VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THU THỦY
THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
TỪ 1986 ĐẾN NAY DƢỚI GÓC NHÌN VĂN HÓA
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số
: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGÔ VĂN GIÁ
Hà Nội, 2017
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .....................................10
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước ...............................................10
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề liên quan đến đề tài ...............24
1.3. Xác định những vấn đề được nghiên cứu trong luận án ....................................25
Chƣơng 2: MỘT SỐ GIÁ TRỊ VĂN HÓA CƠ BẢN TRONG THƠ DÂN TỘC
THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY .........................27
2.1. Khu vực miền núi phía Bắc – đa dạng các vùng văn hóa ..................................27
2.2. Giá trị văn hóa và giá trị văn hóa trong văn học ................................................36
2.3. Những giá trị văn hóa cơ bản trong thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến
nay. ............................................................................................................................38
Chƣơng 3: MỘT SỐ BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA NỔI BẬT TRONG THƠ DÂN
TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI PHÍA BẮC TỪ 1986 ĐẾN NAY ..........................69
3.1. Biểu tượng văn hóa và biểu tượng văn học........................................................69
3.2. Biểu tượng thuộc về môi trường tự nhiên ..........................................................75
3.3. Biểu tượng thuộc về con người và môi trường xã hội .......................................96
Chƣơng 4: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ DÂN TỘC THIỂU SỐ
MIỀN NÚI PHÍA BẮC TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY DƢỚI GÓC NHÌN VĂN
HÓA ........................................................................................................................111
4.1. Vấn đề ngôn ngữ trong sáng tác của thơ DTTS khu vực miền núi phía Bắc từ
năm 1986 đến nay dưới góc nhìn văn hóa ..............................................................111
4.2. Lớp ngôn từ nghệ thuật ....................................................................................114
4.3. Khai thác văn liệu, thi liệu văn học, văn hóa dân gian ....................................125
4.4. Các phép chuyển nghĩa ....................................................................................133
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN ...............................................................................................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................152
PHỤ LỤC ..............................................................................................................159
iii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Từ năm 1986 đến nay, cùng với sự đổi mới của đất nước là sự đổi mới mạnh
mẽ của văn học, trong đó có văn học dân tộc thiểu số (DTTS). Thơ DTTS từ sau
1945 đến 1986 tuy có một số thành tựu nhất định, nhưng ít có những cá tính sáng
tạo thực sự độc đáo. Lý do chủ yếu là trong khung cảnh chung của nền văn học hiện
thực xã hội chủ nghĩa, các nhà thơ DTTS quá đề cao nhiệm vụ tuyên truyền đường
lối cách mạng, bám sát các phong trào chính trị của đất nước, nhất là do mục đích
hướng tới đồng bào DTTS, thơ nghiêng về tính chất minh họa, theo đó bản sắc văn
hóa dân tộc cũng không có điều kiện kết tinh. Từ sau 1986 trở đi, thơ DTTS đã
chuyển biến đáng ghi nhận: từ thơ nghiêng về mục đích tuyên truyền, nghiêng về sử
thi, phục vụ chính trị chuyển sang mục đích hướng về đời tư, nhân văn. Theo đó,
thơ giai đoạn này có điều kiện để kết tinh văn hóa tộc người một cách đặc sắc. Thơ
DTTS thực sự có nhiều thành tựu đáng kể với những tác giả có cá tính và phong
cách riêng.
Địa bàn miền núi phía Bắc Việt Nam là một trong những khu vực xuất hiện
nhiều nhà thơ DTTS nổi tiếng với nhiều thế hệ thuộc nhiều dân tộc. Ở đây, văn học
DTTS được phát triển liền mạch, xuyên suốt, vừa hòa nhập vào nền thơ chung của
dân tộc, vừa khẳng định thành tựu và bản sắc độc đáo của mình. Đặc biệt, từ 1986
trở đi, các nhà thơ của nhiều dân tộc khác nhau thuộc khu vực này đã thành công
thực sự, có cá tính sáng tạo và giàu bản sắc văn hóa dân tộc, làm giàu cho thơ Việt
Nam như Lò Ngân Sủn, Pờ Sảo Mìn, Mai Liễu, Y Phương, Dương Thuấn...
Mang tính đặc thù của không gian văn hóa khu vực, thơ DTTS miền núi phía
Bắc từ 1986 đến nay vừa mang những đặc điểm của nền thơ Việt Nam hiện đại nói
chung vừa mang những nét riêng độc đáo của chính mình, lại vừa có tính khu biệt
với các khu vực thơ DTTS khác trong đất nước. Với nhiều dân tộc anh em cùng
sinh sống trong một không gian văn hoá đa dạng và độc đáo, miền núi phía Bắc
Việt Nam là một trong những khu vực xuất hiện những gương mặt thơ đặc sắc là
1
người DTTS, góp phần làm phong phú thêm nền văn học nước nhà. Trên nền tảng
văn hóa khu vực và văn hóa tộc người cụ thể, các nhà thơ đã lựa chọn và kết tinh
các yếu tố văn hóa độc đáo trong thơ.
Nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là một trong những hướng tiếp cận
văn học được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và ở nước ta chú ý, có nhiều triển
vọng trong khoa nghiên cứu văn học hiện nay. Dấu ấn văn hóa trong các tác phẩm
vừa thể hiện sự chắt lọc, kế thừa tinh hoa nền văn hóa cội nguồn dân tộc vừa thể
hiện sự tiếp thu thành tựu văn hóa nhân loại, tạo nên những giá trị văn học vừa có
tính phổ quát vừa mang tính độc đáo, riêng biệt.
1.2. Việc nghiên cứu thơ DTTS miền núi phía Bắc Việt Nam từ 1986 đến nay dưới
góc nhìn văn hóa là một hướng nghiên cứu mới đối với bộ phận văn học này.
Nghiên cứu thơ DTTS dưới góc nhìn văn hóa là đi từ góc độ văn hóa để quan sát và
lý giải chúng. Đó là việc khám phá, phân tích quá trình lựa chọn, biểu đạt và kết
tinh văn hóa tộc người trong thơ, từ đó khẳng định giá trị độc đáo của thơ DTTS
miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay.
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu và luận án
tiến sĩ tập trung nghiên cứu văn học DTTS như tác giả Lâm Tiến, Trần Thị Việt
Trung, Cao Thị Hảo, Đỗ Thị Thu Huyền, Nguyễn Kiến Thọ…Tuy nhiên, các công
trình nghiên cứu và luận án tiến sĩ này thường tập trung vào quá trình phát triển và
diện mạo của văn học DTTS từ 1945 đến nay. Do khảo sát văn học DTTS với mục
đích chỉ ra sự phát triển, các đặc điểm về nội dung và nghệ thuật nên các nhà nghiên
cứu cũng ít nhiều đề cập đến vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc nhưng chưa cụ thể và
hệ thống. Nói về văn học DTTS, các công trình nghiên cứu đều khẳng định một
trong những thành tựu nổi bật là sự giàu có và phong phú về bản sắc văn hóa dân
tộc. Dù đã ít nhiều đề cập đến nhưng tình hình nghiên cứu bộ phận văn học này còn
bỏ ngỏ nhiều vấn đề: thứ nhất, việc khảo sát quá rộng nên còn chung chung, chưa
chỉ ra những kết tinh văn hóa độc đáo khác biệt của mỗi một tộc người trong không
gian thơ cụ thể; thứ hai, đi sâu vào một vài tác phẩm đơn lẻ nên chưa chỉ ra được cơ
chế lựa chọn và kết tinh văn hóa trong thơ một cách hệ thống. Để bổ khuyết cho
2
tình trạng trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống bộ phận thơ này
nhằm mục đích khám phá và khẳng định những kết tinh văn hóa đặc sắc của thơ
DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay.
1.3. Hướng nghiên cứu thơ DTTS dưới góc nhìn văn hóa tỏ ra đặc biệt phù hợp bởi
vì bộ phận văn học này vốn giàu bản sắc văn hóa tộc người, đặc biệt từ sau 1986
với nhiều thành tựu nổi trội. Hơn nữa, nghiên cứu thơ DTTS miền núi ở một không
gian văn hóa cụ thể (phía Bắc Việt Nam) sẽ giúp việc tìm hiểu thơ dưới góc nhìn từ
những yếu tố địa - văn hóa vừa đa dạng vừa thống nhất của khu vực này, góp phần
bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Thực hiện đề tài này, chúng tôi hướng tới việc xem xét thơ DTTS miền núi
phía Bắc từ 1986 đến nay dưới góc nhìn văn hóa với những mục đích và nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
Thứ nhất, phân tích trên phương diện lý thuyết mối quan hệ giữa văn hóa và
văn học để từ đó đi sâu vào tìm hiểu cội nguồn văn hóa các tộc người chi phối, tác
động đến việc lựa chọn và sáng tạo trong thơ của các nhà thơ DTTS khu vực này từ
năm 1986 đến nay.
Thứ hai, nhận diện và phân tích những kết tinh văn hóa trong thơ DTTS miền
núi phía Bắc Việt Nam từ 1986 đến nay để chỉ ra tính đa dạng cũng như tính thống
nhất của các nhà thơ thuộc các tộc người khác nhau, chỉ ra sự kế thừa và phát triển
những yếu tố văn hóa tạo thành giá trị riêng biệt cho bộ phận thơ này.
Thứ ba, luận án không dừng lại ở việc miêu tả các biểu hiện văn hóa mà cố
gắng đi từ văn hóa tộc người để cắt nghĩa cơ chế tạo sinh những biểu hiện văn hóa
trong thơ tức là trả lời cho câu hỏi tại sao chứ không phải câu hỏi biểu hiện như
thế nào.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thơ DTTS miền núi phía bắc từ 1986 đến
nay dưới góc nhìn văn hóa, nghĩa là lấy trục văn hóa làm điểm quy chiếu. Vì vậy,
luận án sẽ đi trả lời mấy câu hỏi chính: 1, Nghiên cứu văn học nói chung và thơ nói
3
riêng dưới góc nhìn văn hóa là gì? 2, Từ đó, lựa chọn những phương diện nào của
thơ DTTS miền núi phía bắc sau 1986 để nghiên cứu? 3, Từ đây chỉ ra những khác
biệt độc đáo của thơ DTTS miền núi phía Bắc so với nền thơ đương đại từ sau 1986
mà nó thuộc về, cũng như những khác biệt có thể giữa thơ của các nhà thơ thuộc về
mỗi nền văn hóa tộc người khác nhau.
Do xác định đối tượng nghiên cứu như vậy, nên phạm vi nghiên cứu chỉ bao
gồm: Thơ của các nhà thơ DTTS tại khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam được
sáng tác trong khoảng thời gian từ 1986 đến nay và xem xét dưới góc nhìn văn hóa
trên các phương diện: giá trị, biểu tượng, các phương thức biểu hiện qua ngôn ngữ.
Cũng như vậy, phạm vi khảo sát của luận án bao gồm: Một số gương mặt tiêu
biểu thuộc các nhà thơ DTTS. Đối với một số nhà thơ thuộc tộc người khác hoặc do
tác phẩm chưa thể hiện rõ văn hóa tộc người hoặc thành tựu mới chỉ ở rải rác một số
câu thơ, bài thơ đơn lẻ trong mối liên hệ với văn hóa tộc người mà họ thuộc về,
chúng tôi cũng đưa vào diện khảo sát khi thấy cần thiết để làm nổi rõ tính thống
nhất cũng như tính đa dạng của thơ DTTS khu vực này.
Luận án đi vào khảo sát các phẩm thơ của các nhà thơ sau:
(1) Nhóm các nhà thơ dân tộc Tày: Y Phƣơng với các tập thơ: Tiếng hát tháng
giêng (Nxb Sở Văn hóa thông tin tỉnh Cao Bằng, 1986), Lửa hồng một góc (Nxb
Văn hóa dân tộc, 1987), Lời chúc (Nxb Văn hóa dân tộc, 1991), Đàn then (Nxb Hội
nhà văn, 1996), Chín tháng (Nxb Hội nhà văn, 2000), Thơ Y Phƣơng (Nxb Hội nhà
văn, 2002), Thất tàng lồm – Ngƣợc gió (Nxb Văn hóa dân tộc, 2006), Đò trăng
(Nxb Hội nhà văn, 2009); Dƣơng Thuấn với các tập thơ: Cƣỡi ngựa đi săn (Nxb
Văn hóa dân tộc, 1991), 17 khúc đảo ca (Nxb Quân đội nhân nhân, 2000), Đi tìm
bóng núi (Nxb Văn học, 1993), Đi ngƣợc mặt trời (Nxb Văn học, 1995), Bài học
mùa hè (Nxb Kim Đồng, 1996), Bà lão và chích chòe (Nxb Kim Đồng, 1997), Slip
nhỉ tua khoăn – Mƣời hai con vía (Nxb Văn hóa dân tộc, 2002), Đêm bên sông yên
lặng (Nxb Hội nhà văn, 2004), Chia trứng công (Nxb Hội nhà văn, 2006), Lính
Trƣờng Sa thích đùa (Nxb Quân đội nhân nhân, 2006), Soi vào bóng tôi (Nxb Hội
nhà văn, 2009), Thơ Dƣơng Thuấn, Tập I (Nxb Hội nhà văn, 2010), Thơ Dƣơng
4
Thuấn, Tập II (Nxb Hội nhà văn, 2010), Thơ Dƣơng Thuấn, Tập III (Nxb Hội nhà
văn, 2010); Mai Liễu với các tập thơ: Suối làng (NXB Văn hóa dân tộc, 1994),
Mây vẫn bay về núi (NXB Văn hóa dân tộc, 1995), Lời then ai buộc (NXB Văn hóa
dân tộc, 1996), Tìm tuổi (NXB Văn hóa dân tộc, 1998), Giấc mơ của núi (NXB Văn
hóa dân tộc, 2001), Đầu nguồn mây trắng (NXB Hội nhà văn, 2004), Bếp lửa nhà
sàn (NXB Văn hóa dân tộc, 2009), Hoàng Chiến Thắng với tập thơ Gọi ngày
xuống núi (Nxb. Hội nhà văn, 2008).
(2) Nhóm các nhà thơ dân tộc Thái: Lò Cao Nhum với các tập thơ: Giọt sao
trở về (Hội VHNT Hòa Bình, 1995), Rƣợu núi (NXB Văn hóa dân tộc, 1996), Soi
gƣơng núi (Nxb Sở Văn hóa thông tin Hòa Bình, 1997), Sàn trăng ( Nxb Hội
VHNT Hòa Bình, 2000), Theo lời hát về nguồn (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2001), Gốc
trời (Nxb Hội nhà văn, 2009), Rƣợu núi - Thơ chọn lọc (Nxb Văn học, 2010); Lò
Vũ Vân với các tập thơ: Tiếng sấm vào mùa, (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1998), Nhặt
hoa trăng (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2000); Tòng Văn Hân với tập thơ Huyền thoại U
Va (NXB Văn hóa dân tộc, 2007).
(3) Nhóm nhà thơ dân tộc Giáy: Lò Văn Chiến với các tác phẩm: Xuân biên
cƣơng (NXB Văn hóa dân tộc, 1999), Đƣờng về bản (NXB Văn hóa dân tộc, 2000);
Lò Ngân Sủn với các tập thơ: Đám cƣới (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1992), Đƣờng dốc
(Nxb. Văn hóa dân tộc, 1993), Dòng sông Mây (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1994), Chợ
tình (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1995), Những ngƣời con của núi, Tập I,(Nxb Hội nhà
văn, 1996), Những ngƣời con của núi Tập II, (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1997), Đầu
nguồn cuối nƣớc (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1997), Ngƣời đẹp (Nxb. Văn hóa dân tộc,
1999), Ngƣời trên đá (Nxb. Văn hóa dân tộc, 2000), Nơi mặt trăng mặt trời gặp
nhau ( Nxb. Văn hóa dân tộc, 2003), Bữa tình yêu (Nxb. Hội nhà văn, 2005).
(4) Nhóm nhà thơ dân tộc Mường: Bùi Thị Tuyết Mai với các tập thơ: Mƣa
trong nhà (Nxb. Văn hóa dân tộc, 1998), Trầu đỏ môi ai (Nxb Văn hóa dân tộc,
1999). Nơi cất rƣợu (Nxb. Văn học, 2003), Mƣờng trong (Nxb Hội nhà văn, 2006),
Binh bong (Nxb. Lao động, 2008), Nhiều tác giả với tập thơ: Những chiếc lá Chu
đồng– thơ Mƣờng đƣơng đại (Vương Anh tuyển chọn, Nxb Văn hóa dân tộc, 2007).
5
(5) Nhóm các nhà thơ thuộc tộc người khác: Pờ Sảo Mìn (dân tộc Pa dí): Cây
hai ngàn lá (NXB Văn hóa dân tộc, 1991), Bài ca hoang dã (NXB Văn hóa dân tộc,
1995), Con trai ngƣời Pa dí (NXB Văn học, 2001), Cung đàn biên giới (NXB Hội
nhà văn Hội VHNT Lào Cai, 2002), Mắt rừng xanh (NXB Văn hóa dân tộc, 2005)
Bài ca đẹp nhất trần gian (NXB Hội nhà văn, 2008); Chu Thùy Liên (dân tộc Hà
Nhì): Lửa sàn hoa (NXB Văn hóa dân tộc, 2003), Thuyền đuôi én (NXB Văn hóa
dân tộc, 2009), Mã A Lềnh (dân tộc H‟Mông), Bên suối Nậm Mơ (NXB Văn hóa
dân tộc, 1995), Lâm Quý (dân tộc Cao Lan), Tuyển tập thơ (NXB Hội nhà văn,
2012)…
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án: Phương pháp nghiên cứu văn học
dưới góc nhìn văn hoá (một số nhà nghiên cứu còn gọi là phương pháp văn hoá học
văn học): là phương pháp chính được thực hiện xuyên suốt trong quá trình nghiên
cứu. Luận án quán triệt hai điểm có tính nguyên tắc:
1) Thơ DTTS mang đặc điểm chung của nền văn hóa Việt Nam: thống nhất
trong đa dạng và đa dạng mà thống nhất. Thơ DTTS là một bộ phận thơ đặc biệt
trong nền thơ Việt Nam. Những tác phẩm thơ do chính những nhà thơ là người
DTTS sáng tác nên đậm đà bản sắc tộc người, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn
hoá Việt Nam. Trong quá trình triển khai ở từng luận điểm, luận án chú ý tới nét
riêng đặc sắc ở mỗi bộ phận thơ của nhóm các nhà thơ thuộc về mỗi dân tộc khác
nhau: bản sắc Tày, bản sắc Thái, bản sắc Giáy, bản sắc Mường...trong tính thống
nhất của văn hóa Việt Nam.
2) Khi nghiên cứu thơ khu vực này dưới góc nhìn văn hóa, mục đích không
chỉ dừng lại ở việc chỉ ra những biểu hiện của nó, mà cần phải chỉ ra cơ chế tạo sinh
nên những biểu hiện văn hóa đặc sắc đó. Vì thế, luận án tập trung nghiên cứu ba
biểu hiện chính: Những giá trị văn hóa, những biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ
nghệ thuật được lựa chọn và kết tinh trong thơ DTTS khu vực miền núi phía Bắc
Việt Nam từ 1986 đến nay.
Phương pháp nghiên cứu của luận án gồm các phương pháp sau:
6
- Phương pháp hệ thống: Thơ DTTS Việt Nam kể từ 1986 đến nay là một bộ
phận không thể tách rời với nền thơ Việt Nam, nhưng tự nó là một chỉnh thể với
những đặc điểm riêng và độc đáo. Vì thế, tôi sử dụng phương pháp này để chỉ ra
tính hệ thống của bộ phận thơ này trong mối liên hệ của nó đối với nền thơ dân tộc.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này được sử dụng qua cả chiều đồng đại
và lịch đại. Về chiều đồng đại, đây là phương pháp quan trọng vì nghiên cứu văn
học dưới góc nhìn văn hóa cần phải kết nối những biểu hiện văn hóa thông qua hệ
thống giá trị, hệ thống biểu tượng và hệ thống ngôn ngữ nhằm chỉ ra sự độc đáo so
với thơ dân tộc Kinh, so với thơ của các nhà thơ DTTS ở khu vực khác và đặc biệt
chính giữa các nhà thơ thuộc các tộc người khác nhau của cùng thời kỳ của khu vực
này. Về chiều lịch đại, thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay phát triển trên
nền tảng vững chắc của văn hóa và văn học dân gian, văn học viết của khu vực này
trước năm 1986. Từ đó có sự so sánh, đối chiếu khi nghiên cứu thơ DTTS khu vực
miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay để tìm ra sự kế thừa và phát triển tinh hoa văn
hóa theo hướng truyền thống và hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu tiếp cận thi pháp học: Thi pháp học giúp luận án cắt
nghĩa được cái lý trong hình thức nghệ thuật thơ.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Ngoài những phương pháp nêu trên,
luận án còn sử dụng một số phương pháp như phân tâm học, dân tộc học, nhân học
văn hóa. Phân tâm học giúp luận án đi sâu tìm hiểu phương diện vô thức cộng đồng
chi phối đến quá trình tạo sinh các giá trị, biểu tượng văn hóa và ngôn ngữ nghệ
thuật trong thơ. Dân tộc học, nhân học văn hóa giúp luận án đi từ sự độc đáo, khác
biệt văn hóa từng tộc người để lý giải sự phong phú, đa dạng của bộ phận thơ này.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu thơ DTTS miền núi phía Bắc từ
1986 đến nay dưới góc nhìn văn hóa. Do đó, luận án đã đóng góp một hướng nghiên
cứu mới về bộ phận thơ này. Cùng với các hướng tiếp cận khác, công trình này
nhằm khẳng định những giá trị riêng của thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến
nay trong bức tranh tổng thể của nền văn học Việt Nam hiện đại.
7
Nghiên cứu thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay dưới góc nhìn văn
hóa cũng có nghĩa là lần đầu tiên, luận án đi vào cắt nghĩa, lý giải cơ chế tạo sinh vẻ
đẹp khác biệt, độc đáo nhờ cảm quan văn hóa tộc người được các nhà thơ “tái sinh”
trong những sáng tạo nghệ thuật của mình.
Lần đầu tiên, đi từ cội nguồn văn hóa, từ chiều sâu tâm thức tộc người, chúng
tôi chỉ ra tính khác biệt, sự đa dạng và đặc sắc của thơ DTTS miền núi phía Bắc từ
1986 đến nay trên bình diện các giá trị văn hóa kết tinh trong các tác phẩm. Trên
nền tảng những giá trị văn hóa chung, mỗi nhà thơ thuộc tộc người khác nhau đã
đem đến trong sáng tác của họ những quan niệm, cách thức lựa chọn, lối ứng xử
khác nhau mang dấu ấn của văn hóa tộc người,
Hệ thống các biểu tượng văn hóa lần đầu tiên được nghiên cứu dưới ánh sáng
của văn hóa tộc người. Từ môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội, mỗi dân
tộc trên vùng núi cao phía Bắc của Tổ Quốc hình thành những biểu tượng văn hóa
độc đáo. Những biểu tượng này đã đi vào thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 nhờ
sự kết tinh văn hóa và sức sáng tạo không ngừng của các nhà thơ hiện đại.
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đã có
khá nhiều công trình đề cập tới nhưng nhìn nhận vấn đề này từ góc nhìn văn hóa thì
đây là công trình đầu tiên. Các khuynh hướng xử lý ngôn ngữ, cách thức sử dụng
hiệu quả lối diễn đạt mang văn hóa tộc người chính là một trong những thành công
của bộ phận thơ này trong quá trình “truyền thống - hiện đại, dân tộc - quốc tế”.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án góp phần vào khuynh hướng nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn
hóa, góp phần vào nghiên cứu thơ DTTS khu vực miền núi phía Bắc từ 1986 đến
nay trên cơ sở những tác động, ảnh hưởng của văn hóa tộc người.
Thơ DTTS hiện đại là một bộ phận của văn học Việt Nam đang trên con
đường nỗ lực tự đổi mới và sáng tạo trong hoàn cảnh thời đại hội nhập văn hóa
mang tính toàn cầu, vì thế nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào việc bảo tồn và
phát triển những tinh hoa văn hóa tộc người của đồng bào dân tộc thiểu số đồng thời
8
cũng khẳng định hướng đi của văn học DTTS bước ra thế giới rộng lớn trên nền
tảng vững chắc của văn hóa.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận
án được sắp xếp thành bốn chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Một số giá trị văn hóa cơ bản trong thơ DTTS miền núi phía Bắc từ
1986 đến nay
Chương 3: Một số biểu tượng văn hóa nổi bật trong thơ DTTS miền núi phía
Bắc từ 1986 đến nay
Chương 4: Ngôn từ nghệ thuật trong thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến
nay dưới góc nhìn văn hóa.
9
Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc và ngoài nƣớc
1.1.1. Những công trình nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa
Văn hóa đi vào tác phẩm văn học trước hết thông qua chủ thể sáng tạo (nhà
văn, nhà thơ) sau đó nhận được sự cộng cảm của bạn đọc trong quá trình tiếp nhận.
Nhà văn bao giờ cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa truyền thống và văn hóa thời đại.
Để có cơ sở khẳng định nội dung trên, khoa học nghiên cứu văn học trên thế giới đã
vào cuộc với sự xuất hiện của trường phái Văn hóa - lịch sử và triết học thực
chứng do nhà triết học, nhà phê bình văn học Pháp H. Taine đứng đầu vào thế kỷ
XIX. H. Taine giải thích động lực xuất hiện của văn học từ 3 yếu tố: chủng tộc tức
gien của tộc người, môi trường địa lý và xã hội, thời điểm tức là sự tiến hóa của lịch
sử. Quan điểm của Taine đã chỉ ra vai trò của chủ thể sáng tạo (tác giả) với những
đặc điểm hình thành bởi các yếu tố có tính quy định là tố chất bên trong mỗi tộc
người mà ông gọi là “cấu trúc tinh thần của một chủng tộc”. Nó chứa đựng đặc tính
di truyền mang tính sinh học. Nguyên nhân hình thành đặc tính di truyền của tộc
người là điều kiện môi trường tức là những tác động ngoại cảnh, là hoàn cảnh địa
lý, chính trị, tôn giáo và xã hội. Về thời điểm, ông giải thích quá trình kế thừa và
sáng tạo của văn học “đặc điểm dân tộc và hoàn cảnh bên ngoài đặt dấu ấn không
phải lên “nền trắng” mà lên một bề mặt đã có hình, tùy từng thời điểm khác nhau
mà bức tranh này khác nhau, vì vậy chúng có kết quả khác nhau” [78;tr.102].
Trường phái Văn hóa - lịch sử và triết học thực chứng đã cắt đứt tính quy phạm và
tính phi lịch sử khi xem xét bản chất tâm lí tác giả của trường phái Phương pháp
tiểu sử trước đó nhưng vẫn chưa thoát khỏi việc tìm hiểu văn chương không phải từ
bản thân văn chương (tác phẩm) mà là từ “đối tượng in dấu vào văn chương, tức là
văn hóa lịch sử” như nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã đánh giá. Tuy nhiên,
không thể phủ định thành tựu của trường phái nghiên cứu văn học này là đã chỉ ra
mối quan hệ văn học và văn hóa qua chủ thể sáng tạo văn học (tác giả). Một nhà
10
văn, nhà thơ đương nhiên thuộc về một dân tộc nào đó chịu ảnh hưởng văn hóa, lịch
sử của dân tộc mình để rồi những ảnh hưởng đó được phản chiếu vào trong tác
phẩm văn học bằng con đường kế thừa, kết tinh và sáng tạo.
Ngôn ngữ là một dạng của ký hiệu văn hóa. Vì thế, triết gia lớn người Đức thế
kỷ XX, E. Cassirer đã xây dựng và phát triển một lý thuyết quan trọng trong nghiên
cứu văn học được gọi là ký hiệu học văn hóa. Trên bình diện văn hóa tinh thần (tôn
giáo, nghệ thuật, tâm lý…) dù khác biệt nhau nhưng vẫn có một điểm chung là tư
duy ký hiệu. E. Cassirer cho rằng ký hiệu chỉ có ở con người. Ký hiệu giúp con
người sáng tạo ra thế giới thứ hai, nhờ sáng tạo ra ký hiệu, con người khác biệt với
thế giới động vật: “Tư duy và hành vi ký hiệu hóa là đặc trưng tiêu biểu nhất của
đời sống nhân loại và toàn bộ văn hóa nhân loại phát triển đều dựa vào những điều
kiện này. Chúng ta nên định nghĩa con người là động vật ký hiệu…Chỉ có thế,
chúng ta mới có thể vạch ra chỗ độc đáo của con người, mới có thể lý giải được con
đường mới khai phóng con người – con đường hướng về văn hóa” [36;tr.148]. Trên
quan điểm về hệ thống triết học văn hóa, ông đã nghiên cứu thần thoại và nghệ
thuật với tư cách là hệ thống ký hiệu văn hóa. Như vậy, Cassirer đã chỉ ra hướng
nghiên cứu văn học từ những biểu tượng văn hóa.
Như vậy, biểu tượng đóng một vai trò rất quan trọng trong văn hóa.Vấn đề đặt
ra là các nhà văn đã lựa chọn, kết tinh và sáng tạo trong văn học từ thế giới biểu
tượng trong văn hóa như thế nào? Để trả lời câu hỏi này, có thể tìm đến trường phái
phân tâm học, nơi nghiên cứu các nguyên lý về tâm lý sáng tạo nghệ thuật. Cha đẻ
của phân tâm học Sigmund Freud là người có công lớn trong việc hình thành lí
thuyết về vô thức cá nhân với những ham muốn bị bỏ quên, dồn nén. Theo quan
điểm của Freud thì sáng tạo nghệ thuật là sự thăng hoa cái vô thức cá nhân bị dồn
nén, cụ thể là sự thăng hoa của bản năng tính dục trong vô thức. Vừa kế thừa vừa
phê phán lí thuyết của Freud - người thầy của mình, Card Gustav Jung đã sáng lập
ra tâm lí học phân tích với một phát hiện rất có giá trị là lí thuyết về vô thức tập thể.
Ông đã vẽ ra sơ đồ về con đường di truyền văn hóa trong nghệ thuật: vô thức tập thể
là tài sản chung của nhân loại, được cấu trúc hóa thành các archétype (được dịch
11
thành siêu mẫu, cổ mẫu hay mẫu gốc) là những đồ hình vĩnh cửu của kinh nghiệm
loài người được thể hiện bằng những hình ảnh tượng trưng tập thể. Sự xuất hiện trở
đi trở lại của chúng khiến văn hóa được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Ông
chia văn học nghệ thuật thành hai loại: Loại hình tâm lí (viết về những bài học cuộc
đời, những số phận con người với niềm vui, nỗi buồn…con người ý thức được hoặc
có cái phi lí cũng giải thích được) và loại hình ảo giác (được khơi nguồn từ vô thức
tập thể có nguồn gốc sâu xa từ thời tiền sử). Ông đánh giá cao loại thứ hai vì cho
rằng tác phẩm sáng tác từ ý thức hay vô thức cá nhân vẫn là vấn đề trong phạm vi
hẹp của cá nhân chứ chưa vươn ra tầm nhân loại. Ông thâu tóm quan điểm của mình
trong bài báo cáo tại cuộc họp của Hội ngôn ngữ và văn học Đức (tháng 2 năm
1922). Trong đó, ông đã bàn luận về biểu tượng ngầm của nghệ thuật. Nói đến nghệ
thuật là nói đến hình tượng nhưng hình tượng chỉ “có thể phân tích được chừng nào
chúng ta có khả năng nhận biết biểu tượng của nó” [72;tr.68]. Muốn nhận biết nó
phải hiểu con đường hình thành biểu tượng, Jung cho rằng, trong mỗi con người đều
tồn tại vô thức tập thể được kế thừa từ thời xa xưa dưới một dạng thức nhất định của
những hình ảnh được ghi nhớ. Siêu mẫu (cổ mẫu, mẫu gốc) được sử dụng lặp lại
trong suốt chiều dài lịch sử ở bất kì nơi đâu có trí tưởng tượng sáng tạo tự do hoạt
động. Do đó, quá trình sáng tạo nghệ thuật là phải “hà hơi sống cho siêu mẫu từ
trong vô thức, là trải nó ra và tạo hình nó cho đến khi thành một tác phẩm nghệ
thuật hoàn chỉnh” [72;tr.72]. Không chỉ có vô thức cá nhân tham gia vào quá trình
sáng tạo mà phải có vô thức tập thể “một cá nhân riêng rẽ không thể phát huy được
hết sức mạnh tập thể, nếu một trong các biểu tượng tập thể, những cái được gọi là lí
tưởng, không hiện ra giúp nó và không tháo cởi những sức mạnh bản năng của nó”
[72;tr.72]. Vén lên bức màn bí ẩn của tâm lý sáng tạo nghệ thuật, Jung đã thuyết
phục bằng những lập luận rất logic về vai trò của cổ mẫu trong sáng tạo nghệ thuật.
Giữa thế kỷ XX, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng người Nga M. Bakhtin đã
cho ra đời công trình nghiên cứu quan trọng Sáng tác của Francois Rabelais và nền
văn hóa dân gian Trung đại và Phục hƣng (1960). Trong đó, ông đã đi từ nghiên
cứu đặc điểm, tính chất của các lễ hội hóa trang (các – na – van) để nghiên cứu văn
12
học. Nguyên lý lễ hội hóa trang với tính chất “đảo ngược” đã trở thành nguyên lý
nghiên cứu văn học từ góc độ văn hóa đối với dòng văn học phi chính thống thời kỳ
Phục hưng ở châu Âu. Những biểu tượng của lễ hội hóa trang được xem là một
trong những cơ sở để giải thích các biểu tượng trong văn học.
Tại châu Á, hướng nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa cũng được các nhà
nghiên cứu văn học quan tâm. Ở Trung Quốc, nghiên cứu văn hóa dưới góc nhìn
văn học thời kỳ hiện đại được phát triển theo 3 khuynh hướng: Khuynh hướng
nghiên cứu thi pháp văn hóa, khuynh hướng nghiên cứu mối quan hệ văn học với
các truyền thống văn hóa như văn học với Nho học, Đạo học, Phật học, văn hóa với
thơ ca, văn hóa với tiểu thuyết…và khuynh hướng nghiên cứu văn học đại chúng
xem xét nhiều hiện tượng văn học như Quỳnh Dao, Kim Dung…
Ở Việt Nam, những năm đầu thế kỷ XX, có nhiều nhà nghiên cứu văn học đã
xem xét mối quan hệ giữa văn hóa - văn học như Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai,
Cao Huy Đỉnh, Hoài Thanh, Nguyễn Văn Huyên…Trong cuốn phê bình văn học
nổi tiếng Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân đã giải thích sự ra đời tất
yếu của Thơ mới dựa trên sự thay đổi về văn hóa – xã hội. Một thời đại trong thi ca
có tính chất như một bài mở đầu về quá trình hình thành và phát triển của Thơ mới.
Hai ông không đi vào cắt nghĩa, lý giải những vấn đề của Thơ mới dưới góc nhìn
văn hóa nhưng cũng đã gợi ra nhiều vấn đề về những ảnh hưởng của văn hóa truyền
thống và văn hóa phương Tây đối với sáng tác của các nhà Thơ mới.
Giai đoạn những năm 80 của thế kỷ XX trở đi, nhiều công trình nghiên cứu
văn học dưới góc nhìn văn hóa xuất hiện. Có thể kể đến những công trình như Nho
giáo và văn học Việt Nam trung cận đại của Trần Đình Hượu, Nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam của Trần Ngọc Vương, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du qua Truyện
Kiều của Phan Ngọc, Xác lập phƣơng pháp tiếp cận văn hóa cho việc nghiên cứu và
giảng dạy văn học Việt Nam trung cận đại trên cơ sở phân tích “Truyện Kiều” của
Trần Nho Thìn …
Trong các công trình kể trên, đáng chú ý là cuốn Văn học trung đại Việt Nam
dƣới góc nhìn văn hóa của Trần Nho Thìn. Trong công trình này, ông đã chỉ rõ
13
phương pháp nghiên cứu của mình là chọn góc độ văn hóa để quan sát và giải thích
các hiện tượng văn học. Lý do để tác giả lựa chọn phương pháp này là sau nhiều
năm nghiên cứu và giảng dạy, ông nhận thấy đôi khi bắt gặp những cách giải thích
hiện đại hóa nền văn học quá khứ, những cách cắt nghĩa văn học bằng cách nhìn của
thế giới hiện đại nên mang tính chất suy diễn, ít phù hợp với sự thực. Vì thế, nghiên
cứu văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa chính là một giải pháp để
giảm thiểu khả năng suy diễn, hiện đại hóa văn học trung đại với mục đích tiếp cận
đến gần sự thật lịch sử văn học [69]. Điều đáng lưu ý là sử dụng phương pháp
nghiên cứu này, Trần Nho Thìn lấy cơ sở là nhà nho – nhân vật văn hóa để đưa ra
nhiều kiến giải mới mẻ về phân kỳ trong tiến trình lịch sử văn học trung đại Việt
Nam, những vấn đề về văn chương nhà nho như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến...và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều. Ông cho rằng vấn đề nghiên
cứu văn học từ góc độ văn hóa không chỉ hữu ích đối với văn học trung đại – nền
văn học đã thuộc về quá khứ mà còn phù hợp với cả văn học hiện đại. Trần Nho
Thìn cũng nhấn mạnh là mỗi phương pháp đều có mặt mạnh cũng như hạn chế,
phương pháp nghiên cứu tiếp cận văn học dưới góc nhìn văn hóa cần được xem như
sự bổ sung cần thiết cho các phương pháp khác.
Hồ Xuân Hƣơng, hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thúy là một công trình
nghiên cứu đi từ tín ngưỡng phồn thực của văn hóa cổ truyền Việt Nam để cắt nghĩa
hiện tượng văn học vốn có nhiều quan điểm trái chiều, thơ Hồ Xuân Hương. Nhà
nghiên cứu bằng sự vận dụng vô thức tập thể của phân tâm học tập trung phân tích,
lý giải nhằm khẳng định sự kết nối và sáng tạo của bà chúa thơ Nôm trong mạch
nguồn văn hóa dân tộc để đi đến một kết luận: “Trong các nhà thơ cổ điển Việt
Nam, có lẽ Hồ Xuân Hương là dân tộc nhất. Bà đặc Việt Nam”. (75,tr.248)
Cùng hướng nghiên cứu coi trọng sự gắn kết giữa văn hóa và văn học, Trần Lê
Bảo trong cuốn Giải mã văn học từ mã văn hóa đã đi sâu hơn vào các vấn đề về
biểu tượng văn hóa và giải mã biểu tượng văn hóa trong tác phẩm văn học. Ông
quan tâm đến vấn đề biểu tượng văn hóa thể hiện trong văn học. Từ những hiểu biết
về biểu tượng văn hóa, Trần Lê Bảo đã đưa ra cách thức giải mã biểu tượng văn hóa
14
trong tác phẩm theo quy trình như sau: Thứ nhất, cần phân biệt và xác lập cho được
mối quan hệ giữa hai yếu tố “biểu hiện” và “ ý nghĩa biểu hiện”. Thứ hai, khi xem
xét biểu tượng văn hóa cần chú ý đến điều kiện để hình thành nó. Thứ ba, cần quan
tâm đến phương thức tư duy vì tư duy biểu tượng dựa vào liên tưởng trực giác, cảm
xúc thẩm mỹ nên cơ sở hình thành nó là nhờ những trải nghiệm cá nhân trong tương
tác với truyền thống văn hóa của cộng đồng và mở rộng theo trình độ giải mã của
năng lực mỗi cá nhân. Trên cơ sở những vấn đề lý luận trên, ông đã đi vào giải mã
những biểu tượng văn hóa trong một số tác phẩm văn học các nước phương Đông
như Trung Quốc, Nhật Bản [4]. Công trình của Trần Lê Bảo rất có lý khi cho rằng
nghiên cứu văn học dưới góc nhìn văn hóa là cắt nghĩa văn học trên cơ sở tìm hiểu
những biểu tượng văn hóa kết tinh thông qua ngôn ngữ nghệ thuật.
Gần gũi hơn là cuốn chuyên luận Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam hiện
đại (1945 – 1975) của Nguyễn Duy Bắc. Trong công trình này, người viết đã xác
định nhiệm vụ cụ thể khi nghiên cứu là: “tập trung miêu tả và phân tích các biểu
trưng (mang nội dung văn hóa) ở thơ ca cách mạng để thấy được một cách cụ thể
cái thế giới tinh thần với những giới hạn trong cảm nhận thế giới, không gian, thời
gian và con người trong các hình tượng nghệ thuật cơ bản của nó” [5;tr.21]. Theo
hướng đó, công trình đã đi khảo sát về những biểu trưng về Tổ quốc, về người anh
hùng, về kẻ thù trong thơ ca Việt Nam 1945 – 1975. Trong quá trình phân tích, tác
giả làm rõ những vấn đề kế thừa truyền thống và những vấn đề sáng tạo mới mẻ. Vì
tìm hiểu về bản sắc dân tộc trong thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 nên công trình này
chủ yếu thiên về mô tả biểu hiện truyền thống văn hóa dân tộc thông qua hệ thống
các biểu trưng nghệ thuật chứ chưa đi sâu vào cắt nghĩa, lý giải sự phát triển các
biểu trưng đó từ góc độ văn hóa.
Ngoài ra, nhiều luận án tiến sĩ cũng đi theo hướng tiếp cận văn học từ góc nhìn
văn hóa với những tác giả văn học cụ thể như Thơ Mới từ giác độ văn hóa- văn học
(Hoàng Thị Huế - 2006), Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng từ góc
nhìn văn hóa (Ngô Minh Hiền - 2008), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hóa
(Lương Minh Chung - 2012), Văn chƣơng Vũ Bằng dƣới góc nhìn văn hóa (Đỗ Thị
15
Ngọc Chi - 2013)… Trong các luận án này, phương pháp nghiên cứu văn học dưới
góc độ văn hóa thường quan tâm tới ba phương diện trong tính thống nhất của nó:
sự kết tinh giá trị văn hóa, biểu tượng văn hóa, ngôn ngữ nghệ thuật biểu đạt những
giá trị và biểu tượng văn hóa đó.
Những công trình kể trên tuy nghiên cứu ở nhiều phạm vi, đối tượng khác
nhau nhưng đều làm rõ mối quan hệ mật thiết giữa văn hóa và văn học cũng như
cách thức nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa. Vì thế, chúng có nhiều gợi ý bổ
ích cho phương pháp nghiên cứu của luận án.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu thơ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc từ
1986 đến nay dưới góc nhìn văn hóa
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu ở cấp độ tổng quát văn học
DTTS nói chung và thơ DTTS nói riêng như Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại ( Nxb Văn hóa dân tộc, 1995), Về một mảng văn học dân tộc (Nxb Văn hóa
dân tộc,1999), Văn học và miền núi (Nxb Văn hóa dân tộc, 2002), Tiếp cận văn học
dân tộc thiểu số (Nxb Văn hóa thông tin, 2011) của Lâm Tiến, Văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam (Nhiều tác giả, NXB Văn hóa dân tộc, 1997), Văn học các dân
tộc từ một diễn đàn (Nhiều tác giả, NXB Văn hóa dân tộc, 1999), Văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số thời kỳ đổi mới (Nhiều tác giả, NXB Văn hóa dân tộc,
2007), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - Một số đặc điểm (Trần
Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo, NXB Đại học Thái Nguyên 2011)…Tuy nhiên,
những công trình nghiên cứu văn học theo hướng đi từ văn hóa tộc người chưa
nhiều, tạo ra khoảng trống trong nghiên cứu lý luận phê bình văn học DTTS.
Dày công nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam phải kể đến nhà
nghiên cứu phê bình văn học Lâm Tiến. Công trình Văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại của ông được coi là “công trình đầu tiên cố gắng phác một cái
nhìn khái quát toàn diện về toàn bộ nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại” (Nguyên Ngọc). Trong cuốn sách này, Lâm Tiến đã đưa ra một số vấn đề quan
trọng về nghiên cứu văn học DTTS hiện đại. Vấn đề đầu tiên là xác định đối tượng
và phương pháp nghiên cứu bộ phận văn học có những nét đặc thù riêng này. Ông
16
cho rằng, tình hình nghiên cứu còn nhiều hạn chế, đặc biệt là những vấn đề đang đặt
ra cho văn học DTTS hiện nay như mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân
tộc và quốc tế, vấn đề bản sắc dân tộc trong văn học, việc sáng tác bằng tiếng dân
tộc và tiếng Việt... Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là các nhà nghiên cứu mắc
phải những thiếu sót trong phương pháp nghiên cứu văn học DTTS như thiếu khách
quan khoa học, không am hiểu đầy đủ đối tượng nghiên cứu, mang tư tưởng “chiếu
cố”, không có nền tảng những khái niệm lý thuyết về văn học, thậm chí phương
pháp còn mang tính suy diễn, quy chụp. Theo tác giả, vấn đề mấu chốt là chưa hiểu
rõ đối tượng văn học DTTS Việt Nam hiện đại cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn
mà gốc gác của nó là người nghiên cứu chưa xác định được đầy đủ truyền thống văn
hóa của các dân tộc. Ông đề xuất phương pháp nghiên cứu văn học dân tộc thiểu số:
1. Phải xuất phát từ quan điểm lịch sử - cụ thể, với cách nhìn khách quan khoa học.
2. Phải đặt văn học dân tộc thiểu số trong chỉnh thể của văn học Việt Nam nói
chung và trong thực thể của văn học từng dân tộc thiểu số nói riêng. Muốn làm
được điều đó cần phải dùng phương pháp so sánh ở hai cấp độ: sự khác nhau giữa
tác phẩm người Kinh và người dân tộc cùng viết về đề tài miền núi, giữa tác phẩm
của người dân tộc này với người dân tộc khác.
Có thể nói, những quan điểm của Lâm Tiến về đối tượng và phương pháp
nghiên cứu văn học DTTS Việt Nam hiện đại đã đi từ lý luận đến thực tiễn. Ông
cho rằng điểm riêng biệt trong nghiên cứu bộ phận văn học này là phải đi từ nền
tảng văn hóa đa dạng, phong phú của từng tộc ngƣời để lý giải sự độc đáo của nó.
Nội dung thứ hai mà Lâm Tiến đưa ra trong cuốn sách này là những vấn đề
liên quan đến văn học DTTS Việt Nam hiện đại. Ông tập trung vào 3 vấn đề: vấn đề
tác giả Hoàng Đức Hậu, vấn đề tiếng nói và chữ viết, vấn đề truyền thống và hiện
đại. Những nội dung này có nhiều gợi ý đối với việc nghiên cứu thơ DTTS khu vực
phía Bắc từ 1986 đến nay. Về tác giả Hoàng Đức Hậu, Lâm Tiến cho rằng nếu
không đánh giá nhà thơ này “thì cũng không thể hiểu đầy đủ văn học Tày, sẽ không
lý giải được văn học Tày hiện đại là nền văn học phát triển nhất trong văn học các
dân tộc thiểu số, có được những tác phẩm đạt tới tầm cao của cả nước” [62;tr.18].
17
Giai đoạn từ 1986 đến nay ghi dấu ấn của nhiều cây bút dân tộc Tày như Y Phương,
Dương Thuấn…nên vấn đề nghiên cứu những tác giả người Tày thuộc các thế hệ
nhà thơ đi trước là một việc làm cần thiết để thấy được sự kế thừa và phát triển liền
mạch, đặc biệt dưới góc nhìn văn hóa tộc người. Về vấn đề tiếng nói và chữ viết, có
thể nhận thấy một điều là các nhà thơ, nhà văn người DTTS từ 1986 đến nay thành
công chủ yếu là sáng tác bằng tiếng Việt. Từ thực tiễn này, Lâm Tiến đã đi lý giải
nguyên nhân do những phức tạp từ tiếng dân tộc và những thuận lợi trong việc sáng
tác bằng tiếng Việt. Tiếng nói được coi là nơi lưu giữ văn hóa dân tộc nhưng trong
quá trình phát triển, lựa chọn ngôn ngữ để sáng tác còn phải phù hợp với thực tế
khách quan. Bản sắc văn hóa dân tộc nằm ở tâm hồn, tư tưởng, tình cảm…và cách
thức sử dụng ngôn ngữ. Vì thế, khi giải quyết vấn đề truyền thống và hiện đại, Lâm
Tiến khá nhất quán trong quan điểm về bản sắc văn hóa dân tộc trong văn học
DTTS: “Nó là sự thể hiện tâm hồn, tính cách dân tộc thông qua cách cảm, cách
nghĩ, cách nói riêng của nhà văn, là sự thể hiện một cách đẹp đẽ, sáng tạo những
truyền thống văn hóa dân tộc trong điều kiện lịch sử cụ thể” [62;tr.76].
Về thơ DTTS miền núi phía Bắc từ 1986 đến nay cũng là vấn đề Lâm Tiến
quan tâm. Ông cho rằng mốc 1986 đánh dấu một bước phát triển mới của thơ
DTTS: “Nhưng phải nói rằng từ khi có tập thơ “Tiếng hát tháng giêng” (1986), “Lời
chúc” (1991” của Y Phương, “Cưỡi ngựa đi săn”(1991), “Đi tìm bóng núi” (1993)
của Dương Thuấn thì thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam mới thật sự được khẳng
định.”[62;tr.93]. Tuy nhiên, phân kỳ thơ DTTS, ông vẫn chia làm 3 giai đoạn, thống
nhất với cách phân kỳ chung của văn học Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu thơ
DTTS giai đoạn 3 (từ sau năm 1975 đến nay), Lâm Tiến nghiêng nhiều hơn vào tác
phẩm được sáng tác từ 1986 đến nay và tập trung ở khu vực miền núi phía Bắc. Ông
cho rằng, đặc điểm nổi bật trong thơ DTTS ở giai đoạn này là sự cảm nhận mới về
con người, cuộc sống và quê hương miền núi mà cốt lõi là ý thức dân tộc của nhà
thơ được thức tỉnh. Tuy chưa đi sâu vào lý giải những vấn đề của thơ DTTS dưới
góc nhìn văn hóa nhưng những gợi ý của ông có những giá trị nhất định.
18
Công trình Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời kỳ hiện đại - một số đặc
điểm (Trần Thị Việt Trung, Cao Thị Hảo đồng chủ biên, Nxb Đại học Thái Nguyên,
2011) nghiên cứu tìm hiểu các đặc điểm về nội dung và nghệ thuật theo thể loại.
Riêng thể loại thơ, các tác giả khái quát hai đặc điểm chính về nội dung là miêu tả
hình ảnh con người miền núi hồn nhiên, chân thực, giàu tình cảm và hình ảnh quê
hương miền núi thơ mộng, tươi đẹp. Về nghệ thuật, công trình cũng đánh giá những
thành công nổi bật như ngôn ngữ độc đáo, đặc sắc với tính gợi hình, gợi cảm cao,
đậm đà bản sắc miền núi do sự kế thừa văn hóa dân gian cộng với sự nỗ lực học hỏi,
tiếp cận đến tính hiện đại của các nhà thơ và giọng điệu thơ đa dạng, phong phú với
nhiều cung bậc tình cảm. Về phân kỳ quá trình phát triển, các tác giả chia thành 3
giai đoạn giống như nhà nghiên cứu Lâm Tiến. Riêng giai đoạn 3, thơ DTTS có sự
vươn lên đáng kể từ đội ngũ nhà thơ (thế hệ nhà thơ trong kháng chiến, thế hệ nhà
thơ mới, đặc biệt là sự xuất hiện các nhà thơ nữ người DTTS), cảm hứng sáng tác
mang lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc trong thời đại mới. Trong công trình
nghiên cứu này, hình tượng người phụ nữ trong thơ DTTS được tìm hiểu khá kỹ
lưỡng với vẻ đẹp khỏe mạnh, hồn nhiên, giàu tính phồn thực và tính cảm mãnh liệt,
tha thiết, thủy chung, giàu đức hy sinh được thể hiện qua hệ thống ngôn ngữ độc
đáo như từ ngữ địa phương, từ láy và các phương tiện, biện pháp tu từ như so sánh,
ví von…Điều đáng nói là các tác giả chủ yếu khảo sát ở thơ DTTS miền núi phía
Bắc từ 1986 đến nay với tác phẩm các nhà thơ như Y Phương, Dương Thuấn, Lò
Ngân Sủn, Mai Liễu, Bùi Thị Tuyết Mai, Lò Cao Nhum… Vì nghiên cứu đặc điểm
thơ DTTS hiện đại cùng với các thể loại khác nên các tác giả mới chỉ khái quát đặc
điểm chung, chưa đi vào đặc điểm cụ thể của từng giai đoạn phát triển và cũng chưa
khu biệt đặc điểm riêng của thơ DTTS theo khu vực, vùng miền, nhất là chưa đi sâu
vào tìm hiểu văn học dưới góc nhìn văn hóa.
Về văn học DTTS, Tạp chí văn học có một số bài viết đề cập đến một số vấn
đề như Vấn đề truyền thống và hiện đại trong văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam (số 4 – 1991) của Lâm Tiến, Về bản sắc dân tộc trong sáng tác của các nhà
thơ dân tộc thiểu số (số 9 – 1994) của Nguyễn Duy Bắc, Mấy suy nghĩ về tình hình
19
văn học các dân tộc thiểu số hiện nay (số 9 – 1994) của Nguyên Ngọc. Thơ xứ Lạng
những năm 90 (số 11- 1996) của Hoàng Văn An, Mấy suy nghĩ về lý luận, phê bình
văn học các dân tộc thiểu số (số 5 – 2006) của Lâm Tiến, Thơ dân tộc thiểu số 10
năm đầu thế kỷ XXI (số 5 – 2012) của Đỗ Thị Thu Huyền… Gần đây, một số hội
thảo khoa học như hội thảo Ngôn ngữ và văn học vùng Tây Bắc của trường Đại học
Tây Bắc diễn ra vảo tháng 4 năm 2014 có đề cập đến văn học DTTS vùng Tây Bắc,
hội thảo quốc tế Kinh tế và Văn hóa – Xã hội các dân tộc thiểu số trong bối cảnh
hội nhập ASEAN do trường Đại học Thái Nguyên và trường Đại học Kalinga –
Apayao – Philippines tổ chức vào tháng 5 năm 2015 có nhiều vấn đề được đặt ra
cho văn học DTTS trong bối cảnh hội nhập văn hóa khu vực cũng như toàn cầu…
Các đề tài nghiên cứu, luận văn, luận án về thơ DTTS trong những năm gần
đây cũng xuất hiện khá nhiều như đề tài Nghiên cứu đặc điểm văn học dân tộc thiểu
số và phƣơng pháp giảng dạy văn học dân tộc thiểu số trong trƣờng đại học của TS
Cao Thị Hảo (Đại học Thái Nguyên), đề tài Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam thời
kỳ hiện đại dƣới góc độ thể loại của PGS. TS Trần Thị Việt Trung… Luận án tiến sĩ
Thơ dân tộc Tày từ 1945 đến nay của Đỗ Thị Thu Huyền, luận án tiến sĩ Thơ ca dân
tộc HMông – từ truyền thống đến hiện đại của Nguyễn Kiến Thọ…
Một hướng đi đáng chú ý nữa tuy nghiên cứu văn học dân gian và văn học
kháng chiến của các DTTS nhưng có những gợi ý quan trọng cho luận án này là
nghiên cứu sự khác biệt văn học dựa trên không gian văn hóa. Tiêu biểu cho hướng
đi này là tác giả Hà Văn Thư với cuốn phê bình tiểu luận Về văn hóa văn nghệ các
dân tộc thiểu số (Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1996). Trong bài viết Văn học dân
tộc thiểu số trong bộ hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tác giả bước đầu đi vào phác
thảo một vài nét khác biệt về văn học DTTS của các khu vực: Văn học Việt Bắc
mạnh về đấu tranh giai cấp, chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn học Tây
Bắc giàu tính chất trữ tình, chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Lào, văn học Tây
Nguyên mang tâm hồn phóng khoáng và kiên cường của con người nơi đây, văn
học dân tộc Chàm và Khơ me chịu ảnh hưởng của văn học Căm pu chia và Ấn Độ.
Tuy chưa đi sâu nhưng bài viết đã có xu hướng tiếp cận văn học DTTS dưới góc
20
nhìn văn hóa khi chỉ ra sự khác biệt của nó theo khu vực như trên, nói cho cùng
xuất phát từ sự khác biệt về địa - văn hóa. Đây là quan điểm có nhiều điểm thống
nhất với nhà nghiên cứu văn học dân gian DTTS Võ Quang Nhơn. Trong phần
nghiên cứu về dân ca dân gian DTTS, một thể loại được đánh giá là “như một cái
nền để từ đấy hình thành những thể loại còn cao hơn” (Đặng Nghiêm Vạn), ông đã
rút ra được những nhận xét rất quan trọng về một số nét đặc trưng của thơ ca dân
gian DTTS ở từng khu vực “Trong sự thống nhất của các truyền thống nghệ thuật,
dân ca mang tính chất cộng đồng khá lâu bền, nảy nở nhiều phong cách sáng tạo
thông minh, mang nhiều âm điệu phong phú của các dân tộc khắp các miền của đất
nước: sắc thái hồn nhiên vui tươi của các dân tộc Tây Nguyên, âm điệu trữ tình sâu
lắng của các dân tộc ở Tây Bắc, cấu tứ ít nhiều thiên về tính trí tuệ của các dân tộc ở
Việt Bắc, phong cách trữ tình thâm trầm ít nhiều pha màu sắc đạo đức, tôn giáo của
các dân tộc Chăm và Khơme ở miền Nam…” [32; tr.750]. Đặc biệt, ông còn phân
định sự khác biệt dân ca của các tộc người cụ thể: dân ca các DTTS Tây Nguyên
mang tính chất hồn nhiên, mãnh liệt, nhiều khi thiên về cảm tính hầu như có tính
bản năng, dân ca Thái giàu tính chất trữ tình nhưng cũng khá tỉnh táo mang tính
chất lý trí, dân ca Tày thiên nhiều về tính lý trí không chỉ nội dung, nghệ thuật của
tác phẩm mà còn ở hình thức tổ chức hát mang tính chất đua tài, đua trí như lƣợn
đố, lƣợn truyện, thơ phong slƣ …Đây là những ý kiến quan trọng cho việc nghiên
cứu thơ DTTS hiện đại dưới góc nhìn văn hóa không chỉ vì thơ ca dân gian là thể
loại gần gũi hơn mà điều đáng nói đây là thể loại kết tinh văn hóa tộc người đậm đà
hơn so với thể loại tự sự phổ biến có sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các tộc người.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận thơ DTTS mà tác giả là người
DTTS như Một mình trong cõi thơ (Hoàng Quảng Uyên, NXB Văn hóa dân tộc,
2000), Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số (Lò Ngân Sủn, NXB Văn hóa dân tộc,
2001), Hoa văn thổ cẩm - 3 tập (Lò Ngân Sủn, NXB Văn hóa dân tộc, 1998, 1999,
2002), Tần ngần trƣớc văn chƣơng của Mã A Lềnh (1998), Mỗi nét hoa văn của Hà
Lâm Kỳ (2002), Hƣơng sắc miền rừng của Mai Liễu (2008), Hiện đại mà dân tộc
của Ma Trường Nguyên (2010)… Bên cạnh đó là sự quan tâm của của nhà nghiên
21
cứu, phê bình văn học và các nhà thơ người Kinh về bộ phận thơ này qua những bài
giới thiệu, lời tựa cho các tập thơ của các nhà thơ DTTS như Chu Văn Sơn, Vân
Long, Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Hổ… với những cảm thụ về vẻ đẹp độc đáo,
mang bản sắc văn hóa dân tộc cùng những nỗ lực hiện đại hóa thơ của họ.
Trong số đó, nổi bật là bài viết mang tính chất đối thoại với tiêu đề Thơ dân
tộc thiểu số, từ một hướng nhìn động của Inrasara trong cuốn Song thoại với cái
mới. Là một tác giả thơ DTTS, dù ở một không gian văn hóa khác nhưng Inrasara tỏ
ra sắc sảo khi đưa ra những vấn đề về những khó khăn, thành tựu đạt được và
những tồn tại, hạn chế của văn học DTTS, đặc biệt dẫn chứng trong bài viết tập
trung vào các nhà thơ ở khu vực miền núi phía Bắc, giai đoạn từ 1986 đến nay. Bài
viết của Inrasara đề cập đến nhiều vấn đề nhưng tập trung nhất là vấn đề ngôn ngữ
thơ, vấn đề tiếp thu tinh hoa văn hóa truyền thống và nỗ lực tiếp cận xu hướng hiện
đại của các nhà thơ DTTS. Khó khăn cho thơ DTTS là ngôn ngữ sáng tác. Các nhà
thơ càng về sau càng có xu hướng sáng tác bằng tiếng Việt trong khi ngôn ngữ tộc
người được coi là kết tinh văn hóa. Tác giả gọi tình trạng này là “lưu vong ngôn
ngữ”. Những vấn đề Inrasara đưa ra không chỉ mang tính đánh giá còn hàm chứa cả
tính dự báo con đường phát triển thơ DTTS, đặc biệt nhấn mạnh vào tầm quan trọng
của nền tảng văn hóa truyền thống. Gần đây nhất, trong hội thảo khoa học quốc gia
Thế hệ nhà văn sau năm 1975 (Đại học Văn hóa Hà Nội tổ chức vào ngày
28/4/2016), nhà thơ người Chăm này lại đề cập đến một phương diện khác của thơ
DTTS. Đó là sự khác biệt mang tính vùng miền với thơ DTTS hiện đại miền Bắc
nhìn chung theo xu hướng “vẫn còn vướng víu với cái đẹp mĩ học truyền thống
nông nghiệp giàu bản sắc” [48;tr.110] so với thơ DTTS hiện đại ở phía Nam Trung
bộ với đại diện là thơ Chăm. Sự nhận diện này tuy mới chỉ dừng lại ở mức độ cảm
tính nhưng ít nhiều hé lộ lối tư duy của tác giả về ảnh hưởng từ xu hướng và khả
năng hội nhập văn hóa xét ở góc độ vùng miền với môi trường có tính khép kín ở
phía Bắc và xu hướng mở ở khu vực phía Nam.
Cùng suy tư về sự phát triển của văn học DTTS nhưng có những điểm khác
biệt suy nghĩ với Inrasara là bài viết Vấn đề bản sắc văn hóa trong văn học các
22
dân tộc thiểu số thời kỳ hội nhập của TS Nguyễn Kiến Thọ. Đứng trước những lo
lắng về sự phai nhạt, mai một và khả năng bị đồng hóa cao về văn hóa tộc người
trong sáng tác của các nhà thơ, nhà văn đương đại, tác giả bài viết cho rằng cần bám
vào bản chất của văn hóa là luôn vận động, biến đổi không ngừng. Quan niệm bản
sắc văn hóa chính là “cốt cách” bất biến chứ không phải “diện mạo” dễ bị đổi thay,
tác giả bày tỏ một cái nhìn lạc quan về sự lựa chọn cách thức phát triển của văn học
DTTS hiện đại. Về thơ, người viết cho rằng hiện tượng nhà thơ gốc Tày Vi Thùy
Linh nên có cách hiểu về văn hóa tộc người một cách linh hoạt và hiện đại hơn vì
cách thức bày tỏ tình yêu thẳng thắn, táo bạo biết đâu lại là một kiểu để chất Tày
được “trú ẩn trong một gương mặt khác, một hình thức biểu hiện khác” [20;tr.332].
Riêng về thể loại thơ, Bản sắc dân tộc trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt
Nam hiện đại – Khu vực phía Bắc Việt Nam [Trần Thị Việt Trung (chủ biên), Nxb
Đại học Thái Nguyên, 2010] được coi là công trình nghiên cứu tập trung nhất về
vấn đề văn hóa dân tộc trong thơ DTTS hiện đại ở khu vực miền núi phía Bắc.
Trong công trình này, các tác giả đã chỉ ra những vấn đề về bản sắc dân tộc, quá
trình phát triển của thơ DTTS và đi vào tìm hiểu bản sắc dân tộc trong thơ một số
dân tộc Tày, Thái, Mông, Dao, Giáy và Pa dí. Với quan niệm bản sắc dân tộc trong
thơ DTTS “là những nét riêng biệt, độc đáo trong truyền thống lâu đời của các dân
tộc thiểu số được kết tinh, biểu hiện trong thơ” [84;tr.41], công trình đã chỉ ra bản
sắc dân tộc trong thơ DTTS thể hiện qua chủ thể sáng tác, qua đối tượng phản ánh
(môi trường tự nhiên xã hội, sinh hoạt văn hóa dân tộc, đời sống tâm hồn và tính
cách của con người dân tộc), qua phương thức phản ánh. Từ đây, các tác giả đã soi
chiếu vào thơ DTTS miền núi phía Bắc hiện đại (tính từ 1945 đến nay) trên 2
phương diện nội dung và hình thức. Đóng góp đáng ghi nhận của công trình nghiên
cứu này là sự khảo sát kỹ lưỡng những biểu hiện bản sắc văn hóa thơ một số dân tộc
có thành tựu trong thời kỳ hiện đại như phong tục tập quán, đời sống sinh hoạt, sự
tiếp thu những thành tựu của văn học dân gian… Tuy nhiên, việc cắt nghĩa, lý giải
những đặc điểm từ chiều sâu vô thức tập thể trong văn hóa từng sắc tộc như tâm lý,
tính cách… chưa rõ nét và hệ thống.
23