ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ VĨNH LINH
HOạT ĐộNG THƯƠNG MạI VÀ TRUYềN GIÁO
CủA Bồ ĐÀO NHA TạI ẤN Độ, TRUNG QUốC
(THế Kỷ XVI - THế Kỷ XIX)
Chuyên ngành: LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Mã số: 62.22.50.05
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
HUẾ - NĂM 2015
CÔNG TRÌNH NÀY ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC, ĐẠI HỌC HUẾ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. LÊ VĂN ANH
2. PGS.TS. ĐẶNG VĂN CHƯƠNG
Phản biện 1:
Phản biện 2:
Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Nhà nước họp tại
Đại học Huế, Thành phố Huế
Vào hồi giờ ngày tháng năm 2015
Có thể tìm hiểu luận án tại:
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát kiến địa lý là một những thành tựu vĩ đại trong lịch sử nhân
loại, “một cuộc cách mạng thật sự” trong lĩnh vực giao thông và tri
thức. Với tư cách là quốc gia tiên phong của kỷ nguyên khám phá
(Discovery Age), Bồ Đào Nha đã góp phần khai mở những trang sử
đầu tiên của chủ nghĩa thực dân phương Tây khi thiết lập hệ thống
thương điếm trải dài từ duyên hải Tây Phi đến tận vùng Viễn Đông
xa xôi
1
và kiến tạo đế quốc mậu dịch hàng hải đầu tiên trong thời cận đại -
Estado da India. Như vậy, đây không chỉ là bước ngoặt trong lịch sử Bồ
Đào Nha mà còn là thời kỳ chuyển mình mạnh mẽ dẫn đến những thay đổi
bản chất trong quan hệ giữa phương Đông và phương Tây.
Trong mạng lưới nhượng địa của Bồ Đào Nha trên toàn châu Á, các
thương điếm ven biển Ấn Độ và Trung Quốc đóng vai trò nổi bật, không
thể thay thế. Vốn xem thương mại là trọng tâm và hoạt động với mục đích
thiết lập nền thương mại “nhân đôi” nên Bồ Đào Nha đã duy trì một lúc hai
tuyến giao thương: ngoại tuyến và nội tuyến, với các mối quan hệ chồng
chéo vô cùng phức tạp. Thế nhưng, Cochin, Goa, Malacca và Macao lại
được kết nối vô cùng linh hoạt, vận động nhịp nhàng trong một mạng lưới
thương mại mang tính quốc tế đầu tiên của thời kỳ cận đại. Vì thế, thông
qua việc phục dựng tương đối chân xác diện mạo của giai đoạn lịch sử để
lại nhiều dấu ấn, luận án còn đi sâu phân tích để rút ra đặc điểm của đế
quốc Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc (trong sự đối sánh với một số
đế quốc tư bản chủ nghĩa thời bấy giờ như Hà lan, Anh).
Bên cạnh đó, mặc dù có cùng cơ chế quản lý và nhiều nét tương đồng
trong quá trình phát triển nhưng hệ thống thương điếm của Bồ Đào Nha tại
Ấn Độ và Trung Quốc vẫn tồn tại ít nhiều dị biệt. Khác với thương mại
tại Ấn Độ, ở Trung Quốc, Bồ Đào Nha không dùng vũ lực để xâm
chiếm đất đai, xây dựng pháo đài, kiểm soát thương mại mà một
phương thức mềm mỏng hơn đã được lựa chọn để xâm nhập vùng đất
này: chấp nhận vị trí trung gian, kết nối tuyến giao thương giữa
Trung Quốc và Nhật Bản. Đặc trưng của thương nhân Bồ Đào Nha
tại Macao là triển khai một phương thức thương mại biển tương đối
ôn hòa, không chịu nhiều sự chi phối của Estado da India. Sự tương
1
Các hải cảng của Nhật Bản được xem là điểm cuối trong chuỗi hệ thống
thương điếm của đế quốc mậu dịch Bồ Đào Nha
đồng và dị biệt của hai mạng lưới thương điếm có cùng chủ sở hữu
này không những có ý nghĩa khoa học đầy lý thú mà còn để lại nhiều
bài học quý giá cho lịch sử.
Sự song hành giữa thương mại và truyền giáo trong quá trình
hoạt động của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc được các học giả
ví von như “đôi cánh của một con chim”. Nếu trong thương mại, lách
qua “khe cửa hẹp” của thể chế độc quyền, các tư thương đã đóng vai
trò quan trọng trong hầu hết các khâu của quá trình thu mua - vận
chuyển - bán hàng hóa thì trong lĩnh vực truyền giáo, tất cả hoạt động
của các giáo đoàn đều chịu sự chi phối của vua Bồ Đào Nha (theo
những sắc chỉ được ký kết và ban hành bởi Giáo hoàng tại Rome). Vì
vậy, tìm hiểu về hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và
Trung Quốc còn cho chúng ta thấy sự thích ứng của tôn giáo đối với
các nền văn hóa, các thể chế chính trị khác nhau như thế nào.
Tuy nhiên, hiện nay nghiên cứu về đế quốc mậu dịch Bồ Đào
Nha cũng như hoạt động thương mại và truyền giáo của nó ở Ấn Độ,
Trung Quốc vẫn còn là mảng trống. Trong các chương trình đào tạo
cử nhân Lịch sử, thạc sĩ Lịch sử thế giới, nhận thức của sinh viên về
quá trình xác lập quyền lực thương mại biển của Bồ Đào Nha còn
khá chung chung. Những hiểu biết về vai trò của các linh mục Bồ
Đào Nha tại Trung Quốc và Ấn Độ cũng hết sức mờ nhạt.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Hoạt
động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung
Quốc (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)” làm đề tài cho luận án Tiến sĩ,
chuyên ngành Lịch sử thế giới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Thực trạng nghiên cứu vấn đề trong nước
Việc Bồ Đào Nha khai mở thành công con đường biển đến châu
Á và thiết lập được hệ thống cứ điểm thương mại và truyền giáo tại
Ấn Độ, Trung Quốc là một trong những bước ngoặt quan trọng của
lịch sử nhân loại. Thế nhưng cho đến nay vấn đề này vẫn chỉ được
trình bày một cách sơ lược trong một số giáo trình cũng như trong
những tác phẩm viết về lịch sử thế giới.
Lịch sử các cuộc phát kiến địa lý đã được đề cập đến trong nhiều
cuốn giáo trình Lịch sử thế giới như: Nguyễn Gia Phu, Nguyễn Văn
Ánh, Đỗ Đình Hãng, Trần Văn Là (2003), Lịch sử thế giới trung đại,
NXB Giáo dục, Hà Nội; Lương Ninh, Đặng Đức An (1976), Lịch sử
thế giới trung đại (quyển 2, tập 1, châu Âu thời hậu kỳ trung đại),
NXB Giáo dục, Hà Nội;…
Quá trình xác lập quyền lực của Bồ Đào Nha cũng được đề
cập khái quát trong các cuốn sách chuyên khảo về lịch sử Ấn Độ,
lịch sử Trung Quốc như: Nguyễn Thừa Hỷ, “Ấn Độ qua các triều
đại”, NXB Giáo dục; Vũ Dương Ninh (chủ biên, 1995), Lịch sử
Ấn Độ, NXB Giáo dục, Hà Nội; Nguyễn Hiến lê, “Sử Trung Quốc”
(2 tập, 1982)
Lịch sử truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và
Trung Quốc cũng gần như là một mảng trống. Chúng tôi chỉ có thể tìm
hiểu các sự kiện liên quan thông qua những cuốn sách sau: “Lịch sử
truyền giáo ở Việt Nam” (quyển 1 - Các thừa sai Dòng Tên (1615-
1665)), 1959; “Bồ-Đào-Nha, Tây-Ban-Nha, Hoà-Lan giao tiếp với Đại
Việt thế kỷ XVII, XVIII”, tủ sách nghiên cứu Sử Địa của Nguyễn Khắc
Ngữ; “Lịch sử giáo hội công giáo” I, II của Linh mục Bùi Đức Sinh
O.P,…
Trên một số tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu Châu Âu, Nghiên cứu Đông Nam
Á, Nghiên cứu Tôn giáo, tạp chí Lịch sử quân sự …cũng chỉ có
những bài viết đề cập đến hoạt động truyền giáo chung của các giáo
sĩ tại châu Á. Như vậy, vấn đề hoạt động thương mại, truyền giáo của
Bồ Đào Nha ở Ấn Độ và Trung Quốc vẫn chưa có một công trình
chuyên khảo nào đề cập đến.
2.2. Thực trạng nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
Do sự thiếu vắng nguồn tư liệu bằng tiếng Việt nên công trình
nghiên cứu bằng tiếng Anh đóng vai trò chính trong luận án. Chúng
tôi chia vấn đề thành các hướng nghiên cứu sau:
2.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quá trình xâm nhập của Bồ
Đào Nha vào châu Á
Đây là vấn đề mang tính khoa học lý thú, thu hút được sự quan
tâm của nhiều nhà Sử học được thể hiện thông qua số lượng các công
trình xuất bản liên quan đến nội dung này. Tiêu biểu như: B.W.Diffie
và G.D.Winius (1977), Foundations of the Portuguese Empire, 1415-
1580, University of Minnesota, Mineapolis; A.R.Disney (2009), A
History of Portugal and the Portuguese Empire: From Beginnings to
1807, volume 2: The Portuguese empire, Cambridge University
Press, London, M. D. D. Newitt (1986), The First Portuguese
Colonial Empire, University of Exeter Press;…Mặc dù phần lớn các
công trình trên đều trình bày một cách có hệ thống về quá trình xác
lập quyền lực của Bồ Đào Nha từ các cứ điểm ven biển Tây Phi đến
Ấn Độ - Đông Nam Á - Viễn Đông nhưng cách thức chọn lựa sự kiện
và quan điểm đánh giá lại khác nhau.
Trong thời gian gần đây, nhiều cuốn sách viết về “thời đại khám
phá” đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt, tiêu biểu như: Vũ Bội
Tuyền (1997), Mười nhà thám hiểm lừng danh thế giới, NXB Thanh
Niên; Trương Quảng Trí (ch.b, 2003), Phong Đảo dịch, 10 nhà thám
hiểm lớn thế giới, NXB Văn hóa Thông tin; Văn Sính Nguyên,
Những câu chuyện về lịch sử phương Tây - phát hiện lục địa mới,
NXB Lao động Xã hội, Hà Nội.
Tóm lại, nghiên cứu quá trình bành trướng của Bồ Đào Nha từ
một nhà nước nhỏ bé ven bờ Đại Tây Dương đến một đế chế hùng
mạnh không phải là đề tài mới. Trên thế giới, các học giả đã dành sự
quan tâm đặc biệt về vấn đề này. Nhiệm vụ của chúng tôi là sử dụng
những tư liệu lịch sử quan trọng từ các tác phẩm này để phục vụ cho
việc thực hiện đề tài.
2.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về hoạt động thương mại của
Bồ Đào Nha ở Ấn Độ và Trung Quốc
Với mức độ rộng lớn về phạm vi kiến thức của vấn đề, đã có khá
nhiều công trình xuất bản đề cập đến quan hệ giao thương giữa Bồ Đào
Nha và Ấn Độ như: J.C.Boyajian (2007), Portuguese Trade in Asia
under the Habsburgs, 1580-1640, JHU Press hoặc Merchants,
Companies and Trade: Europe and Asia in the Early Modern Era của
Chaudhury Sushil & Morineau Michel (2007); F.C.Danvers (1988),
The Portuguese in India: Being a History of the Rise and Decline of
Their Eastern Empire, London: W.H.Allen & co, limited;…
Xu hướng nghiên cứu về một số thương điếm nổi bật của Bồ Đào
Nha tại Ấn Độ như Goa, Cochin…được thể hiện qua các tác phẩm sau:
Portuguese in the Tamil coast: historical explorations in commerce and
culture, 1507-1749 (1998) của Jeyaseela Stephen; Goa-Kanara
Portuguese Relations, 1498-1763 (2000) của B.S.Shastry;
C.J.Borges, Oscar Guilherme Pereira, Hannes Stubbe (2000), Goa and
Portugal: History and Development, Concept Publishing Company….
Nếu so sánh với Ấn Độ thì các nghiên cứu về hoạt động giao thương
của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (mà chúng tôi tiếp cận được) còn khá
khiêm tốn. Ngoại trừ một vài tác phẩm tập trung đi sâu vào ảnh hưởng
của Bồ Đào Nha tại Macao, còn lại vẫn là những công trình sơ khảo
mang tính chất chung chung. Dựa vào các tác phẩm viết về lịch sử
Trung Quốc, chúng tôi chọn lọc các sự kiện lịch sử liên quan đến người
Bồ Đào Nha như: The Cambridge History of China: Volume 8, The
Ming Dynasty (1368-1644) của Denis C. Twitchett, Frederick W. Mote
(1998); hay Willard J. Peterson (2002) với The Cambridge History of
China: Volume 9, Part 1, The Ch'ing Empire to 1800.
Vấn đề thương nhân Bồ Đào Nha đến buôn bán tại Trung Quốc
được đề cập trong những tác phẩm: Tianze Zhang (1933), Sino-
Portuguese Trade from 1514 to 1644: A Synthesis of Portuguese and
Chinese Sources; “The Survival of Empire: Portuguese Trade and
Society in China and the South China sea 1630 - 1754 của G.B.Souza…
2.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu về hoạt động truyền giáo của
các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc
Về việc xác lập vị thế của Giáo hội Rome tại Ấn Độ vào đầu thế
kỷ XVI cũng như quá trình hình thành các giáo xứ, giáo phận của Bồ
Đào Nha tại quốc gia này được đề cập trong các công trình: Stephen
Neill (2002), A History of Christianity in India, 1707 - 1858,
Cambridge University Press; Stephen Neill (2004), A History of
Christianity in India: The Beginnings to AD 1707, Cambridge
University Press; Historical Sketch of the Christian Tradition in
Bengal của Md.S.Farid(2011); Francis Xavier and Portuguese
Administration in India của J.Elisha (2004)….
Tuy nhiên, công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn với sự bảo trợ
từ vương quyền Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vẫn có khá nhiều thuận lợi so
với việc xâm nhập vào xã hội Trung Quốc. Nghiên cứu về khía cạnh này
các học giả đi theo hai hướng: thứ nhất, hoạt động của linh mục Dòng
Tên tại Trung Quốc lục địa. Thứ hai, lịch sử truyền giáo ở Macao.
Những tác phẩm theo xu hướng thứ nhất gồm: N.Standaert(2008),
Jesuits in China, Cambridge University Press,169-185; I.Pina (2001),
The Jesuits missions in Japan and in China: two distinct realities.
Cultural adaptation and the assimilation of natives, Bullettin of
Portuguese/Japanese Studies, ano/vol2, 59 - 76; Anders Ljungstedt, An
historical sketch of the Portuguese settlements in China; and of the
Roman Catholic Church and mission in China, 1836, Boston…
Mặc dù, Macao là vùng đất chịu ảnh hưởng đậm nét nhất của
Thiên Chúa giáo Bồ Đào Nha, nhưng những công trình nghiên cứu
riêng lẻ về khía cạnh này chúng tôi vẫn chưa có điều kiện tiếp cận.
Điều này một phần xuất phát từ đặc điểm khu định cư Macao của Bồ
Đào Nha. Từ khi được chính thức nâng lên địa vị Giáo phận (1576),
Macao đã được xây dựng với tư cách trung tâm đóng vai trò quản lý
hoạt động truyền giáo vùng Viễn Đông, trung tâm đào tạo linh mục
với sự ra đời của trường học Thiên Chúa giáo đầu tiên tại Đông Á. Vì
vậy, hầu hết các cuốn sách nghiên cứu về Thiên Chúa giáo tại Macao
cũng đi theo xu hướng trên.
Tóm lại, có thể nói, trên bình diện quốc tế, hiện nay đề tài luận án
của chúng tôi vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào trùng lặp
về nội dung. Những khía cạnh nhỏ của từng nội dung thì đã có nhiều
công trình xuất bản. Đó là thuận lợi nhưng cũng là bất lợi khi nguồn
tư liệu bằng tiếng Anh là cơ sở duy nhất để chúng tôi hoàn thiện đề
tài. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình đi trước,
chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu đề tài: “Hoạt động thương mại và
truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc (thế kỷ XVI -
thế kỷ XIX)”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Tái hiện một cách chân thực về hoạt động thương mại và truyền
giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc và Ấn Độ từ thế kỷ XVI đến
thế kỷ XIX; phân tích cơ sở xác lập, đặc điểm, so sánh sự tương đồng
và khác biệt trong hoạt động trên lĩnh vực thương mại và tôn giáo của
Bồ Đào Nha ở Ấn Độ, Trung Quốc cũng như đánh giá tác động của
các hoạt động này đối với các chủ thể: Bồ Đào Nha, Ấn Độ, Trung
Quốc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về quá trình xâm nhập của Bồ Đào Nha vào Ấn Độ,
Trung Quốc và sự xác lập hệ thống thương điếm của Bồ Đào Nha tại
hai quốc gia này.
- Các phương thức hoạt động thương mại biển của Bồ tại những
cứ điểm ven biển Ấn Độ và Trung Quốc: việc áp dụng thể chế độc
quyền tại các cứ điểm duyên hải Ấn Độ Dương cũng như vai trò
trung gian của thương nhân Bồ Đào Nha tại Macao trên tuyến giao
thương Macao - Trung Quốc - Nhật Bản.
- Những cách thức truyền giáo của những giáo đoàn Bồ Đào Nha
tại Ấn Độ và Trung Quốc (bao gồm cả Macao). Trong đó nhấn mạnh
vai trò và tầm ảnh hưởng của Dòng Tên trong đời sống tinh thần cư
dân bản địa.
- Phân tích cơ sở, đặc điểm và hệ quả hoạt động thương mại và
truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc (thế kỷ XVI -
thế kỷ XIX).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu hoạt động thương mại và truyền
giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XIX.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian, luận án nghiên cứu ba chủ thể là: Bồ Đào Nha,
Ấn Độ và Trung Quốc.
- Về thời gian, luận án giới hạn nghiên cứu về hoạt động thương mại
và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc từ thế kỷ XVI
đến thế kỷ XIX. Sở dĩ lấy thế kỷ XVI làm thời gian khởi điểm cho việc
nghiên cứu, bởi vì sau khi Vasco da Gama tiến hành chuyến phát kiến
địa lý đến Ấn Độ (1497 - 1499) đã mở đầu cho quá trình xâm chiếm và
thiết lập thuộc địa của Bồ Đào Nha ở châu Á. Thế kỷ XIX được xem là
thời gian kết thúc công trình nghiên cứu bởi đây là thời kỳ mà vai trò
thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc gần như không
còn, ngoại trừ việc buôn bán ít ỏi với Goa và Macao.
- Về nội dung, luận án tập trung nghiên cứu hoạt động thương
mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận án, tác giả đã tham khảo các nguồn tài liệu sau:
- Các công trình nghiên cứu xuất bản ở nước ngoài bằng tiếng
Anh về hoạt động của người Bồ Đào Nha tại châu Á, Ấn Độ và
Trung Quốc từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX.
- Các công trình nghiên cứu về lịch sử Trung Quốc, lịch sử Ấn
Độ. Các công trình nghiên cứu về hoạt động của các giáo đoàn Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha trong việc mở rộng ảnh hưởng của Giáo
hội Rome ra ngoài phạm vi châu Âu, về lịch sử Giáo hội Thiên Chúa
giáo tại Trung Quốc, Ấn Độ.
- Các công trình chuyên khảo, các bài nghiên cứu đăng trên các tạp
chí: Nghiên cứu lịch sử,Nnghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu Tôn
giáo, Lịch sử quân sự…
- Các website trên mạng Internet.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ quan điểm coi hoạt động thương mại và truyền giáo
của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc là một bộ phận không thể tách
rời của đế quốc Bồ Đào Nha ở châu Á nên phương pháp hệ thống - cấu
trúc đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đề tài.
Vì đề tài thuộc về khoa học lịch sử nên việc sử dụng phương pháp
lịch sử và phương pháp logic được xem là phương pháp chủ đạo trong
nghiên cứu đề tài. Mặt khác, trong chừng mực nhất định, tác giả luận án
còn sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như phân tích, tổng
hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, dự báo… trong từng nội dung cụ thể
của đề tài.
6. Đóng góp của đề tài
6.1. Về phương diện khoa học
Phân tích nguyên nhân thúc đẩy Bồ Đào Nha khai phá thành
công con đường hàng hải mới đến Ấn Độ, Trung Quốc và sự thiết lập
của Estado da India - mô hình nhà nước thuộc địa đầu tiên của các
quốc gia phương Tây tại châu Á.
Tìm hiểu sự xác lập các thể chế thương mại biển của Bồ Đào Nha
tại Ấn Độ và Trung Quốc, tiêu biểu như: Carreira da India…Quá
trình xác lập vị trí độc quyền trong thương mại biển của Hoàng gia
Bồ Đào Nha thông qua chính sách cưỡng bức, áp dụng Cartaz và nỗ
lực trong việc thành lập công ty Đông Ấn Bồ vào thế kỷ XVII. Từ
đó, đề tài rút ra cơ sở, đặc điểm, những nét dị biệt và ảnh hưởng của
Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc nói riêng cũng như trên toàn
châu Á nói chung.
Đưa ra những đánh giá có tính hệ thống và toàn diện về hoạt
động thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung
Quốc từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX; trên cơ sở đó phân tích những
đặc điểm, hệ quả và đặc biệt là sự đối sánh hoạt động của hai lĩnh
vực này mà đế quốc Bồ Đào Nha thực thi ở Ấn Độ và Trung Quốc.
6.2. Về phương diện thực tiễn
Luận án đã phân tích được vai trò của Bồ Đào Nha trong việc
hình thành hệ thống thương mại biển đầu tiên trên toàn thế giới – đó
là một trong những nguồn gốc của xu thế toàn cầu hóa hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án sẽ được hoàn thiện thành
chuyên đề để giảng dạy cho sinh viên chuyên ngành Lịch sử thế giới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng là tư liệu tham khảo cần thiết
cho những ai quan tâm đến hoạt động của Bồ Đào Nha tại châu Á
trong đó chủ yếu là ở Ấn Độ và Trung Quốc. Và là cơ sở để mở ra
hướng nghiên cứu mới về đế quốc Bồ Đào Nha tại châu Á
Thông qua quan hệ giữa Bồ Đào Nha - Ấn Độ, Bồ Đào Nha -
Trung Quốc trên hai lĩnh vực thương mại và truyền giáo, nhiều bài
học kinh nghiệm quý báu đã được rút ra. Ví dụ như: Trong quá trình
tiếp xúc giữa các quốc gia có những khác biệt về văn hóa, lịch sử,
thương mại đã trở thành chiếc cầu kết nối và mở ra thời kỳ giao lưu
rộng khắp trên toàn thế giới. Tuy nhiên, hoạt động thương mại lại
được diễn ra tùy thuộc đặc điểm văn hóa, lịch sử và tính cách của
từng dân tộc mà không thể có một mô hình chung áp dụng cho toàn
bộ các quốc gia, dân tộc.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
luận án được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1. Hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và
Trung Quốc (thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XIX)
Chương 2. Hoạt động truyền giáo của các giáo đoàn Bồ Đào Nha
ở Ấn Độ và Trung Quốc (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)
Chương 3. Một số nhận xét về hoạt động thương mại và truyền giáo
của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI CỦA BỒ ĐÀO
NHA TẠI ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC
(THẾ KỶ XVI - ĐẦU THẾ KỶ XIX)
1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - thế kỷ XIX)
1.1.1. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (thế kỷ XVI - giữa
thế kỷ XVII)
1.1.1.1. Những thương điếm đầu tiên của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ
(1502 - 1510)
Đến đầu thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha đã xác lập được 2 thương điếm
quan trọng nhất (Diu và Goa) trong số 4 mục tiêu chiến lược tại Ấn Độ
và vịnh Ba Tư. Đây là cơ sở quan trọng dẫn đến sự ra đời của Estado da
India, nhà nước thuộc địa đầu tiên của Bồ Đào Nha tại phương Đông.
1.1.1.2. Sự hình thành Casa da India và Estado da India
- Casa da India: Trụ sở quản lý các chuyến tàu giao thương giữa Bồ
Đào Nha và Ấn Độ đặt tại Lisbon. Tiền thân của thể chế này là Casa da
Cueta được thành lập từ năm 1434 với nhiệm vụ quản lý các vấn đề của
đại lý Hoàng gia tại Elmina và vương quốc Kongo được hình thành. Đến
năm 1506, Casa bị phân chia thành hai đơn vị, trong đó Casa da India
tiếp nhận chính thức quản lý thương mại giữa Lisbon với các hải cảng
châu Á nằm trong độc quyền thương mại của đế chế Bồ.
- Estado da India (Liên bang Ấn Độ) được dùng để chỉ về tất cả
các thành phố, pháo đài và các vùng lãnh thổ mà người Bồ Đào Nha
kiểm soát được ở châu Á và Đông Phi. Tuy nhiên, đôi khi thuật ngữ
Estado còn được sử dụng với ý nghĩa rộng hơn nhiều, bao gồm tất cả
các vùng ven biển và các đảo thuộc phía Đông mũi Hảo Vọng được
giới hạn từ cực đông nam châu Phi đến vùng đất thấp ở cửa sông
Dương Tử. Trong thực tế, cũng có một số khu vực không nằm trong
phạm vi quản lý của cơ quan này (ví dụ như Macao - Trung Quốc).
1.1.1.3. Thương mại Hoàng gia Bồ Đào Nha từ đầu thế kỷ XVI đến
giữa thế kỷ XVII
Hoạt động của Hoàng gia Bồ Đào Nha tại Ấn Độ trong giai đoạn
này chủ yếu thông qua việc thực thi thể chế độc quyền trong thương
mại hạt tiêu và ngựa. Đến cuối thế kỷ XVI, tơ lụa, quế, chàm Ấn Độ
trở thành mặt hàng chủ lực của Estado. Bên cạnh đó, từ cuối thế kỷ
XVI đến nửa đầu thế kỷ XVII, để khẳng định quyền lực độc tôn trong
thương mại biển, Hoàng gia Bồ không ngừng kiểm soát hoạt động
giao thương của thương nhân Ấn Độ và xây dựng Goa trở thành thủ
phủ của Estado da India.
1.1.1.4. Thương mại tư nhân Bồ Đào Nha từ đầu thế kỷ XVI đến giữa
thế kỷ XVII
Dưới quan điểm của Hoàng gia Bồ Đào Nha, có hai loại tư
thương chính: được cấp phép và không được cấp phép. Phần lớn
thương nhân được cấp phép buôn bán tại Ấn Độ là tầng lớp viên chức
của chính quyền. Lồng vào bên trong mạng lưới thương nhân được
cấp phép, hoạt động của các thương nhân không được cấp phép
(chatin) cũng khá sôi động. Thành phần chatin được chia thành hai
bộ phận cơ bản: binh lính đồn trú giải ngũ và thương nhân Thiên
Chúa giáo mới. Cho đến cuối thế kỷ XVI, thương mại tư nhân của Bồ
Đào Nha tại Ấn Độ đã mang đến lợi nhuận trung bình 5 triệu
cruzado, chiếm gần 90% tổng lượng hàng hóa.
1.1.2. Thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (giữa thế kỷ XVII - đầu
thế kỷ XIX)
1.1.2.1. Thương mại Hoàng gia vẫn chiếm địa vị thống trị trong Estado da India
Với sự cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ từ các địch thủ người châu
Âu khác, Hoàng gia Bồ Đào Nha đã có những thay đổi trong chiến
lược đối ngoại, quan trọng nhất là thiết lập liên minh với Anh. Goa
vẫn tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong hoạt động thương mại của
Bồ Đào Nha ở Ấn Độ trên hai bình diện: thứ nhất, chủ động trong
việc liên kết thương mại với các vùng đất nằm sâu trong nội địa, thứ
hai, tích cực tham gia vào việc buôn bán các mặt hàng khác như ngà
voi, nô lệ và thuốc phiện. Thông qua hiệp ước năm 1878, nền kinh tế
của phần lãnh thổ Ấn Độ thuộc Bồ Đào Nha bị phụ thuộc chặt chẽ và
chịu sự chi phối của chính quyền Anh tại Ấn Độ.
1.1.2.2. Thương mại tư nhân Bồ Đào Nha tại Ấn Độ (giữa thế kỷ
XVII - nửa sau thế kỷ XIX)
Trong khi thương mại Hoàng gia tại Goa không có nhiều sự thay
đổi và ngày càng suy yếu thì hoạt động buôn bán tư thương ngày
càng sinh động với sự tham gia của nhiều thành phần khác nhau như:
người Bồ Đào Nha - Ấn Độ, người Goa Thiên Chúa giáo, Saraswat
Brahmin và Banias, người Bồ Đào Nha chính quốc. Như vậy, cho
đến cuối thế kỷ XIX, cộng đồng thương mại của các tư thương Bồ
Đào Nha tại Estado da India không chỉ bó hẹp trong hoạt động kinh
tế đơn lẻ hoặc buôn bán từng mặt hàng riêng biệt. Họ đã mở rộng ra
khỏi biên giới của đế quốc Bồ Đào Nha trước kia để gia nhập vào
mạng lưới thương mại toàn cầu.
1.2. Thương mại Bồ Đào Nha tại Trung Quốc (nửa sau thế kỷ
XVI - đầu thế kỷ XIX)
1.2.1. Hoạt động bước đầu của thương nhân Bồ Đào Nha tại
Trung Quốc (đầu thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVII)
1.2.1.1. Quá trình xâm nhập của Bồ Đào Nha vào Trung Quốc
Những cuộc tiếp xúc từ năm 1513 đến 1520 không thu được kết
quả như mong đợi. Đến giữa những năm 1550, viên chức nhà Minh
cho phép những người Bồ Đào Nha sử dụng những địa điểm trên bờ
biển Quảng Đông, đầu tiên tại Shangchuan, sau đó là Lampacao và
cuối cùng là Macao (1557) để buôn bán.
1.2.1.2. Bộ máy quản lý của Bồ Đào Nha tại Macao
Cơ sở ra đời thể chế quản lý của Bồ Đào Nha tại Macao là việc tổ
chức các chuyến tàu kết nối thương mại biển giữa Trung Quốc và
Nhật Bản mà trong đó thương nhân Bồ Đào Nha đóng vai trò trung
gian. Điều chúng ta cần chú ý rằng, mô hình thương mại của Bồ Đào
Nha tại Trung Quốc khác biệt rất lớn đối với Ấn Độ được xác lập dựa
trên ba trụ cột: quản lý, tài chính và luật pháp.
1.2.2. Hoạt động thương mại của thương nhân Bồ Đào Nha
Macao với Trung Quốc lục địa
1.2.2.1. Thương nhân Macao trong sự cạnh tranh của Tây Ban Nha,
Hà Lan tại Trung Quốc (nửa sau thế kỷ XVI - nửa đầu thế kỷ XVII)
Do sự xác lập quyền lực của vương triều Hasburg ở Bồ Đào Nha
(1580 – 1640) nên từ giữa thế kỷ XVI, Bồ Đào Nha phải rất vất vả
ngăn chặn sự xâm nhập của người Tây Ban Nha vào thương mại
Trung Quốc. Mối quan hệ giữa Macao (Bồ Đào Nha) và Manila (Tây
Ban Nha) chỉ thực sự được cải thiện vào đầu thế kỷ XVII khi xuất
hiện một địch thủ hùng mạnh khác là Hà Lan. Không chỉ dần dần
nắm lấy vai trò trung gian của Bồ Đào Nha trong thương mại Trung
Quốc - Nhật Bản mà công ty VOC còn tấn công trực tiếp vào thương
điếm quan trọng nhất của Bồ - Macao.
1.2.2.2. Thương mại giữa Macao với Trung Quốc từ thế kỷ XVII đến
cuối thế kỷ XVIII.
Vào nửa đầu thế kỷ XVII, cuộc chiến Minh - Thanh ở giai đoạn
khốc liệt đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động thương mại của
Bồ Đào Nha. Dựa vào nguồn tư bản đầu tư có từ trước, Bồ Đào Nha
tiến hành ký kết các hợp đồng với quan lại Trung Quốc và thương
nhân Quảng Châu nhằm đảm bảo việc phân phối hàng xuất khẩu.
Đến nửa cuối thế kỷ XVIII, với việc thắt chặt quản lý ngoại thương
cũng như việc Hà Lan, Anh, Pháp đẩy mạnh quá trình xâm nhập
Trung Quốc, người Bồ Đào Nha bị đẩy lùi khỏi thị trường Trung
Quốc lục địa và chỉ còn duy trì hoạt động ở Macao.
1.2.3. Quá trình mở rộng thương mại của Bồ Đào Nha ở Macao
với các khu vực khác (thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XIX)
1.2.3.1. Quan hệ thương mại giữa Macao với Nhật Bản và Đông
Nam Á
Trong tuyến giao thương Macao - Nhật Bản: chính thức đóng
cửa vào năm 1639 khi Mạc phủ Tokugawa ra chiếu chỉ cấm tất cả
người Bồ Đào Nha, dù bị thương hay đã chết, có bất kỳ mối liên hệ
nào với Nhật Bản. Từ cuối thế kỷ XVII, thương nhân Macao bắt đầu
tham gia tích cực vào thương mại ở khu vực Đông Nam Á
1.2.3.2. Quan hệ thương mại giữa Macao và Estado da India
Quan hệ thương mại giữa Macao và Estado khá phức tạp được
thể hiện trong thương mại với Goa; sự can thiệp ngày càng sâu của
Estado da India vào hoạt động thương mại biển của Macao và gánh
nặng tài chính ngày càng trở thành nhân tố quan trọng chi phối quan
hệ giữa hai chủ thể này.
1.2.4. Sự suy tàn của thương mại Bồ Đào Nha tại Macao (cuối thế
kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX)
Do ảnh hưởng của tình hình chính trị, đến cuối thế kỷ XVIII,
hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại Macao gần như bị đình
trệ. Macao đã không còn là chiếc chìa khóa vàng đem lại sự thịnh
vượng cho đế quốc Bồ Đào Nha ở phương Đông.
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG TRUYỀN GIÁO CỦA CÁC GIÁO ĐOÀN
BỒ ĐÀO NHA Ở ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC
(THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XIX)
2.1. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ
2.1.1. Bước đầu xác lập ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo tại Ấn Độ
(thế kỷ XVI)
2.1.1.1. Hoạt động truyền giáo từ Cochin đến Goa
Sau khi được sự chấp thuận của raja (Hồi vương) Cochin, vào
năm 1503, nhà thờ đầu tiên của linh mục Bồ Đào Nha được xây dựng
tại Cochin. Và sau khi chiếm đóng Goa (1510), Albuquerque tiến
hành xây dựng nhà thờ Saint Catherine nhằm tạo điều kiện cho sự
phát triển ổn định của công cuộc truyền giáo ở Ấn Độ.
2.1.1.2. Hoạt động truyền giáo của giáo đoàn Franciscains tại
Cannanore và Mylapore
Cannanore: Cho đến đầu thế kỷ XVI, các linh mục Bồ Đào Nha
đã cải đạo cho 334 tín đồ trong toàn cộng đồng.
Mylapore: địa bàn sinh sống truyền thống của các tín đồ Thiên
Chúa giáo Thomas. Sau đó, phần lớn cựu binh Bồ Đào Nha cũng đến
định cư tại đây.
2.1.1.3. Hoạt động của Dòng Tên tại duyên hải Ấn Độ và sự ra đời
Tòa án dị giáo ở Goa
Cùng với sự xuất hiện của Francis Xavier (1506 - 1552) thì công
cuộc truyền giáo tại miền duyên hải có nhiều khởi sắc. Bằng sự tận
tâm và lối sống giản dị, ông tiến hành rửa tội cho trẻ em, phụ nữ và
nhiều tầng lớp cư dân khác nhau. Sau một thời gian lưu trú tại miền
duyên hải, ông đã nhận được sự tin tưởng và ủng hộ của cư dân
Paravas.
Tại Coromandel, nếu vào năm 1552, chỉ có linh mục Henry
Henriques phụ trách vùng duyên hải rộng lớn này, thì 5 năm sau, đã
có thêm 10 linh mục và một số người học việc đến cư trú.
Vào năm 1560, Tòa án dị giáo
thành lập ở Goa. Theo thống kê
cho thấy: trong vòng 63 năm (từ năm 1561 đến năm 1623), có 3.800
vụ được xét xử bởi Văn phòng tôn giáo tại Goa.
2.1.1.4. Hoạt động của Dòng Tên tại triều đình Mogul (1579 - 1605)
Mặc dù phải trải qua ba giai đoạn truyền giáo vô cùng khó khăn
tại triều đình Mogul, đóng góp lớn nhất của các linh mục vẫn là trên
bình diện ngôn ngữ và giáo dục. Phần lớn các cuộc cải đạo được tiến
hành trong những đẳng cấp nghèo khổ và bần cùng của xã hội - tầng
lớp không có bất kỳ quyền tự do nào trong xã hội Hindu giáo.
2.1.1.5. Các giáo đoàn Bồ Đào Nha trong cộng đồng Thiên Chúa
giáo Thomas tại Mangalore
Bối cảnh đầy phức tạp ngay từ lúc bắt đầu đã khiến quan hệ giữa
linh mục Bồ Đào Nha với cộng đồng Thiên Chúa giáo Thomas đầy
những mâu thuẫn thăng trầm. Thứ nhất, đó là mâu thuẫn trong việc
thực hiện các nghi lễ Thiên Chúa giáo. Thứ hai là mâu thuẫn về
quyền quản lý giữa giáo phận Goa và đại diện của Giáo hội chính
thống Syria tại Ấn Độ
2.1.1.6. Các giáo đoàn dưới sự bảo trợ của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ
(nửa sau thế kỷ XVI)
Cuối thế kỷ XVI cho thấy sự gia tăng đáng kinh ngạc các dòng
truyền giáo hoạt động tại Ấn Độ như: Carmelites, Oratorians,
Theatines và Capuchins. Trong khi đó, những giáo đoàn như
Franciscains, Dominicains và Augustinians vẫn tiếp tục khẳng định
vai trò quan trọng của mình
2.1.2. Hoạt động của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế
kỷ XVII.
2.1.2.1. Hoạt động của Dòng Tên ở Mutharai và duyên hải Fishery coast
Sau khi đặt cơ sở truyền giáo trong cộng đồng Paravas thuộc
duyên hải Fishery Coast, Dòng Tên mở rộng hoạt động truyền giáo
vào sâu bên trong nội địa tại Mathurai. Nếu Francis Xavier được xem
là linh mục tiên phong tạo nên cộng đồng Thiên Chúa giáo Paravas
thì Robert Nobili đã đặt dấu ấn của mình tại Mathurai. Trong khi đó,
tại cộng đồng Thiên Chúa giáo Paravas hoạt động của các linh mục
Thiên Chúa giáo khá ổn định. Đến năm 1644, linh mục Lopez, trong
báo cáo gửi đến tỉnh Dòng Tên ở Malabar cho biết trên toàn vùng
Fishery Coast không còn thấy những tàn tích của các tôn giáo khác.
2.1.2.2. Hoạt động của Dòng Tên tại triều đình Mogul vào thế kỷ XVII
Ngay sau khi Akbar qua đời, Nuruddin Salim Jahangir (1569 -
1627) lên ngôi với mong muốn củng cố quyền lực tuyệt đối của
Hồi giáo trong đời sống tinh thần cư dân đế quốc. Tuy vậy,
Jahangir vẫn không có hành động nào gây ức chế đối với công
cuộc truyền đạo của các giáo sĩ Bồ Đào Nha.
2.1.2.3. Mâu thuẫn và tranh chấp trong cộng đồng Ky tô hữu Thomas
vào thế kỷ XVII
Thế kỷ XVII đánh dấu những mâu thuẫn không thể điều hòa giữa
Giáo hội phương Tây và Giáo hội chính thống Syria. Do sự phức tạp
và khác nhau trong nguồn gốc cũng như việc thực hành lễ nghi Thiên
Chúa giáo, khu vực truyền giáo của Bồ Đào Nha tại cộng đồng Ky tô
hữu Thomas luôn tồn tại trong tình trạng căng thẳng. Điều này đã
khiến thế kỷ XVII trở thành thế kỷ của Serra với những tranh chấp
không có hồi kết giữa Tổng giám mục và Phó giáo chủ.
2.1.2.4. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Tibet (Tây Tạng).
Công cuộc truyền giáo ban đầu có khá nhiều thuận lợi khi người
cai trị Tây Tạng cho phép giáo đoàn tự do truyền đạo, xây dựng một
nhà nguyện nhỏ. Tuy nhiên, đến năm 1633, chiến tranh nổ ra giữa
Ladakh và vương quốc Tsaparang khiến công cuộc truyền giáo hoàn
toàn chấm dứt.
2.1.3. Sự suy yếu của các giáo đoàn Bồ Đào Nha tại Ấn Độ vào thế
kỷ XVIII
Đến thời điểm giữa thế kỷ XVIII, có 3 khu vực Thiên Chúa giáo
chính tại Ấn Độ: Goa và những nhượng địa khác của người Bồ Đào
Nha, Malabar và Fisher Coast. Trong những khu vực thuộc cộng
đồng Hindu giáo, Dòng Tên có hai nhà thờ tại Delhi, một ở Agra…
Tại các khu vực khác như: Mogul, Mylapore, Madras… thì phụ thuộc
hoàn toàn vào giáo đoàn của người Anh hoặc Pháp. Bồ Đào Nha đã
đánh mất hoàn toàn vai trò độc tôn trong việc bảo trợ hoạt động
truyền bá Thiên Chúa giáo tại phương Đông.
2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc
2.2.1. Quá trình truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Macao
2.2.1.1. Sự xâm nhập của Dòng Tên vào Macao
Theo thương thuyền của thương nhân Bồ Đào Nha, các linh mục bắt
đầu đến Macao từ giữa thế kỷ XVI. Linh mục Belchior Nunes Barreto
(1519-1571) - một đại sứ của Bồ Đào Nha được cử đến Nhật Bản, là linh
mục Dòng Tên đầu tiên cập bến Macao vào ngày 29/11/1555
2.2.1.2. Quá trình thành lập và hoạt động của giáo phận Macao
Cùng với sự phát triển của hoạt động truyền giáo tại Nhật Bản và
Trung Quốc, vào năm 1576, Giáo hoàng Gregory XIII (1502 - 1585)
ra sắc chỉ công nhận Macao là giáo phận Thiên Chúa giáo (tương
đương cấp bậc của Goa) với giám mục đầu tiên là Carneiro.
2.2.2. Hoạt động truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Trung Quốc lục địa
2.2.2.1. Hoạt động của Dòng Tên từ 1579 đến 1594
Nếu tính từ năm 1513, khi người Bồ Đào Nha đầu tiên đến giao
thương tại các hải cảng ven biển Trung Quốc thì Dòng Tên đã phải
mất gần một thế kỷ để có thể xâm nhập xã hội Trung Quốc và truyền
bá tôn giáo của mình. Điều này vừa cho thấy sự khó khăn mà các linh
mục Bồ Đào Nha phải vượt qua vừa chứng minh nỗ lực không ngừng
nghỉ của họ để mang Thiên Chúa giáo đến các vùng đất khác nhau
trong lãnh thổ Trung Quốc
2.2.2.2. Mateo Ricci và sự thay đổi phương cách truyền giáo (cuối
thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII)
Vào những năm cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, Mateo Ricci
trở thành “linh hồn” của công cuộc truyền giáo tại Trung Quốc. Bằng
việc sử dụng các tri thức khoa học, Mateo Ricci đã thành công trong
việc tạo dựng hình tượng “văn nhân truyền giáo” – một cách thức
mới để xâm nhập vào xã hội Trung Quốc cổ truyền.
2.2.2.3. Quá trình Dòng Tên mở rộng địa bàn truyền giáo và “vấn đề
Nam Kinh”
Cho đến đầu thế kỷ XVI, số lượng Ky tô hữu người Trung Quốc
tăng dần từ 1.000 người (1606) đến 2.500 người (1610), và đến 5.000
người (1615). Trong bối cảnh đó, “vấn đề Nam Kinh”diễn ra trong
khoảng từ năm 1616 và năm 1623 đã gây ra nhiều tác động không
thuận lợi cho công cuộc truyền giáo của Dòng Tên tại Trung Quốc.
2.2.2.4. Hội truyền giáo Trung Quốc trở thành Phó tỉnh dòng
Từ năm 1619, giáo hội Trung Quốc tách biệt với Nhật Bản với tư
cách là Phó tỉnh dòng. Điều quan trọng là nguồn tài chính phục vụ
cho công cuộc truyền giáo ở Trung Quốc, Nhật Bản vẫn được phân
phối cân bằng.
Đến năm 1631, hội truyền giáo đã có 11 nơi cư trú trong 8/15 tỉnh
của toàn đế quốc: Bắc Kinh, Giang Châu (Sơn Tây), Tây An (Thiểm
Tây), Khai Phong (Hà Nam), Thượng Hải (Giang Nam), Gia Định
(Giang Nam), Nam Kinh, Hàng Châu (Chiết Giang), Nam Xương
(Giang Tây), Kiến Xương (Giang Tây), và Phúc Châu (Phúc Kiến). Các
cuộc cải đạo cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Vào năm 1630,
Gaspar Ferreira tuyên bố có 260 cuộc cải đạo ở Kiến Xương, trong khi
tại khu vực Thượng Hải, Pedro Ribeiro báo cáo có ít hơn 14. Năm sau
đó, tổng số cải đạo là 1.786 trường hợp.
2.2.2.5. Chiến tranh Minh - Mãn Châu và cơ hội truyền giáo của
Dòng Tên vào giữa thế kỷ XVII
Từ những năm 1630, tình hình chiến tranh giữa nhà Minh và người
Mãn Châu ngày càng gay cấn. Thật nghịch lý, khoảng thời gian đầy biến
động này lại mang đến nhiều cơ hội cho các linh mục Dòng Tên với
trọng tâm hoạt động là vùng nông thôn xung quanh các đô thị
2.2.2.6. Sự cạnh tranh từ các giáo đoàn thuộc quyền quản lý của
Tây Ban Nha và Pháp
Bước vào nửa đầu thế kỷ XVII, Dòng Tên đối diện với một rắc
rối mới, đó là sự xuất hiện của giáo đoàn Franciscains và
Dominicains từ Manila xâm nhập bờ biển tỉnh Phúc Kiến. Hai giáo
đoàn này chủ trương phát động cuộc đấu tranh “Những nghi lễ của
người Trung Quốc” (Chinese Rites) nhằm chống lại Dòng Tên
trên phạm vi toàn thế giới.
2.2.2.7. Hoạt động của Dòng Tên trong thời gian trị vì của nhà Thanh
Trong ước tính từ năm 1663, Dòng Tên thực hiện các lễ bí tích
cho trên 105.000 tín đồ mỗi năm. Bắc Kinh thì có 3 khu định cư với
13.000 tín đồ, tỉnh Thiểm Tây là 2 khu định cư với 24.000 tín đồ, và
vùng Giang Nam thì 10 khu với 51.000 tín đồ. Nhưng gánh nặng nhất
là tại Thượng Hải, chỉ có 1 linh mục với 1 trợ lý phải quản lý hơn
40.000 Ky tô hữu. Sự mất mát đáng kể duy nhất của Dòng Tên là ở
thung lũng sông Yellow (Hoàng Hà) tại Sơn Tây và Hải Nam. Trong
khu vực Jiangzhou (Giang Châu, Sùng Tả, Quảng Châu) - Puzhou
(Phúc Châu, Phúc Kiến), chiến tranh, nạn đói và các cuộc nổi dậy đã
giảm số lượng Ky tô hữu từ 8.000 vào thời điểm Alfonso Vagnone
qua đời năm 1640 đến 3.300 vào đầu những năm 1660, trong khi
cộng đồng tại Khai Phong thì bị phá hủy hoàn toàn.
Sau 80 năm truyền giáo tại Trung Quốc, dường như sự kiên nhẫn
và nỗ lực của Dòng Tên đã được đền đáp. Họ quyết định mở rộng
đến những vùng khó khăn nhất ở Quảng Đông, Quảng Châu, và đảo
Hải Nam. Công việc của Dòng Tên tại Macao cũng dần hồi sinh, biến
trường Đại học St.Paul thành trung tâm mới của hoạt động truyền
giáo lan tỏa khắp Nam Trung Quốc, Tonkin (phía Bắc Việt Nam),
Việt Nam (Cochin China), Lào, Xiêm, và Campuchia.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI VÀ TRUYỀN GIÁO CỦA BỒ ĐÀO NHA
TẠI ẤN ĐỘ, TRUNG QUỐC (THẾ KỶ XVI - THẾ KỶ XIX)
3.1. Cơ sở xác lập hoạt động thương mại và truyền giáo của Bồ
Đào Nha tại Ấn Độ, Trung Quốc.
3.1.1. Chính sách hướng biển của Bồ Đào Nha
Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc của kỹ thuật hàng hải phục vụ
cho các chuyến đi biển dài ngày.
Thứ hai, xây dựng Lisbon - thủ đô của Bồ Đào Nha trở thành hải
cảng mang tính chất quốc tế.
3.1.2. Sự thừa nhận của Giáo hội Rome đối với các vùng đất Bồ
Đào Nha xâm chiếm
Trong thời điểm chuyển giao của lịch sử, thông qua các sắc chỉ
khác nhau, Giáo hoàng chính thức thừa nhận đặc quyền của Hoàng
gia Bồ Đào Nha.
3.1.3. Sự tham gia của Bồ Đào Nha vào thương mại Đại Tây
Dương trong thế kỷ XV
Như vậy, cho đến giữa thế kỷ XV, Bồ Đào Nha đã thiết lập được hai
pháo đài trên duyên hải Morocca, hai khu định cư tại Madeira, Porto
Santo và bắt đầu dịch chuyển đến Azores và quần đảo Cape Verde.
Thành công trong thương mại biển thời kỳ này tạo điều kiện để Dom
Afonso cho phép lưu hành loại tiền xu bằng vàng mới - cruzado - vào
năm 1457, tương ứng với giá trị của đồng ducat Venice.
3.1.4. Vai trò của thương nhân Thiên Chúa giáo mới
Với kinh nghiệm đi biển tuyệt vời, hệ thống các trạm buôn bán
rộng khắp thì những thương nhân Thiên Chúa giáo mới thật sự là nhân
tố quan trọng thúc đẩy công cuộc viễn chinh của người Bồ Đào Nha.
3.2. Đặc điểm hoạt động thương mại, truyền giáo của Bồ Đào
Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc
Thứ nhất, sự gắn kết chặt chẽ giữa hoạt động thương mại và
truyền giáo của Bồ Đào Nha ở cả Ấn Độ lẫn Macao (Trung Quốc).
Thứ hai, đế quốc Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc mang
bản chất của đế quốc “tái phân phối thương mại biển” khi tập
trung vào nguồn hoa lợi từ việc bán cartaz và các chuyến hải hành
nhượng địa.
Thứ ba, hoàng gia Bồ Đào Nha không quá chú trọng đến việc
xâm chiếm lãnh thổ, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng ở vùng đất họ
tạm chiếm mà tập trung chủ yếu vào việc thiết lập thể chế độc quyền
nhà nước trong thương mại biển thông qua lối buôn bán mang tính
chất cướp đoạt.
Thứ tư, hệ thống quản lý trong thương mại của Bồ Đào Nha tại Ấn
Độ và Trung Quốc không có nhiều thay đổi và chỉ ở mức độ sơ khai.
Hơn nữa gần như không có sự phân biệt giữa một viên chức chính
quyền và một thương nhân.
Thứ năm, trong khi hoạt động thương mại chủ yếu diễn ra ở các
thương điếm nằm ven biển Ấn Độ và Trung Quốc thì phạm vi của
hoạt động truyền giáo mở rộng vào sâu bên trong nội địa.
Thứ sáu, những thương điếm của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và
Trung Quốc đã tạo nên diện mạo của “đế quốc thứ nhất” và là cơ sở
để thiết lập “đế quốc thứ ba”.
3.3. Thương mại và truyền giáo của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ trong
sự đối sánh với Trung Quốc
3.3.1. Vài đối sánh về hoạt động thương mại của Bồ Đào Nha tại
Ấn Độ và Trung Quốc
Thứ nhất, về cách thức thành lập hệ thống cứ điểm thương mại
tại Ấn Độ và Trung Quốc.
Thứ hai, về cách thức tổ chức quản lý hoạt động thương mại.
Thứ ba, về hoạt động của mạng lưới thương điếm Bồ Đào Nha
tại Ấn Độ và Trung Quốc.
Thứ tư, về tác động của Bồ Đào Nha đối với thương mại Ấn Độ,
Trung Quốc.
3.3.2. Vài đối sánh về công cuộc truyền giáo của các giáo đoàn Bồ
Đào Nha tại Trung Quốc và Ấn Độ
Thứ nhất, về quá trình xâm nhập vào xã hội Ấn Độ và Trung Quốc.
Thứ hai, về cách thức truyền giáo.
Thứ ba, về địa bàn truyền giáo.
3.4. Hệ quả quá trình hoạt động thương mại và truyền giáo của
người Bồ Đào Nha tại Ấn Độ và Trung Quốc.
3.4.1. Sự gắn kết thương mại Ấn Độ, Trung Quốc vào mạng lưới
giao thương toàn cầu và hậu quả của chính sách độc quyền nhà
nước trong thương mại biển
3.4.2. Sự di cư, hình thành các tộc người mới và nạn kỳ thị chủng
tộc
3.4.3. Sự tiếp biến ngôn ngữ Bồ Đào Nha trong cộng đồng cư dân
châu Á
3.4.4. Quá trình tiếp biến, giao lưu văn hóa và hậu quả của chính
sách cưỡng bức tôn giáo
3.4.5. Bồ Đào Nha đặt nền tảng cho quá trình thay đổi cơ cấu động
- thực vật trên phạm vi toàn thế giới
C. KẾT LUẬN
1. Trong tiến trình phát triển lịch sử nhân loại, phát kiến địa lý là
một thành tựu vĩ đại của con người, mở ra một chương mới trong tiến
trình giao lưu Đông - Tây. Nhờ hội tụ đầy đủ những điều kiện chủ
quan và khách quan, Bồ Đào Nha đã trở thành quốc gia tiên phong
của “thời đại khám phá”. Từ những chuyến viễn chinh đầu tiên của
Vasco da Gama, Hoàng gia Bồ quyết định thiết lập những thương
điếm đầu tiên ven biển Ấn Độ Dương. Từ Calicut, Cochin,
Goa…người Bồ Đào Nha nhanh chóng bành trướng quyền lực đến
vịnh Bengal, đi sâu vào Đông Nam Á và Viễn Đông. Hệ thống
thương điếm kéo dài từ Tây sang Đông góp phần tạo nên diện mạo
của một đế quốc thương mại mậu dịch ven biển đầu tiên trong lịch sử
cận đại - Estado da India. như Ronald S. Love nhận xét: “Đây là
thành tựu vượt bậc của một quốc gia nghèo nàn về tài nguyên thiên
nhiên và ít ỏi về số dân (hơn 1.5 triệu) như Bồ Đào Nha” [72; 27].
Nhân tố chìa khóa làm nên thành công của Bồ Đào Nha là kết quả
tổng hòa của: “tham vọng, sự vượt bậc về kỹ thuật sử dụng súng và
điều khiển các con tàu, kỹ năng chiến thuật, lợi ích thương mại được
hỗ trợ bởi lực lượng hải quân, khả năng tổ chức và xác lập kế hoạch
một cách hiệu quả, sự bảo trợ của nhà nước” [74; 29]. Trong đó,
nhân tố chìa khóa là lợi thế so sánh về kỹ thuật hàng hải: “Khi những
con tàu được trang bị đại bác của Bồ Đào Nha xuất hiện tại vùng
duyên hải Ấn Độ, đó là thật sự là một kỳ tích. Lúc này ngoài phạm vi
châu Âu, chỉ có Ottoman là có thể đóng những con tàu có trọng pháo
nhưng lúc này họ không hiện diện tại Ấn Độ Dương để ngăn cản thế
lực Bồ Đào Nha. Một số tiểu quốc Hồi giáo tại Ấn Độ cũng có lực
lượng hải quân nhưng không đủ để đối trọng với lực lượng của Bồ
[99; 21]. Do đó, chiến thắng của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ dương là
minh chứng cho sự vượt trội về kỹ thuật chiến tranh trên biển.
2. Quá trình bành trướng quyền lực của Bồ Đào Nha tại Ấn Độ
và Trung Quốc chịu ảnh hưởng đậm nét từ chính sách hướng biển và
chủ nghĩa trọng thương của Hoàng gia Bồ Đào Nha. Vì thế, “sự hiện
diện của Bồ Đào Nha ở châu Á hoàn toàn là vì thương mại biển, việc
xâm chiếm đất đai không phải là mục đích chính của đội quân viễn
chinh. Những hòn đảo biệt lập và những pháo đài nằm dưới quyền
kiểm soát của các nhà cai trị địa phương thân thiện được sử dụng để
làm căn cứ hải quân” [67; 80]. Với chiến lược và tư duy quân sự
mới, “từ năm 1509 đến năm 1515, dưới sự cầm quyền của Afonso de
Albuquerque, một đế quốc thương mại biển đã dần định hình với sự
kết hợp giữa những hạm đội thường trực, những pháo đài kiên cố và
căn cứ hải quân tại những trọng điểm chiến lược đã giúp Bồ Đào
Nha kiểm soát được những tuyến thương mại chính tại Ấn Độ
Dương” [67; 80]. Trong vòng 15 năm, Bồ Đào Nha thiết lập một cấu
trúc quyền lực mới tại Ấn Độ Dương. Hoàng gia Bồ Đào Nha không
những nắm độc quyền thương mại hạt tiêu trên vùng biển Arab và
Malabar mà còn vận chuyển nó bằng tuyến đường hàng hải mới
thông qua mũi Hảo Vọng. Trong cấu trúc quyền lực đó, những
thương điếm ven biển Ấn Độ đóng vai trò trung tâm không những là
nguồn cung ứng các mặt hàng chủ yếu như gia vị, tơ lụa…mà còn là
trung tâm điều phối mọi hoạt động của Bồ Đào Nha ở châu Á.
3. Đặc trưng của thương mại Bồ Đào Nha tại Ấn Độ là quá trình
phát triển tương đối độc lập và ngược nhau giữa giao thương Hoàng
gia và tư thương. Nếu trong thời kỳ đầu, Hoàng gia Bồ Đào Nha thể
hiện vai trò và quyền lực tuyệt đối thì càng về sau chiến lược buôn
bán linh hoạt của tư thương Bồ lại càng thể hiện mức độ hiệu quả. Sự
xâm nhập của thương mại tư nhân vào mạng lưới Hoàng gia không
chỉ nói lên sự vận động bên trong của Estado mà còn minh chứng cho
quá trình phát sinh và tính ưu việt của yếu tố tư bản chủ nghĩa trong
sự đối sánh với sự bảo thủ và lạc hậu của vương triều phong kiến
châu Âu. Điều này càng được biểu hiện rõ ràng hơn khi Bồ Đào Nha
phải đối diện với thách thức đến từ các quốc gia châu Âu khác như
Hà Lan hay Anh. Trong khi đó, hoạt động thương mại của Bồ Đào
Nha ở Trung Quốc lại có đặc điểm riêng như một đánh giá: “Tại một
góc của thế giới, người Bồ Đào Nha đã đóng vai trò như những
thương nhân hòa bình, thân thiện chỉ sử dụng vũ khí với mục đích
chống cướp biển” [67; 83].
4. Nằm trong chuỗi thương điếm nằm dưới sự quản lý của Estado da
India, Macao là một trọng điểm hết sức đặc biệt. Thứ nhất, cùng với
những thương điếm khác của Bồ Đào Nha ở châu Á, Macao là một mắc
xích góp phần tạo nên sự lưu thông hàng hóa nhịp nhàng đảm bảo sự ổn
định cho hoạt động thương mại của người Bồ Đào Nha ở châu Á trong thế
kỷ XVI, XVII. Thứ hai, quá trình khai phá tiềm năng thương mại của
Macao được người Bồ Đào Nha thực hiện khá lâu dài (do sự tác động từ
các yếu tố chính trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc), nhưng sự
xâm nhập của Macao vào mạng lưới thương mại biển của đế quốc Bồ Đào
Nha lại nhanh chóng và đạt được những thành tựu vượt bậc. Từ vị trí một
thương điếm tập trung hàng hóa, Macao đã tiến dần đến vị trí một trọng
điểm thương mại không thể thiếu, có một hệ thống quản lý hành chính kép
rất đặc trưng. Thứ ba, sự phát triển của Macao về thương mại là kết quả
của nhiều yếu tố: sự hình thành tầng lớp thương nhân Macao Bồ Đào Nha
đầy năng động và nhạy bén trước thị trường tiềm năng còn bỏ ngỏ, nhu
cầu buôn bán trong khu vực giữa Trung Quốc - Nhật Bản, giữa Trung
Quốc với các quốc gia trong khu vực, vị trí địa lý của Macao …Tóm lại,
sự kết hợp giữa những thương nhân có tầm nhìn chiến lược với một ít cơ
duyên đã mang người Bồ Đào Nha đến Macao và đem lại cho vùng đất
này một diện mạo mới. Ở chiều ngược lại, Macao cũng trở thành một
trong những yết hầu của đế quốc Bồ Đào Nha tại châu Á, góp phần không
nhỏ đem đến sự thịnh vượng cho đế quốc này trong thế kỷ XVI, XVII.
5. Đi kèm với hoạt động thương mại, Thiên Chúa giáo cũng được
các giáo đoàn Bồ Đào Nha truyền bá đến những vùng đất khác nhau
tại Ấn Độ, Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu thương mại chỉ có thể thực
hiện tại duyên hải Ấn Độ Dương, vịnh Bengal, duyên hải Nam Trung
Quốc thì Thiên Chúa giáo đã xâm nhập vào sâu trong nội địa. Sự ra
đời của ba giáo phận thuộc Giáo hội Rome (Goa, Malacca, Macao)
đánh dấu thành tựu to lớn của công cuộc truyền giáo về phương
Đông. Nếu ở Ấn Độ, truyền giáo và thương mại đi song song và hỗ
trợ chặt chẽ thì tại Trung Quốc các linh mục phải đối diện với những
khó khăn hơn gấp nhiều lần. Một thể chế tập quyền cao độ với sự bảo
lưu bền chặt hệ tư tưởng Nho giáo đã trở thành chướng ngại ngăn cản
quá trình truyền giáo. Vì thế, cách thức truyền giáo của các linh mục
thời kỳ này là hết sức uyển chuyển, linh hoạt để phù hợp với sắc thái
văn hóa của từng quốc gia, từng dân tộc. Do đó phản ứng của cư dân
Ấn Độ hay Trung Quốc trước ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo cũng
phần nào cho thấy quá trình bảo vệ bản sắc dân tộc trong buổi đầu
của thời đại toàn cầu hóa.
6. Cùng với quá trình xác lập hệ thống thương điếm rồi hoạt động
thương mại và truyền giáo, Bồ Đào Nha đã đóng vai trò là chiếc cầu
nối tạo nên sự giao lưu và gắn kết văn hóa giữa phương Đông và
phương Tây trên nhiều lĩnh vực: ngôn ngữ, kiến trúc, tôn giáo, khoa
học kỹ thuật, nhân chủng học, địa lý học… Những thành tựu văn hóa,
khoa học kỹ thuật phương Tây cũng đã theo chân các thương nhân,
linh mục… xâm nhập vào xã hội Ấn Độ, Trung Quốc tạo nên những
dấu ấn đậm nét. Tuy nhiên, quá trình trên cũng để lại khá nhiều hệ
quả tiêu cực mà nổi bật trong đó là chính sách cưỡng bức tôn giáo
hay phân biệt chủng tộc góp phần nói lên tính hai mặt trong sự xâm
nhập của các quốc gia phương Tây vào xã hội phương Đông.