởng mọi mặt đến đời sống nông dân 15. Trong dân gian lưu truyền câu “sấm
vãn” về thời cuộc:
“Hạ ngươn Giáp Tý đầu niên (1864 ?)
Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào”.
Ngô Lợi bấy giờ vừa khuyên người đời tu niệm, vừa chữa bệnh (dịch)
cho mọi người theo phương pháp như trước đây Đoàn Minh Huyên đã làm:
cho bệnh nhân uống nước lã, giấy vàng vẽ bùa và có thêm niệm thần chú.
Ông đã cứu sống được nhiều người, danh tiếng vang dội khắp nơi, thu hút
hàng ngàn người tìm đến ông để chữa bệnh và học đạo16.
Tháng 5 năm 1867, Ngô Lợi chính thức truyền đạo và dạy nghi thức
10


Vương Kim (1966), Bửu Sơn Kỳ Hương, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
Hà Tân Dân (1971), Hệ Phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật giáo Bửu Sơn Kỳ
Hương,Sài Gòn.
12
Vương Kim - Đào Hưng (1953), Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
13
Lược về bốn chữ Bửu - Sơn - Kỳ - Hương, Tài liệu chép tay của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa xã Ba Chúc, lưu
giữ tại nhà Trưởng gánh Bùi Văn Lê (An Định, Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang), 22 tờ.
14
Nguyễn Duy Oanh (1994), Quân dân Nam kỳ kháng Pháp, trên mặt trận quân sự và văn chương (1859
-1885), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
15
Trần Thị Thu - Võ Thành Phương (1991), Khởi nghĩa Bảy Thưa (1867 - 1873), Nxb thành phố Hồ Chi Minh.
16
Vương Kim - Đào Hưng (1953), Đức Phật Thầy Tây An, Nxb Long Hoa, Sài Gòn.
11

19


hành đạo cho nông dân. Tương truyền lúc đó ông đã “đi thiếp” nhiều ngày để
gột rửa “bụi trần” và thấu đạt chân lý! Trong kinh Hiếu Nghĩa Ngô Lợi viết:
“Hướng thượng Đinh Mão tuế, Ngũ ngoạt nhật ngọ diên. Chuyển ngã thân
khứ tục, Thất nhật dạ đê mê. Tịch nhiên hồi hoán tỉnh, Giải thoát tẩy trần
tâm. Giáo nhơn tùng thiện đạo, Khẩu khuyết phổ lưu truyền”17 (tạm dịch là:
Trở lại năm Đinh Mão, vào ngày Ngọ tháng 5, ta trở mình lìa tục, hôn mê bảy
ngày đêm. Sau đó bỗng nhiên tỉnh dậy, giải thoát sạch lòng trần. Dạy mọi
người theo đạo Thiện và truyền giáo khắp muôn dân).
* Tiểu kết chương 1
So với cả nước, đến giữa thế kỷ XIX, Nam bộ vẫn là vùng đất mới có

nhiều nét đặc thù; môi trường thiên nhiên phong phú và đầy huyền bí; vừa
khắc nghiệt vừa thuận lợi; cơ cấu dân cư, dân tộc đa dạng, quá trình giao lưu
văn hóa diễn ra mạnh mẽ nhưng không có một tư tưởng chủ đạo hay bị chi
phối bởi một tôn giáo cụ thể. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhà
Nguyễn từng bước nhượng bộ, đầu hàng nhưng nhân dân vẫn tiếp tục tổ chức
các phong trào yêu nước. Ngô Lợi chứng kiến và hiểu rõ sự thất bại liên tiếp
của các cuộc khởi nghĩa, sự đàn áp dã man của kẻ xâm lược đã tạo ra tình
trạng khủng hoảng tâm lý nặng nề. Trong cái nhìn tâm linh của người nông
dân Nam bộ, đó là “dấu hiệu” của thời “mạt pháp”, “hạ ngươn”, báo hiệu
ngày tận thế. Mọi người đều trông chờ vào sức mạnh “siêu linh” để cứu vớt
cuộc đời trần thế trong khi các tôn giáo lớn chưa có điều kiện gây ảnh
hưởng lớn ở Nam bộ. Đúc rút kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa trước
đó, Ngô Lợi đã chuẩn bị và tổ chức phong trào yêu nước dưới hình thức tôn
giáo. Bối cảnh lịch sử hết sức đặc biệt là điều kiện vô cùng thuận lợi tạo
các yếu tố xã hội cho tôn giáo bản địa nói chung và đạo Tứ ân Hiếu nghĩa

17

Đức Bổn Sư (1967), Linh sơn hội thượng kinh, Hiếu nghĩa kinh (Quyển Thượng, Trung và Hạ), Nhà in
Phật Đường Tự, Chợ Lớn, Bản dịch Việt ngữ.

20


(cá nhân Ngô Lợi xuất hiện với nhiều “hào quang” mang tính huyền bí) nói
riêng ra đời và phát triển.
Có thể khẳng định, Ông Ngô Lợi sinh ngày 05 tháng 5 năm Tân Mão
(1831) tại Mỏ Cày, Bến Tre; mất ngày 13 tháng 5 năm Canh Dần (1890) và
chính thức khai sinh đạo Tứ ân Hiếu nghĩa ngày 05 tháng 5 năm Đinh Mão
(1867). Ông không lập gia đình vì đã có một đại gia đình là những tín đồ đạo

Tứ ân Hiếu nghĩa, tín đồ yêu thương và kính trọng nên đã bảo vệ cho ông
thoát được nhiều lần truy bắt của thực dân Pháp. Xuất thân từ nông dân, sớm
có tinh thần yêu nước nên Ngô Lợi luôn nung nấu ý chí kháng chiến, giải
phóng dân tộc đến cuối cuộc dời. Do hoàn cảnh, Ngô Lợi không được học
nhiều nhưng ông đã cố gắng tự học và viết sách - kinh, ban đầu khuyên người
đời tu niệm nhưng trước cảnh nước mất nhà tan ông đã dần xây dựng chủ
thuyết “đền trả Tứ ân” nhằm mục tiêu cổ vũ lòng yêu nước thương nòi của
nhân dân, qua đó tập hợp lực lượng kháng chiến dưới hình thức một tổ chức
tôn giáo.

Chương 2:
NGÔ LỢI VỚI NHỮNG HOẠT ĐỘNG
YÊU NƯỚC VÀ TÔN GIÁO
2.1. Hoạt động yêu nước
2.1.1. Khẩn hoang, lập làng
Sự ra đời các làng xã mới ở vùng Thất Sơn gắn liền với giai đoạn đầu
phát triển của đạo Tứ ân Hiếu nghĩa từ năm 1876 đến cuối chế kỳ XIX.
Cuối năm 1875, do tham gia lãnh đạo nghĩa quân chống Pháp ở Cai
Lậy nên ông bị đế quốc Pháp truy lùng ráo riết. Từ đây, ông Ngô Lợi cùng
một số đệ tử vượt đồng bằng về vùng Thất Sơn khai hoang, mở đất, lập ấp,
lập làng, dựng cơ sở thờ tự với tổng số 37 cơ sở thờ tự. Năm 1876 (tháng
21


Giêng năm Bính Tý), ông cho một tín đồ tên Trần Tịnh đi khảo sát vùng Núi
Tượng (nay thuộc thị trấn Ba Chúc, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), rồi đưa
một số đệ tử vào theo để khẩn hoang, lập làng và dựng chùa miếu. Từ năm
1876 đến năm 1889, ông và tín đồ đã lần lượt xây dựng các thôn: An Định
(1876), An Hòa (1882), An Thành (1883), An Lập (1887) và ba thôn láng
giềng gồm: Vĩnh Gia, Vĩnh Lạc, Vĩnh Quới.

- Thôn An Định, thành lập năm 1876, nay thuộc thị trấn Ba Chúc. Đình
An Định - chùa Phi Lai và Mộc Hương (1877), chùa Tam Bửu (1882), Thanh
Lương Tự (1879), miếu Mã Châu Thờ Bà Cố Hỹ (1880), miếu Sơn Thần
(1880), chùa Long Châu (1884), chùa Linh Bửu (hay còn gọi là chùa núi
Nước (1884), miếu Tú Dương (1884), miếu Vạn Ban (1885), miếu Bồng Lai
(1882), Hội Đông Tự (1890), và miếu Phương Gia (1889).
- Thôn An Hòa, thành lập năm 1882, nay thuộc thị trấn Ba Chúc. Chùa
Phổ Đà (tháng 2 năm 1882), miếu Bà Hỏa (tháng 2 năm Mậu Tý, 1888), Mộc
Hương (1889), chùa Tam Bửu (1889), miếu Kim Tra, Mộc Tra (1889), đình
An Hòạ (1882), Bửu Linh Tự (1884), Linh Miếu Tự (hay còn gọi là miếu Bà
Cố - 1888).
- Thôn An Thành, thành lập năm 1883, nay thuộc xã Lương Phi huyện
Tri Tôn. Đình An Thành (trước Châu Linh Tự, 1383), Châu Linh Tự (1882),
Mộc Hương (phía sau Châu Linh Tự, 1883), Tam Bửu Điện (1916), miếu Sơn
Thần (1883), miếu Cửu Thiên (1883), miếu Cửu Phẩm(1888) và chùa Liên
Kỳ (1897).
- Thôn An Lập, thành lập năm 1887, nay thuộc thị trấn Ba Chúc và một
phần của xã Lê Trì. Vạn Linh Tự (1890), Tam Bửu Tự (1890), đình An Lập
(1889), Mộc Hương (1891), (4 ngôi chùa, đình, Mộc Hương này hiện cùng
nằm trong một khuôn viên thuộc Khóm An Hòa B, thị trấn Ba Chúc rộng
8.925 m2), Long An Tự (Ba Chúc - 1916), Tam Bửu Điện (Ba Chúc - 1916),
miếu Long An (ấp An Thạch, xã Lê Trì, huyện Tri Tôn- 1912).

22


×