Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

HỆ THỐNG KÊNH đào ở AN GIANG THỜI NGUYỄN THỜI kỳ 1802 1867

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.61 MB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM VĂN THÀNH

HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở AN GIANG
THỜI NGUYỄN THỜI KỲ 1802 - 1867

LUẬN VĂN THẠC SỸ: LỊCH SỬ VIỆT NAM

HÀ NỘI, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM VĂN THÀNH

HỆ THỐNG KÊNH ĐÀO Ở AN GIANG
THỜI NGUYỄN THỜI KỲ 1802 - 1867
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐÀO TỐ UYÊN

HÀ NỘI, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn chưa từng
công bố ở các công trình nghiên cứukhác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học, quý thầy cô Khoa Sử cùng tất cả các
anh chị em học viên đã nhiệt tình giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin đặc biệt tỏ lòng kính trọng và biết ơn đến PGS. TS Đào Tố Uyên,
Người đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu
và thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin tỏ lòng tri ân ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang, Hội Sử học
tỉnh An Giang, Thư viện trường Đại Học An Giang, Thư viện tỉnh An Giang đã tận
tình giúp đỡ tôi về nguồn tư liệu.
Tuy chỉ được nghiên cứu trong thời gian ngắn, nhưng với sự giúp đỡ tận tình
của quý thầy cô, sự hỗ trợ của bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, sự cố gắng hết sức
mình, tôi đã có điều kiện tiếp thu được kiến thức và phương pháp nghiên cứu vô
cùng quý báu để hoàn thành luận văn này.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2015
Phạm Văn Thành


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.....................................................................................................................................3

1.2 Địa giới hành chính - dân cư An Giang trước năm 1867...........................................................23


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
An Giang có vị trí khá quan trọng, cùng với Kiên Giang có đường biên giới
án ngữ phía Tây Nam của Tổ quốc tiếp giáp với Campuchia (Chân Lạp). Trong
đó, An Giang có đường biên giới dài khoảng 100 km, là nơi thường xuyên bất ổn
về tình hình chính trị và quân sự với các nước láng giềng (Chân Lạp, Xiêm La)
trong lịch sử. Do đó, ngay từ khi thụ đắc vùng đất An Giang dưới tên gọi Tầm
Phong Long, các chúa Nguyễn và sau này là vương triều nhà Nguyễn đã ra sức
củng cố vững chắc nền quốc phòng an ninh, bảo vệ vùng đất này nhằm tạo ra
một tấm lá chắn vững chắc cho cả vùng Nam Bộ ở phía sau. Năm 1802, sau khi
lên ngôi, Gia Long bắt tay vào thực hiện kế sách quan trọng, với công trình trọng
tâm là mở một hệ thống kênh đào để khơi nguồn nước ở miền Tây Nam Bộ,
nhằm đẩy mạnh việc khẩn hoang, phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh
quốc phòng ở vùng đất mới.
Tầm nhìn chiến lược quan trọng đó đã được vua, quan vương triều nhà
Nguyễn cụ thể hóa. Trong khoảng thời gian từ năm 1816 đến 1844, vua và quan lại
vương triều nhà Nguyễn đã hoàn thành ba công trình thủy lợi lớn nhất trên vùng đất
An Giang, đó là kênh Thoại Hà (1818), kênh Vĩnh Tế (1819 - 1824), kênh Vĩnh An
(1843 - 1844), những công trình thủy lợi đó đã mang tầm chiến lược hết sức quan
trọng, vừa tạo nên những hào luỹ nhân tạo kết hợp với những hào lũy tự nhiên để
bảo vệ lãnh thổ Nam Bộ nói chung và An Giang nói riêng, vừa tạo nên những điều
kiện hết sức thuận lợi cho chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại cũng như
chính sách phòng thủ vùng biên địa của vương triều nhà Nguyễn với các nước láng
giềng Xiêm La, Chân Lạp.
Với tư cách là một người được sinh ra và lớn lên trên vùng đất An Giang,
đặc biệt còn tham gia công tác giảng dạy thì việc nhìn lại một cách toàn diện, đánh
giá một cách nghiêm túc lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất An Giang còn

có ý nghĩa thực tiễn là giúp địa phương vạch ra những chính sách, hoạch định và
định hướng những giải pháp phát triển chiến lược, phát huy những ưu thế và đồng

1


thời khắc phục những điểm yếu, tạo nên những cơ sở khoa học vững chắc. Ngoài
ra, việc nghiên cứu lịch sử vùng đất An Giang còn giúp cho thế hệ trẻ hiểu rõ
hơn về vùng đất và con người An Giang từ đó hình thành lòng yêu quê hương,
tinh thần cần cù lao động, tinh thần năng động, sáng tạo, hiếu học, trọng nhân
nghĩa, tinh thần đoàn kết gắn bó với cộng đồng... tạo ra nguồn nội lực thúc đẩy
việc xây dựng và kiến thiết đưa An Giang tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Từ những phân tích trên, chúng tôi quyết định chọn và nghiên cứu đề tài
“Hệ thống kênh đào ở An Giang thời Nguyễn thời kỳ 1802 - 1867” với mong
muốn góp phần bổ sung tư liệu và nhận định trong việc nghiên cứu lịch sử vùng đất
Nam Bộ nói chung và lịch sử An Giang nói riêng, góp phần mở rộng và nâng cao
nhận thức cho người học trong quá trình giảng dạy về nội dung này ở bậc đại học,
cao đẳng và các trường trung học phổ thông.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Việc nghiên cứu vấn đề “Hệ thống kênh đào ở An Giang thời Nguyễn thời
kỳ 1802 - 1867” nhằm làm rõ những mục đích sau đây:
Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời quá trình đào kênh cũng như sự phát triển của hệ
thống kênh đào An Giang thời Nguyễn 1802 - 1867.
Phân tích nhận định, đánh giá về vai trò và ý nghĩa chiến lược to lớn của hệ
thống kênh đào An Giang về mặt quân sự, ngoại giao, nhất là trong quá trình khẳng
định biên giới quốc gia trên vùng biên giới Tây Nam thời Nguyễn 1802 - 1867.
Phân tích vai trò, sự tác động của hệ thống kênh đào An Giang trong sự
nghiệp khai hoang lập ấp và phát triển kinh tế - xã hội của cư dân tộc Việt Nam thời
nhà Nguyễn (1802 - 1867) trên vùng biên giới An Giang nói riêng và Tây Nam nói

chung.

2


3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Như được chỉ rõ trong tên đề tài, đối tượng nghiên cứu của luận văn là “Hệ
thống kênh đào ở An Giang thời Nguyễn thời kỳ 1802 - 1867”.
Trong thư tịch và duyên cách hành chính, vùng đất An Giang từ thời chúa
Nguyễn đến thời thực dân Pháp đô hộ có diện tích rất rộng, bao trùm lên các tỉnh
Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang và một phần tỉnh Đồng Tháp ngày nay (khoảng
15.000 km²). Phạm vi không gian của vấn đề nghiên cứu chỉ trong địa giới tỉnh An
Giang ngày nay (khoảng 3.406 km²).
Khoảng thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 1802 khi Gia Long lên
ngôi và chính thức thiết lập vương triều Nguyễn, đến năm 1867 khi thực dân Pháp
chiếm được trọn Nam Kỳ trong đó có tỉnh An Giang.
4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Viết về lịch sử vùng đất An Giang cũng như hệ thống kênh đào ở đây đã có
một số công trình đã được công bố.
Thất Sơn mầu nhiệm của Nguyễn Văn Hầu, xuất bản năm 1955, đây là quyển
địa phương chí viết về vùng đất An Giang trong đó đi sâu nghiên cứu về lịch sư
vùng Thất Sơn (Bảy Núi), các tôn giáo như Bửu Sơn kỳ hương, Hòa Hảo, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa. Hạn chế lớn nhất của tác phẩm này là mang màu sắc tôn giáo.
Tìm hiểu đất Hậu Giang của Sơn Nam xuất bản năm 1959, tác phẩm này đã
cung cấp cái nhìn tổng quát về địa lý, lịch sử, văn hóa,...của vùng đất miền Hậu
Giang trong đó có An Giang từ thời Mạc Cửu đến khai phá vùng đất Hà Tiên cuối
thế kỷ XVII đến thời thực dân Pháp sang xâm lược và đô hộ cuối thế kỷ XIX. Tuy
nhiên, tác phẩm chưa trình bày rõ ràng và có hệ thống về việc thực thi chiến lược
quốc phòng an ninh trên vùng đất này nói chung và An Giang nói riêng trong đó có
hệ thống kênh đào.

Tân Châu xưa của Nguyễn Văn Kiềm và Huỳnh Minh, xuất bản năm 1964.
Tác phẩm đề cập đến vùng đất cù lao nổi tiếng Tân Châu, nơi định cư sớm của

3


người Việt, nơi chúa Nguyễn đặt đạo Tân Châu để quản lí vùng đất mới tiếp quản
này. Tác phẩm trình bày diện mạo vùng đất Tân Châu qua các mặt lịch sử, kinh tế,
văn hóa,...từ năm 1757 đến 1963, tuy nhiên phần dành cho kênh đào An Giang giai
đoạn lịch sử 1802 đến 1867 rất ít.
Việt sử xứ Đàng Trong 1558 - 1777 (Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam)
của Phan Khoang, xuất bản năm 1967. Tác phẩm tập trung nghiên cứu quá trình
Nam tiến của dân tộc từ thời các chúa Nguyễn, tiến trình xác lập chủ quyền trên
vùng đất Nam Bộ trong đó có An Giang nhưng riêng hệ thống kênh đào An Giang
thì chưa được đề cập đến nhiều.
Thoại Ngọc Hầu và công cuộc khẩn hoang miền Hậu Giang của Nguyễn văn
Hầu được xuất bản năm 1973. Tác giả đã viết về cuộc đời và sự nghiệp của Thoại
Ngọc Hầu, trong đó dành một phần khá lớn viết về những công trình đào kênh, mở
đường, lập ấp ở An Giang của Thoại Ngọc Hầu vào giai đoạn cuối đời Gia Long
đến đầu thời Minh Mệnh. Qua tư liệu lịch sử này cho ta có cái nhìn chi tiết về
những sự đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh
trong giai đoạn này.
Lịch sử khẩn hoang miền Nam của Sơn Nam được xuất bản năm 1973, là tác
phẩm nghiên cứu sâu về lịch sử Nam Bộ từ thời chúa Nguyễn thế kỉ XVII đến thực
dân Pháp đô hộ những năm đầu thế kỉ XX, trong đó có những phần liên quan đến
An Giang, cũng như chính sách đào kênh, chiến lược quốc phòng an ninh của các
chính quyền chúa Nguyễn, triều Nguyễn trên vùng đất này.
Lịch sử An Giang của Sơn Nam xuất bản năm 1988, đây là tác phẩm mang
tính chất lịch sử địa phương trình bày lịch sử vùng đất An Giang từ khi mới sát
nhập vào lãnh thổ nước ta cho đến thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tác

phẩm trình bày khá tốt về những hoạt động, chính sách quốc phòng an ninh của
chính quyền chúa Nguyễn, triều Nguyễn trong giai đoạn 1757 đến 1867.
Luận văn Vùng đất An Giang thời kỳ 1757 - 1867 của Nguyễn Ngọc Thủy
năm 2004, tác phẩm trình bày tổng quát về lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa,...ở vùng
4


đất An Giang từ 1757 đến 1867. Trong đó, tác giả có trình bày khái quát về công tác
trị thuỷ với quá trình hình thành hệ thống kênh đào, chính sách và công tác thực thi
quốc phòng an ninh trên vùng đất này.
Bộ Địa chí An Giang do Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang tổ chức biên soạn
và xuất bản năm 2007, bộ sách đã thể hiện diện mạo của vùng đất An Giang một
cách tổng quát trên tất cả các lĩnh vực từ quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,...Trong
đó, những sử liệu về chiến lược quốc phòng an ninh của chính quyền chúa Nguyễn,
triều Nguyễn cũng được thể hiện rải rác qua các sự kiện, nhân vật được đề cập trong
tác phẩm.
Vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng của Choi Byung Wook được xuất
bản năm 2011, tác giả đã trình bày khá sâu sắc về những hoạt động của chính quyền
từ thời Nguyễn sơ đến thời Minh Mạng trên đất Nam Bộ trong đó có An Giang.
Trong đó, Choi Byung Wook đã đi sâu vào phân tích những chính sách cai trị của
vua Minh Mạng ở vùng đất Nam Bộ. Ở phần I của tác phẩm có những chính sách
mang tính liên đới đến vùng đất An Giang trong đó có lĩnh vực quốc phòng an ninh.
Tuy nhiên, tác giả nói về hệ thống kênh đào An Giang là rất ít.
Luận văn Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phòng của chính quyền
chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kỳ 1757 - 1867 của Dương Thế Hiền, năm 2014,
tác phẩm trình bày rất cụ thể việc thực thi các chính sách bảo vệ chủ quyền trên
vùng đất An Giang của vua quan vương triều nhà Nguyễn.
Ngoài ra còn nhiều tác phẩm, công trình nghiên cứu về vùng đất Nam Bộ
trong đó có An Giang phải kể đến như: “Góp phần tìm hiểu vùng đất Nam Bộ thế
kỷ XVII, XVIII, XIX” và “Lịch sử khai khẩn vùng đất Nam Bộ của giáo sư Huỳnh

Lứa, Lược sử vùng đất Nam Bộ của Hội khoa học lịch sử Việt Nam, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu - Nguyễn Văn Thoại của Hội khoa học
lịch sử Việt Nam kết hợp với UBND thành phố Đà Nẵng và UBND tỉnh An Giang
năm 2009, Hội thảo Lịch sử An Giang, Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung bộ thế kỷ
XVII - XIX của Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh...

5


Xét quá trình nghiên cứu vấn đề qua các công trình kể trên, người viết nhận
thấy chưa có một công trình nào đề cập trực tiếp đến lĩnh vực của đề tài hoặc nghiên
cứu chuyên sâu về công tác trị thủy đặc biệt là công cuộc đào kênh trên vùng đất An
Giang của thời Nguyễn giai đoạn 1802 đến 1867. Xuất phát từ ý nghĩa đó, tôi quyết
định chọn vấn đề “Hệ thống kênh đào ở An Giang thời Nguyễn thời kỳ 1802 1867” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
5. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các nguồn tài liệu có liên quan đến vùng đất An Giang trong giai đoạn này
khá phong phú. Đầu tiên phải kể đến là Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài
Đức (1765 - 1825) được viết vào khoảng thế kỉ XIX dưới triều Gia Long (1802 1820) và được hiến vào năm Minh Mạng thứ nhất (Canh Thìn, 1820) sau khi triều
Nguyễn có chiếu tìm kiếm và thu thập thư tịch cũ. Đây là một sử liệu quan trọng về
Nam bộ Việt Nam thời nhà Nguyễn dưới hình thức địa phương chí. Vùng đất An
Giang được đề cập đến trong các mục về “Trấn Vĩnh Thanh”. Trong tác phẩm,
những vấn đề về địa giới, khí hậu, sông ngòi, núi non, thành quách, con người....của
trấn Vĩnh Thanh là nguồn tư liệu đầu tiên về An Giang, mặc dù trấn Vĩnh Thanh có
địa giới rộng gấp 5 lần tỉnh An Giang hiện nay. Chính sách quốc phòng, an ninh
trên vùng đất An Giang được đề cập thông qua các tư liệu về sự kiện, địa danh,
công trình... trong tác phẩm, và chưa được hệ thống hóa cụ thể.
Bộ Đại Nam thực lục được vua Minh Mạng lệnh cho Quốc sử quán biên
soạn vào năm 1821. Đây là bộ sử chính thống được viết theo lối biên niên, gồm hai
phần Tiền biên và chính biên. Đại Nam thục lục tiền biên ghi chép lại giai đoạn lịch
sử từ năm 1558 (Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa) đến năm 1777 (đời chúa Nguyễn

Phúc Thuần - Nguyễn Huệ dẫn quân chiếm Gia Định). Đại Nam thực lục chính biên
chép sự kiện từ năm 1777 (Nguyễn Ánh tìm cách khôi phục quyền lực) đến 1889
(vua Đồng Khánh mất), sau này được soạn thêm đến năm 1925 (đời vua Khải
Định). Bộ Đại Nam thực lục ghi chép khá tường tận về tất cả các lĩnh vực quân sự,
chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, ngoại giao, khí tượng,...Trong các nguồn tư

6


liệu trên, có thể tìm thấy những tư liệu về chính sách, hoạt động quốc phòng, an
ninh của chính quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn tại vùng đất An Giang ở giai
đoạn này, nhưng ở dạng liệt kê và lẻ tẻ, chưa có sự phân tích, đánh giá, tổng
hợp....để thấy rõ dưới góc độ một chiến lược hoàn chỉnh.
Bộ Minh Mệnh chính yếu được Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào
năm 1837, chủ yếu gồm những chỉ dụ của nhà vua và những sự kiện xảy ra trong
triều Minh Mệnh (1820 - 1840). Qua bộ sách, tài liệu gốc về cuộc chiến đấu giữ
nước chống lại quân Xiêm, cuộc đấu tranh chống cường quyền của nhân dân An
Giang được viết lại ở quyển XX, từ năm Minh Mệnh thứ năm (1824) đến năm Minh
Mệnh thứ mười tám (1837).
Địa bạ An Giang lần đầu tiên được lập vào ngày mùng 3 tháng 6 năm 1836
dưới triều Minh Mệnh thứ mười bảy (1836). Địa bạ An Giang có 43 tập, gồm địa
bàn các tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, An Giang ngày nay. Đây là nguồn tư liệu quý
báu để tác giả luận văn có thể so sánh, đối chiếu những vấn đề đặt ra trong quá trình
nghiên cứu như địa giới, biên giới...
Đại Nam nhất thống chí là bộ sách địa lý - lịch sử, được biên soạn vào năm
Tự Đức thứ hai mươi chín (1875) và hoàn thành vào khoảng năm 1881. Tỉnh An
Giang được viết trong quyển XXX, chia ra các mục như: ranh giới, hình thể tỉnh An
Giang, ranh giới các huyện, phủ, các cơ quan tấn, sở trong bộ máy hành chính,
thành trì, khí hậu, núi sông, phong tục, hộ khẩu, thuế ruộng, nhà trạm, chợ quán, thổ
sản, đê đập, chùa miễu, nhân vật lịch sử... Đây là nguồn tư liệu quan trọng nhưng

tỉnh An Giang ngày xưa địa giới không trùng khớp với ngày nay nên trong nội dung
luận văn, người viết phải giải quyết những chi tiết phức tạp về địa danh, số liệu
thống kê, xác định địa bàn đang tìm hiểu thuộc hay không thuộc địa phận tỉnh An
Giang hiện nay.
Lịch sử khai phá vùng đất Châu Đốc (1757 - 1857) của Trần Văn Dũng, năm
2005, tác phẩm trình bày khá chi tiết công cuộc khẩn hoang vùng đất Châu Đốc.
Trong đó, tác giả cũng trình bày chi tiết công tác thực hiện công việc đào kênh Vĩnh

7


Tế, kênh Vĩnh An của nhà Nguyễn. Đây là nguồn tài liệu rất quan trọng, khoa học
trong quá trình nghiên cứu.
Nam Bộ 300 năm làm thủy lợi của Phan Khánh, năm 2005, tác phẩm đã trình
bày tổng quan về điều kiện tự nhiên, công cuộc khai phá và công tác trị thủy vùng
đất Nam Bộ từ thời các chúa Nguyễn đến nhà Nguyễn. Trong đó, tác giả cũng đã
trình bày khá chi tiết về hệ thống kênh đào An Giang từ khi nhà Nguyễn thành lập
đến khi thực dân Pháp xâm chiếm vùng đất Nam Bộ.
Luận văn Lịch sử kênh đào Nam Bộ thời nhà Nguyễn từ thế kỷ XVIII đến
giữa thế kỷ XIX của Phạm Đức Hảnh, năm 2009, tác phẩm trình bày tổng quát về
lịch sử hình thành hệ thống kênh đào Nam Bộ trong đó có An Giang. Trong đó, tác
giả có trình bày khái quát về công tác trị thuỷ với quá trình hình thành hệ thống
kênh đào, chính sách và công tác thực thi quốc phòng an ninh trên vùng đất này.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tịnh Biên 175 năm hình thành và phát triển
1839 - 2014”. Trong tác phẩm, một số bài viết trình bày rất chi tiết về vai trò của hệ
thống kênh đào An Giang trong hoạt động phòng thủ, phát triển kinh tế xã hội và
ngoại giao. Trong đó, đặc biệt đáng chú ý là phần trình bày về vai trò của kênh Vĩnh
Tế với chiến lược quốc phòng và công cuộc khẩn hoang của nhà Nguyễn trên vùng
đất Tịnh Biên (An Giang) từ năm 1839 - 1867.
Bên cạnh các nguồn tư liệu, đề tài, các công trình nghiên cứu về vùng đất An

Giang, tác giả luận văn cũng tiến hành đi điền dã (chụp ảnh tư liệu) làm phong phú
cũng như góp phần tạo cơ sở lý luận khoa học vững chắc trong quá trình nghiên
cứu, thực hiện đề tài.
Để thực hiện đề tài này, tác giả luận văn sử dụng những phương pháp sau:
Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng từ khâu chọn đề tài, xây dựng
đề cương và trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài, giúp tác giả tìm hiểu, tham
khảo, nắm bắt trong những tài liệu được công bố những nội dung liên quan đến vấn
đề của luận văn, xem xét vấn đề được đề cập, trình bày hoặc giải quyết đến đâu, để

8


xác định “điểm mới” và “những đóng góp mới” của đề tài, viết phần tổng quan về
vấn đề nghiên cứu, lịch sử vấn đề của luận văn...
Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic được tác giả luận văn sử
dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu để có thể tìm hiểu các sự kiện, sự việc
một cách chi tiết, cụ thể trong sự ra đời, phát triển và kết thúc, trong hoàn cảnh,
không gian, thời gian xác định, làm cơ sở cho việc lựa chọn, xử lý, sắp xếp tư liệu
theo tiến trình thời gian, không gian một cách khoa học, để nhận định và khái quát
quá trình lịch sử của vấn đề, làm sáng tỏ vị trí, vai trò chiến lược quan trọng của hệ
thống kênh đào An Giang, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược củng cố
quốc phòng an ninh, đối ngoại trên vùng đất An Giang của chính quyền nhà Nguyễn
từ 1802 đến 1867.
Phương pháp liên ngành được thực hiện trong quá trình khai thác nguồn tư
liệu, kế thừa kết quả nghiên cứu thuộc các ngành khoa học khác nhau như quân
sự, địa lý học và địa lý học lịch sử, khu vực học trong quan hệ quốc tế và quan
hệ đối ngoại…
Các phương pháp trên được tác giả cố gắng vận dụng hợp lí trong luận văn
để đảm bảo được tính khoa học và góc độ nghiên cứu sử học của vấn đề.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có những đóng góp mới sau:
1. Qua sự phân tích, đánh giá, tổng hợp các nguồn sử liệu, luận văn góp phần
hệ thống hóa và làm sáng tỏ vị trí, vai trò chiến lược quan trọng của hệ thống kênh
đào An Giang trong chiến lược phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an ninh, đối
ngoại trên vùng đất An Giang của triều Nguyễn từ 1802 đến 1867.
2. Luận văn góp phần bổ sung tư liệu, nhận định và kiến giải khoa học cho
việc nhận thức những kinh nghiệm và bài học lịch sử về xây dựng hệ thống kênh
đào trong chiến lược phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng an ninh, đối ngoại của
vùng đất phía Nam nói chung và An Giang nói riêng, là nguồn tham khảo và là cơ

9


sở khoa học cho công tác quốc phòng an ninh của chính quyền địa phương An
Giang trong việc củng cố, bảo vệ biên giới Tây Nam của đất nước trong giai đoạn
hiện nay.
3. Việc so sánh, đối chiếu giữa địa danh An Giang xưa và nay cũng là một
đóng góp của đề tài vào việc tìm hiểu quá trình lịch sử hình thành vùng đất An
Giang, bổ sung cho địa phương chí An Giang.
4. Luận văn là một tài liệu có ích phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên
cứu lịch sử địa phương An Giang cũng như lịch sử Nam Bộ trong giai đoạn hiện
nay.
7. BỐ CỤC LUẬN VĂN:
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận có 3 chương:
Chương 1. Khái quát vùng đất An Giang thời Nguyễn (1802 - 1867)
1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1 Đất đai, địa hình
1.1.2.2 Sông, rạch, kênh đào

1.1.2.3 Các yếu tố khí tượng
1.2 Địa giới hành chính - dân cư An Giang trước năm 1867
1.2.1 Địa giới hành chính
1.2.2 Dân cư
Chương 2. Quá trình hình thành hệ thống kênh đào An Giang thời
Nguyễn (1802 - 1867)
2.1 Kênh đào ở An Giang thời Nguyễn (1802 - 1867)
2.1.1 Kênh Thoại Hà (1818)
2.1.2 Kênh Vĩnh Tế (1819 - 1824)
2.1.3 Kênh Vĩnh An Hà (1843 - 1844)

10


2.2 Tổ chức, phương thức và kỹ thuật đào kênh
2.2.1 Công tác tổ chức đào kênh
2.2.2 Phương thức và kỹ thuật đào kênh
Chương 3. Vai trò của hệ thống kênh đào An Giang thời Nguyễn (1802 - 1867)
3.1 Vùng đất An Giang trong vấn đề an ninh quốc gia cuối thế kỷ XVIII và đầu
thế kỷ XIX
3.2 Hệ thống kênh đào An Giang góp phần vào công cuộc phòng thủ biên
giới Tây Nam và khẳng định chủ quyền trên vùng đất mới
3.3 Góp phần phát triển kinh tế và ổn định xã hội trên vùng đất biên địa An Giang

11


Chương 1
KHÁI QUÁT VÙNG ĐẤT AN GIANG THỜI NGUYỄN (1802 - 1867)
1.1 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

1.1.1 Vị trí địa lý
An Giang có diện tích tự nhiên 3.424 km². An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam
Bộ, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phía bắc, tây bắc giáp vương quốc
Campuchia dài 104 km(1), tây nam giáp tỉnh Kiên Giang 69,789 km, nam giáp tỉnh
Cần Thơ 44,734 km, đông giáp tỉnh Đồng Tháp 107,628 km [50, tr.25].
Điểm cực bắc trên vĩ độ 10057’(nay thuộc xã Khánh An, huyện An Phú), cực
nam trên vĩ độ 10012’ (nay thuộc xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn), cực tây trên
kinh độ 104046’ (nay thuộc xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), cực đông trên kinh độ
1050 35’ (nay thuộc xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới). Chiều dài nhất : Bắc Nam là 86 km và Đông - Tây là 87,2 km [50, tr.25].
Theo vị trí hiện nay, phía Đông tỉnh An Giang giáp với tỉnh Đồng Tháp, giới
hạn bởi sông Tiền, kéo dài từ biên giới đến hết huyện Chợ Mới, theo sông Cái Tàu
Thượng (xã Hội An) từ Vàm ở sông Tiền thông qua sông Hậu quanh co 113km.
Phía Nam và Đông Nam giáp tỉnh Cần Thơ theo đường ranh quận Thốt Nốt dọc
theo kênh Cái Sắn dài 68km. Phía Tây Nam tiếp giáp tỉnh Kiên Giang từ đoạn giữa
kênh Vĩnh Tế ở biên giới xuyên qua vùng Tứ giác Long Xuyên đến kênh Cái Sắn,
dài trên 70km. Phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp với Campuchia kéo dài từ đoạn giáp
với Kiên Giang đến giáp giới tỉnh Đồng Tháp dài khoảng 100km, qua khu vực hành
chính là Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Đốc, An Phú và Tân Châu.
Với vị trí quan trọng đó cho nên trước thế kỷ XX, vùng đất An Giang là địa
bàn có vai trò đặc biệt trong hoạt động giao thông vận chuyển và liên hệ nội vùng
trong khắp khu vực Nam Bộ cũng như trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng liên
quan đến các cửa ngõ thông suốt sang Chân Lạp, Xiêm La và Biển Tây.

(1)

Theo Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam – Campuchia ký ngày 27/12/1985. (Tổng cục Địa chính
khảo sát năm 1993 dài 94,8 km)

12



1.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1 Đất đai, địa hình
1.1.2.1.1 Đất đai
Có thể phân chia đất đai ở An Giang thành 3 nhóm chính: nhóm đất phèn,
nhóm đất phù sa, nhóm đất đồi núi.
- Nhóm đất phèn: Đất phèn ở An Giang phân bố nhiều ở vùng tiếp giáp với
tỉnh Kiên Giang, thuộc địa phận huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và một phần của Châu
Phú, với tổng diện tích khoảng 30.136 ha, trong đó Tri Tôn chiếm 67% [50, tr.175].
- Nhóm đất phù sa: Ở An Giang, nhóm đất phù sa chiếm 44,27% tổng diện
tích đất toàn tỉnh với khoảng 156.507 ha, chủ yếu phân bố ở các huyện Châu Thành,
Châu Phú, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Chợ Mới và một phần của
thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc ngày nay [50, tr.180].
- Nhóm đất đồi núi: Đất đồi núi chủ yếu phân bố tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh
Biên, một phần nhỏ ở huyện Thoại Sơn (vùng Ba Thê). Tổng diện tích đất đồi núi ở
An Giang khoảng 29.320 ha, chiếm 8,6% tổng diện tích đất của tỉnh [50, tr.185].
Theo Nguyễn Đình Đầu thì tình hình ruộng đất ở An Giang năm 1836 ghi
nhận được như sau [50, tr.404]:
Toàn tỉnh An Giang đo đạt được 47.674ha trong đó diện tích sử dụng được là
47.409ha gồm đất dùng để canh tác 47.264ha và đất thổ cư 145ha, còn lại 265ha là
đất bỏ hoang.
Riêng 47.264ha đất sử dụng được thì có 35.489ha dùng để trồng lúa (75%),
và 11.775ha đất vườn (25%). Có thể thấy, đất vườn chiếm diện tích bằng 1/3 đất
ruộng. Phủ Tuy Biên chiếm 16.553ha trong đó huyện Đông Xuyên có 12.330ha,
huyện Tây Xuyên là 4.223ha. Điều này đã giúp cho đời sống của dân cư ngày một
xung túc. Gia định thành thông chí ghi “ Trấn Vĩnh Thanh, dân cư chuyên nghề làm
vườn ruộng, đều có sản nghiệp, được gọi là nơi giàu có đông đúc”[50, tr.404].
Cơ cấu ruộng đất thời bấy giờ ở An Giang chủ yếu có hai loại [50, tr.405]:
- Loại ruộng gò, ruộng cao, ruộng không tốt (gọi là sơn điền) chiếm tỉ lệ
96,35%.


13


- Loại ruộng cỏ, ruộng sâu, ruộng tốt (gọi là thảo điền) chỉ chiếm có 3,6%.
Sự đa dạng về các loại hình đất đai trên vùng đất An Giang tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình khẩn hoang lập làng, lập đồn điền trên những khu vực dễ
khai phá rồi tiến đến các vùng khó khai phá hơn của lưu dân, di dân cũng như chính
quyền chúa Nguyễn, triều Nguyễn trong sự nghiệp an dân giữ nước, phát triển vùng
đất mới giai đoạn trước thế kỷ XX.
1.1.2.1.2 Địa hình
An Giang có 2 dạng địa hình chính là đồng bằng (do phù sa sông Mê Kông
tạo nên) khi chảy vào lãnh thổ Việt Nam đã phân thành hai nhánh là sông Tiền,
sông Hậu và đồi núi (tập trung ở vùng Tri Tôn - Tịnh Biên - Thoại Sơn).
* Đồng bằng: Xét về nguồn gốc hình thành, theo Địa chí An Giang cũng
như một số nguồn tư liệu khác, ở An Giang địa hình đồng bằng có 2 loại chính là
đồng bằng phù sa và đồng bằng ven núi.
Đồng bằng phù sa:
Đồng bằng phù sa ở An Giang là một bộ phận của vùng Đồng bằng sông
Cửu Long, có nguồn gốc trầm tích lâu dài của phù sa sông Mê Kông. Do môi
trường và điều kiện trầm tích khác nhau mà hình thành nên các cánh đồng lũ hở, lũ
kín, cồn bãi, gò, gờ, đê sông, đầm lầy,… rất phức tạp.
Về hình dạng, đồng bằng phù sa ở An Giang có ba dạng chính và 1 dạng
phụ: Dạng cồn bãi mà nhân dân địa phương quen gọi là cù lao, tương tự như chiếc
thuyền úp, ở giữa cao và thấp dần sang hai bên như cù lao Mỹ Hoà Hưng (quê
hương Chủ tịch Tôn Đức Thắng), cù lao Tiên, Phó Ba (Long Xuyên), Bà Hoà (Châu
Thành), Bình Thuỷ, Khánh Hoà (Châu Phú), Vĩnh Trường (An Phú) của sông Hậu
và cù lao Giêng (Chợ Mới), cù lao Tây, cù lao Ma, Cái Vừng, Cồn Cỏ (Tân Châu)
của sông Tiền. Dạng lòng chảo, địa hình ở hai bờ sông cao hơn và thấp dần vào
trong đồng, điển hình là khu giữa sông Tiền - sông Hậu, trong đó rõ nhất là huyện

Phú Tân có ba mặt sông bao bọc. Dạng hơi nghiêng, tập trung ở phía hữu ngạn sông
Hậu thuộc vùng trũng Tứ giác Long Xuyên, địa hình cao từ bờ sông Hậu rồi thấp
dần vào trong nội đồng cho đến tận ranh giới với tỉnh Kiên Giang. Dạng gợn sóng,

14


là một dạng phụ nằm trong khu vực dạng lòng chảo, được hình thành do sự kết nối
đan xen các bãi bồi ven các sông nhánh (nhân dân địa phương gọi là xép) và các
rạch tự nhiên đã bị phù sa sông bồi lấp; tuy nhiên, dạng địa hình này không nhiều,
tập trung ở cù lao Vĩnh Trường huyện An Phú, các xã Vĩnh Xương và Vĩnh Hoà
huyện Tân Châu.
Ngày nay, đồng bằng phù sa ở An Giang đã có nhiều thay đổi so với cách
đây 200 năm, những rừng tràm mênh mông, những cánh đồng đầy lau, sậy hoang
vu xưa kia, nay đã được khai thác gần hết để trồng lúa và hoa màu, từ một vụ đến
hai, ba vụ mỗi năm. Đồng bằng còn được chia cắt bởi hệ thống kênh đào, các tuyến
giao thông đường bộ, hệ thống đê bao và các khu dân cư tập trung.
Đồng bằng ven núi: Xét về nguồn gốc hình thành, đồng bằng ven núi ở An
Giang được phân làm 2 kiểu: kiểu Deluvi (sườn tích) và kiểu đồng bằng phù sa cổ.
Đồng bằng ven núi kiểu Deluvi hình thành trong quá trình phong hoá và
xâm thực từ các núi đá, sau đó được nước mưa bào mòn và rửa trôi, rồi được dòng
chảy lũ theo các khe suối chuyển tải xuống các chân núi, tích tụ lâu ngày lại mà
thành. Loại đồng bằng này có đặc điểm là hẹp và nghiêng từ 2 0 đến 50, bị chia cắt
bởi các khe suối và rãnh nhỏ, có độ cao từ 5m đến 10m và không được bồi đắp phù
sa hàng năm. Ở An Giang, kiểu đồng bằng này tập trung quanh chân các núi Cô Tô,
núi Dài và núi Cấm.
Đồng bằng ven núi kiểu phù sa cổ với đặc tính là có nhiều bậc thang ở
những độ cao khác nhau. Trên mỗi bậc thang khá bằng phẳng hầu như không có
độ nghiêng. Chênh lệch độ cao giữa các bậc thang không lớn, thường dao động từ
1m đến 5m. Kiểu đồng bằng này ở An Giang không nhiều, tập trung chủ yếu ở xã

An Cư, Vĩnh Trung, một số ít rải rác ở thị trấn Nhà Bàng, xã Nhơn Hưng, huyện
Tịnh Biên.
Hiện nay, các cánh đồng ven núi ở An Giang đã được khai phá hết để trồng
lúa, hoa màu, cây ăn trái… Chính vì vậy, so với cách đây 200 năm, thảm phủ xanh
trên những cánh đồng này đã giảm sút nhiều về mật độ cũng như chủng loài, dẫn
đến nguy cơ bị xói mòn dần và sa mạc hoá. Để khắc phục tình trạng này, trên các

15


cánh đồng ven núi cần đa dạng hoá cây trồng, nhất là cây ăn quả, đồng thời phải
xây dựng hệ thống thủy nông hợp lý.
* Địa hình đồi núi:
An Giang có nhiều đồi núi gồm nhiều đỉnh có nhiều hình dạng, độ cao khác
nhau, phân bố theo vành đai cánh cung kéo dài gần 100km; khởi đầu từ xã Phú Hữu
(huyện An Phú), qua xã Vĩnh Tế (phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc), bao trùm
lên gần hết diện tích hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, về tận xã Vọng Thê, thị trấn
Óc Eo và Vọng Đông rồi dừng lại ở thị trấn Núi Sập của huyện Thoại Sơn.
Đồi núi An Giang có thể chia thành 6 cụm và 2 núi độc lập: Cụm núi Sập có
4 núi là núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà, núi Cậu đều thuộc địa bàn huyện Thoại Sơn.
Trong đó, núi Sập to lớn hơn có độ cao là 85m với chu vi là 3800m. Cụm núi Ba
Thê có 5 núi nằm trên địa bàn huyện Thoại Sơn là Ba Thê, núi Nhỏ, núi Tượng, núi
Trọi, và núi Chóc. Trong đó, núi Ba Thê lớn nhất với độ cao 221m và chu vi
khoảng 4220m. Cụm núi Phú Cường có 13 núi nằm trên địa bàn huyện Tịnh Biên là
Phú Cường, núi Dài năm Giếng (Dài nhỏ), núi Két, núi Rô, Trà Sư, Bà Vải, Đất
Lớn, Bà Đắt, núi Cậu, Đất Nhỏ, Mo Tấu, núi Chùa, và Tà Nung. Cao nhất là núi
Phú Cường 282m với chu vi khoảng 9.500m. Cụm núi Cấm có 7 núi (hay còn gọi là
Thất Sơn) nằm giáp trên địa bàn hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, đó là núi Cấm, Bà
Đội, Nam Qui, Bà Khẹt, Tà Lọt, Ba Xoài, Cà Lanh. Núi Cấm (Cấm Sơn) là cao nhất
705m có chu vi tới 28.600m. Cụm núi Dài thuộc huyện Tri Tôn, có 4 núi là núi Dài,

núi Tượng, núi Nước và núi Sà Lon. Trong đó, núi Dài là cao nhất tới 554m và chu
vi là 21.625m. Cụm núi Cô Tô có 2 núi là Cô Tô và Tà Pạ, cả hai đều thuộc địa bàn
huyện Tri Tôn. Cô Tô là núi cao nhất tới 614m với chu vi 14.375m [50, tr.111].
Bên cạnh các cụm núi, còn có 2 núi nằm độc lập đó là núi Nổi thuộc thị xã
Tân Châu với độ cao 10m và chu vi khoảng 320m; núi Sam thuộc thành phố Châu
Đốc ngày nay, có độ cao 228m và chu vi khoảng 5.200m.
Ngoài đặc điểm trong mỗi cụm núi bao gồm nhiều núi liên kết hoặc đứng
độc lập, còn thấy ngay mỗi núi có nhiều đỉnh với độ cao thấp khác nhau. Núi Cấm
là núi có tới 6 đỉnh với độ cao từ 142m đến 705m, núi Dài là núi lớn thứ hai với 8

16


đỉnh cao từ 134 đến 554m, núi Dài Năm Giếng có 5 đỉnh cao từ 135m đến 282m,
núi Tượng có 2 đỉnh cao lần lượt là 112m và 266m [50, tr.111].
Các cụm núi Cấm, núi Dài, núi Phú Cường, núi Cô Tô liên kết nhau thành
một dãy liên tục trải dài trên 35km và rộng 17km với diện tích gần 600km 2, tạo
thành vùng Thất Sơn (Bảy Núi) với 7 ngọn núi đã đi vào lịch sử và huyền thoại là:
- Núi Cấm (Thiên Cấm Sơn),
- Núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ Sơn)
- Núi Cô Tô (Phụng Hoàng Sơn),
- Núi Dài (Ngọa Long Sơn),
- Núi Tượng (Liên Hoa Sơn)
- Núi Két (Anh Vũ Sơn)
- Núi Nước (Thủy Đài Sơn)(2) [8, tr.12]
Theo sách “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức viết trước năm
1820 đồi núi ở An Giang được ghi chép sớm nhất, trong đó có mô tả khá chi tiết đồi
núi ở An Giang (có 19 núi).
Sau sách “Gia Định Thành Thông Chí” của Trịnh Hoài Đức là sách “Đại
Nam Nhất Thống Chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn viết sau năm 1865 trình bày

rất nhiều về đồi núi ở An Giang. Trong sách này có 24 núi được mô tả, trong đó có
19 núi trùng với 19 núi đã được Trịnh Hoài Đức ghi trong “Gia Định Thành Thông
Chí” và thêm 5 núi mới được bổ sung là Tô Sơn, Cấm Sơn, Ốc Nhẫm, Nhân Hoà và
Thị Vi. Song, có điều lạ là các núi mới này không được mô tả về độ cao và chu vi.
Đặc biệt, từ “ Thất Sơn” lần đầu tiên xuất hiện trong “Đại Nam Nhất Thống Chí” và
chỉ rõ gồm các núi Tượng Sơn, Tô Sơn, Cấm Sơn, Ốc Nhẫm, Nam Vi, Tà Biệt, và
Nhân Hoà. “Thất Sơn” hay “Bảy Núi”, một vùng đồi núi đặc biệt có một không hai
nổi lên giữa Đồng bằng sông Cửu Long rộng lớn. Có thể nói, thiên nhiên quả thật
“khéo tay” tạo hình cho mảnh đất này có “Cửu Long Giang” ngày đêm cuộn sóng
với núi biếc điệp trùng “Thất Sơn” hùng vĩ [50, tr.114 - tr.115]. Tuy nhiên, việc đối
chiếu tên núi xưa và nay khá phức tạp. Ngay trong các tài liệu xưa, lúc thì ghi tên
(2)

Theo Võ Thành Phương (1984), Những Trang Sử Về An Giang, Nxb Văn Nghệ An Giang, An Giang.

17


núi bằng chữ Hán, lúc thì ghi tên núi bằng chữ Nôm. Tên núi qua thời gian, cũng đã
thay đổi cùng với những đổi thay của lịch sử.
Sự đa dạng bề mặt địa hình với những đồi núi khá hiểm trở xen giữa vùng
đồng bằng phù sa phì nhiêu màu mỡ đã tạo nên nét đặc thù của vùng đất An Giang
như một vùng bán sơn địa với nhiều ưu thế trong thiết lập hệ thống phòng thủ, căn
cứ quân sự, củng cố biên giới quốc gia.
1.1.2.2 Sông, rạch, kênh đào
* Các con sông:
An Giang là tỉnh nằm đầu nguồn sông Cửu Long (phần Việt Nam), có các
sông lớn chảy qua, nhiều kênh rạch tạo thành một hệ thống giao thông thủy lợi
chằng chịt, từ những nhánh sông lớn nhiều kênh rạch đã được hình thành và nối liền
với nhánh sông chính, rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, thoát lũ mỗi khi mùa

lũ về, tạo thành những dòng chảy hiền hòa, mang lại nhiều nguồn lợi thủy sản cho
người dân và một cống hiến rất lớn của hệ thống sông ngòi, kênh, rạch là phục vụ
đắc lực cho nền sản xuất nông nghiệp của cư dân An Giang xưa và nay. Tương ứng
với ngày nay An Giang có 5 con sông:
Sông Tiền và Sông Hậu là hai nhánh sông lớn của hạ lưu sông Mê Kông
được phân lưu sau Phnôm Pênh. Sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng
chảy theo hướng nam qua các vùng đồi núi của tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua
Miến Điện và đi vào vùng trung hạ lưu qua các nước Lào, Thái Lan, Campuchia và
Việt Nam. Sông Mê Kông chảy vào lãnh thổ Việt Nam chia ra hai nhánh, nhánh
phía đông chảy qua lãnh thổ Campuchia rồi vào lãnh thổ Việt Nam gọi là sông
Tiền, nhánh phía Tây gọi là sông Hậu.
Sông Tiền chảy qua Tân Châu, Sa Đéc, Mỹ Thuận rồi đổ ra biển Đông bằng
sáu cửa; còn sông Hậu chảy qua Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ và đổ ra biển
Đông bằng 3 cửa là Định An, Bassac và Thanh Đề. Có lẽ, chính vì lý do đó mà
nhân dân ta gọi sông Mê Kông là sông Cửu Long.
Sông Tiền chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, qua các tỉnh An Giang
(đoạn qua An Giang dài khoảng 80km), Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà

18


Vinh và Bến Tre, rồi đổ ra Biển Đông theo 6 cửa là Cửa Tiểu, Cửa Đại, Ba Lai,
Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu. Gia Định thành thông chí chép: “Sông Tiền
(sông trước) ở phía tây trấn, nguồn sông nầy ở phía bắc từ Ai Lao xuống Cao Miên
đến Nam Vang, theo hướng đông chảy đến Cầu Nôm, Tân Châu qua sông Đại Tuần
trước trấn Vĩnh Thanh đến Ba Lai, Mỹ Tho rồi chảy về nam ra hai cửa biển Đại,
Tiểu, ấy là dòng chính của sông lớn ban đầu. Ở sông Đại Tuần chảy xuống bến bờ
chia ra 3 nhánh: một nhánh qua phía đông trấn làm sông lớn Long Hồ, xuống phía
nam ra cửa biển Cổ Chiên; một nhánh là sông lớn Hàm Luông, về phía nam đến
hai cửa biển Băng Côn và Ngao Châu; một nhánh qua sông dưới Ba Lai đến Tiên

Thủy, xuống phía nam ra cửa biển Ba Lai. Thế nước ôm quanh cồn nọ, dựa vào bãi
kia, có tới tám ngã ba sông, nhiều nhánh đan xuyên qua Hậu Giang, trông xuống
trấn Vĩnh Thanh như là một biển sao, các ngôi sao đan xen nhau” [5, tr.70]. Sông
Tiền, là ranh giới chung giữa hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp, có độ uốn khúc lớn,
được chia dòng rẽ nhánh ở nhiều vị trí bởi các cù lao Chính Sách, Cồn Cỏ, Cái
Vừng, Long Khánh, cù lao Tây, cù lao Ma và cù lao Giêng. Đối với An Giang, sông
Tiền là trục giao thông đường thuỷ quan trọng nhất, là nguồn cung cấp nước và phù
sa lớn nhất, đồng thời cũng là con sông có chế độ dòng chảy và diễn biến lòng sông
phức tạp nhất.
Sông Hậu, có hướng chảy song song với sông Tiền, đi qua các tỉnh An
Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, đổ ra
biển theo 3 cửa là Định An, Ba Thắc và Tranh Đề. Theo Gia Định thành thông chí
chép: “Hậu Giang (sông sau) ở phía tây nam trấn. Thượng lưu sông từ phía đông
thành Nam Vang (Cao Miên), chảy xuống Châu Đốc, qua Mạt Cần Đăng; đổ xuống
đồn Cường Oai ở Lấp Vò rồi qua đồn thủ Trấn Giang, đến đạo Trấn Di, ra cửa
biển Ba Thắc; nước dầm thấm khắp cả ruộng vườn, bao hàm cả cồn bãi bờ bến, là
nguồn thủy lợi rất lớn, lúa gạo cá tôm dùng ăn không hết.”[5, tr.71]. Cũng như sông
Tiền, sông Hậu đoạn chảy qua địa bàn An Giang dài gần 100km, có độ uốn khúc
lòng sông lớn, được phân dòng rẽ nhánh ở nhiều chỗ bởi các cù lao Vĩnh Trường,
Khánh Hòa, Bình Thủy, Bà Hòa, Mỹ Hòa Hưng, Phó Ba, Cồn Tiên. Đối với An

19


Giang, sông Hậu là trục giao thông đường thuỷ đi xuyên suốt trung tâm của tỉnh từ
thượng lưu về hạ lưu, là nguồn cung cấp nước và phù sa chủ yếu cho vùng Tứ Giác
Long Xuyên(3) hàng năm khi mùa lũ về [50,tr.121].
Sông Vàm Nao dài khoảng 7km, chảy ven thị trấn Phú Mỹ (huyện Phú Tân)
và xã Kiến An (Chợ Mới) ngày nay, nối liền sông Tiền và sông Hậu. Trong cuốn
địa chí “Tân Châu xưa”, có viết về Vàm Nao (4) như sau: “Đúng theo cổ sử thì sông

Vàm Nao xưa kia gọi “Hồi Oa thủy” (nước xoáy tròn). Sở dĩ hiện trạng nầy mà có,
thường khởi từ tháng 8 đến tháng 11 âm lịch, khi sông Cửu Long bắt đầu dâng lên,
nước cuồn cuộn chảy như thác lũ; những dòng nước xoáy to lớn nơi Vàm Nao ồ ạt
đảo lộn liên tục làm cho sự lưu thông trở nên khó khăn: người chưa từng kinh
nghiệm trên dòng nước xoáy nguy hiểm lắm lúc bị đắm thuyền.” [14, tr.149 -150].
Trải qua quá trình diễn biến đào xói để tự phát triển, ngày nay sông Vàm Nao nằm
gọn trong địa phận tỉnh An Giang, chảy theo hướng Đông bắc - Tây nam, có chiều
dài khoảng 6km, chiều rộng trung bình khoảng 700m với độ sâu trên 17m, có tác
dụng cân bằng dòng chảy giữa sông Tiền và sông Hậu [50, tr.122]. Chính những
diễn biến phức tạp của dòng chảy trên sông Vàm Nao đã tạo ưu thế rõ nét trong tác
chiến của thủy quân trong các thời kỳ giữ nước đã qua.
Sông Bình Di và sông Châu Đốc: Tại xã Khánh Bình, huyện An Phú ngày
nay, sông Hậu chia dòng, nhánh hữu ngạn hẹp có độ rộng khoảng ¼ dòng chính gọi
là sông Bình Di. Sau một đoạn dài trên 10km, sông Bình Di chảy đến Vĩnh Hội
Đông ngày nay thì gặp sông Tà Keo và sông Châu Đốc. Bắc đầu từ ngã ba sông
này, sông Châu Đốc chảy đến địa phận thành phố Châu Đốc ngày nay thì nhập lưu
trở lại sông Hậu, dài 18km [50, tr.122]. Đây là đặc điểm khá đặc biệt tạo ra sự đặc
trưng của hai con sông, rất thích hợp cho công tác bố trí, tập kích quân giặc khi mới
vừa vào lãnh thổ nước ta trên tuyến sông Hậu.
Hệ thống sông ngòi trên vùng đất An Giang với hai nhánh chính là Tiền
Giang và Hậu Giang đã trở thành những tuyến giao thông thủy lộ huyết mạch kết
(3)

Tứ giác Long Xuyên là khu vực thuộc địa bàn của bốn địa điểm Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá và Hà
Tiên.
(4)
Theo Võ Thành Phương, (2006), Tìm hiểu An Giang xưa: Vàm Nao là từ thuần Nôm. Vàm là Cửa sông.
Nao là nước chảy cuồn cuộn.

20



×