DÂN TỘC MƯỜNG
PGS. TS.Nguyễn Ngọc Thanh
Viện Dân tộc học
1.Địa bàn cư trú và dân số
Người Mường ở nước ta cư trú trên một vùng đồi núi khá rộng nằm giữa
vùng người Việt ở phiá đông và vùng người Thái ở phía tây, chiều dài ước chừng
350 km, từ tây bắc tỉnh Yên Bái đến tây bắc tỉnh Nghệ An và chiều rộng khoảng
80-90 km. Đó là địa bàn bao gồm toàn bộ tỉnh Hòa Bình (501.956 người ), các
huyện: Ngọc Lạc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Bá Thước, Như Xuân, Lang
Chánh.vv...thuộc tỉnh Thanh Hóa(341.359 người ); Thanh Sơn, Yên Lập, Tam
Thanh tỉnh Phú Thọ (184.141 người ); Phù Yên, Mộc Châu, Bắc Yên .vv...thuộc
tỉnh Sơn La (....... người ); Ba Vì, Quốc Oai tỉnh Hà Nội (49.339 người ); Hoàng
Long tỉnh Ninh Bình (22. 614 người ); Văn Chấn , Trấn Yên, tỉnh Yên Bái
(14.619 người ). Ngoài khu vực này hiện người Mường còn có mặt ở một số tỉnh
phía Nam như Đắk Lắk (15.510 người); Đắk Nông ( 4070 người); Gia Lai (6133
người); Lâm Đồng (4445 người); Bình Phước (2482 người); Bình Dương
(10.227 người); Đồng Nai (5.337 người ) và thành phố Hồ Chí Minh (3.462
người)1.
Đặc điểm chung nhất về khu vực cư trú của người Mường là tập trung trong
các thung lũng chân núi, địa lý môi sinh có nhiều thuận lợi cho trồng trọt. Sự
phong phú của cảnh quan, môi trường đã có những tác động tích cực đến đời
sống nhiều mặt của người Mường ở đây, chính trên cơ sở nền tảng đó họ đã sáng
tạo ra một nền văn hoá Mường “văn hoá thung lũng" đa dạng, nhưng thống nhất
1 Ban chỉ đạoTổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm
2009, Kết quả toàn bộ, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2010.
1
1
như có tác giả đã nêu ra đối với văn hoá Mường. Theo phương thức tiếp cận sinh
thái nhân văn thì "văn hoá thung lũng" được coi là cái gạch nối giữa văn hoá núi
và văn hoá châu thổ về mặt đồng đại và là khởi nguyên của văn hoá lúa nước về
mặt lịch đại.
2. Tên gọi và nguồn gốc lịch sử
Hiện nay Mường đã trở thành tộc danh chính thức. Nhưng trong đời sống
và cả trong văn học dân gian, người Mường tự gọi mình là Mol, Mual, Mul hoặc
Mon1.... tùy cách gọi của từng địa phương. Mon,Mol, Mual, Mul có nghĩa là
người. Theo Trần Quốc Vượng và Nguyễn Dương Bình thì từ Mường xuất hiện
vào khoảng thế kỷ 17. Sắc lệnh của viên Kinh lược Bắc Kỳ Nguyễn Trọng Hiệp
đề ngày 2 tháng 6 năm Đồng Khánh thứ nhất (23 - 6 -1888 ), trong đó điều một
có ghi: “Lập một tỉnh gồm các đất (của dân) Mường xưa thuộc các tỉnh Hưng
Hóa, Sơn Tây, Hà Nội, Ninh Bình”. Đây có thể là văn bản chính thức đầu tiên
của nhà nước Phong kiến Việt Nam dùng danh từ Mường để chỉ nhóm cư dân
này[106]. Tuy nhiên, trong các bài viết của các sĩ quan, viên chức Pháp cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì danh từ Mường vẫn được dùng để chỉ cả tộc Mường,
Thái và các tộc người khác. Mãi sau này tộc danh Mường mới được dùng để chỉ
nhóm người Mường như hiện nay.
Mường phiên âm từ chữ Hán là Mang tên thường dùng trong các tác phẩm
thời phong kiến để chỉ một địa phương, một vùng, một khu vực. Chẳng hạn
mường Mai (Mai Châu ), mường Lễ (Lai Châu ). Người Mường hiện nay cũng
thường nói “người Mường Bi”, “người Mường Thàng” để chỉ người ở “ Mường
Bi”, người ở “Mường Thàng” chứ không phải dùng với ý nghĩa người Mường ở
1 Các
2
nhóm địa phương: Ao Tá (Âu Tá), Mọi Bi
2
Bi hay Thàng. Dần dà tên Mường vốn để chỉ địa phương, địa bàn cư trú đã trở
thành tên dân tộc [8]. Cũng có ý kiến khác cho rằng Mường có lẽ là từ gốc Thái
như lý giải của J. Cuisinier [43, 63]. Để phân biệt với các dân tộc láng giềng,
người Mường tự nhận là “Mol tloong” có nghĩa là người trong, khác với người
Việt “Mol ngoai”, tức người ngoài .
Căn cứ vào các tài liệu khoa học, nhiều nhà nghiên cứu có chung nhận định
rằng: Người Việt và người Mường vốn có chung một nguồn gốc. Về mặt ngôn
ngữ, tiếng Việt và tiếng Mường có một gốc chung. Về mặt nhân chủng, hai
nhóm Mường - Việt cùng chung những đặc điểm nhân chủng trong nhóm Nam Á
thuộc tiểu chủng môngôlôit phương Nam. Về phong tục tập quán, giữa người
Mường và người Việt có nhiều điểm giống nhau.
Tuy vấn đề nguồn gốc người Việt, người Mường hiện nay vẫn đang được
nghiên cứu, song hầu hết các ý kiến đều cho rằng, họ là cư dân bản địa và tổ tiên
người Việt, người Mường là người Lạc - Việt, chủ nhân của nền văn hóa Đông
Sơn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau và những điều kiện lịch sử nhất định,
khối cộng đồng Việt - Mường dần phân ra thành hai tộc người. Quá trình chia
tách đó diễn ra lâu dài, chậm chạp, không đồng đều, chủ yếu là trong thời Bắc
thuộc. Từ sau thế kỉ thứ X, Việt và Mường trở thành hai dân tộc riêng biệt như
ngày nay.
4.Hoạt động kinh tế
4.1.Kinh tế truyền thống
Trước năm 1986, cơ cấu kinh tế ở người Mường chủ yếu trồng trọt, chăn
nuôi, khai thác nguồn lợi tự nhiên và làm nghề thủ công.
3
3
Trong trồng trọt, canh tác lúa nước luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống
của người Mường. Trên nền tảng của truyền thống làm nông nghiệp ruộng nước
người Mường đã xây dựng một hệ thống nông lịch hoàn chỉnh, từ gieo mạ, làm
đất, xuống mạ, trồng ngô, trồng sắn, thu hoạch, v.v...
Ruộng nước thường được người Mường phân thành nhiều loại tùy theo chất
đất, lượng nước và vị trí của mảnh đất. Việc phân loại này giúp cho người dân có
cách thức làm đất, tưới tiêu, lựa chọn giống cây trồng và chăm sóc cây trồng phù
hợp.
Tùy theo điều kiện tự nhiên của từng vùng mà người Mường ở các khu vực
khác nhau, có tiêu chí phân loại đất khác nhau. Chẳng hạn người Mường ở Hòa
Bình chọn đất trồng lúa ở những nơi bằng phẳng, gần nguồn nước. Với người
Mường, nà là tên gọi chung chỉ các loại ruộng trồng lúa nước. Để phân biệt
ruộng tốt, ruộng xấu họ cũng có những tên gọi khác nhau. Ruộng tốt ở gần xóm
thuận tiện canh tác được gọi chung là nà chân quêl (ruộng gần làng) Xưa kia
dưới chế độ nhà lang, nà chân quêl bao gồm nhiều mảnh ruộng nõ, xâu, dân
trong mường, trong xóm hàng vụ phải đến cày, bừa gặt hái cho nhà lang. Những
thửa ruộng ở chỗ sâu, bùn lầy thụt gọi nà xa quêl (ruộng xa làng. Những thửa
ruộng hẹp nằm ép mình giữa hai bên sườn đồi, sườn núi gọi là nà hộc. Nà
có thể hiểu là khoảnh đất có mặt bằng, xung quanh có bờ ngăn giừ nước,
trên đó người ta thực hiện các khâu lao tác tưới nước, cày bừa bón phân,
gieo trồng và thu hoạch.
Đối với từng loại ruộng, người Mường áp dụng những cách làm đất khác
nhau nhằm làm tăng chất màu cho đất, nâng cao năng suất cây trồng. Quy trình
làm đất cũng khác nhau giữa đất ruộng mạ và đất trồng lúa (đất cấy). Người
Mường có câu thành ngữ Nà cằl ba, mạ cằl bốn (ruộng cấy cày ba, ruộng mạ cày
4
4
bốn) để nói lên sự khác biệt giữa làm đất ruộng mạ và làm đất trồng lúa. Với các
loại đất ruộng khác nhau, người Mường có những phương thức làm khác nhau
tùy thuộc vào loại đất tốt hay xấu, lầy thụt hay khô cạn, ruộng một vụ hay ruộng
hai vụ.
Việc chọn lúa giống cũng được người Mường chú ý tới, lúa giống được
lựa chọn từ thửa ruộng tốt nhất, đó là thửa ruộng có những bông lúa cao, to,
nhiều hạt, hạt lúa căng, mẩy. Người lấy giống là người phụ nữ đã có tuổi, giàu
kinh nghiệm. Việc chọn giống gắn với hình ảnh người phụ nữ, vì theo quan niệm
truyền thống của người Mường, phụ nữ có thiên chức sinh nở và chăm sóc.
Lúa chọn lấy giống thường được kiểm tra vào những ngày nắng to. Vì trời
nắng sẽ giúp đồng bào nhận rõ các đặc điểm (màu sắc hạt, độ căng, độ chắc, độ
mẩy, độ nặng, độ cao...) của bông lúa dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, đồng bào Mường cũng ra ruộng quan sát lúa, họ nhận định,
kiểm tra bằng mắt, bằng tay và xác định đám ruộng “cao kừa” để lấy giống.
Người phụ nữ sẽ cắt từng bông trĩu hạt, hạt thật mẩy, thật chắc, nhìn sáng hơn,
đẹp hơn các bông lúa khác. Cổ bông lúa dài hơn hẳn các bông lúa bình thường.
Chúng được bó thành từng bó, bỏ vào một chiếc thùng gỗ, mang về để trên các
thanh ngang của một giàn phơi riêng, hong cho ráo nước. Khi bông lúa oai oải
héo thì chuyển lên gác sàn, hay nơi râm mát đặt trong hiên nhà, gần với gian bếp
để hạt giống không quá khô. Đồng bào còn đan cót bằng nứa, dùng lá cọ sạch,
khô ngăn thành các ngăn khác nhau. Mỗi thứ giống được cất riêng một chỗ, đến
tháng ba Âm lịch, họ đưa thóc giống ra, dùng chân đạp cho hạt lúa rời khỏi bông,
sẩy sạch hạt lép, cất vào bồ đựng riêng. Cũng có gia đình chọn lúa để giống tại
nhà, sau khi kết thúc việc thu hoạch lúa. Lúa để làm giống thường được chọn
5
5
từng bông, hạt lúa không dài, tròn hạt, tốt bông, tầm cây vừa, không cao, không
thấp. Vào mùa tháng năm, người ta chọn giống lúa tẻ nhiều hơn giống lúa nếp.
Vào mùa tháng mười, người ta chọn lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ, do thời gian này có
nhiều dịp cưới xin, lễ tết nên nhu cầu tiêu dùng lúa nếp nhiều hơn so với lúa tẻ.
Mỗi năm thường 2 vụ, tùy nhu cầu mà các gia đình chọn lấy đủ hạt giống cho
vụ sau. Trong lấy giống, bao giờ đồng bào cũng lấy nhiều hơn số giống cần từ 2
đến 3 lần để đề phòng rủi ro, khi phải gieo lại mạ nhiều lần. Ba năm một lần,
người Mường đổi giống.
Người Mường xưa có nhiều giống lúa, thành ngữ Mường có câu:
“Chín mươi thứ lúa ruộng, ba mươi thứ lúa nương” (Chín mươi tống lọ nà,
ba mươi tống lọ hoọng). Điều đó cũng đủ nói nghề nông trồng lúa nước đã
trở thành nguồn sống chính của người Mường.
Đối với canh tác ruộng nước thì thuỷ lợi giữ vị trí đặc biệt quan trọng.
Thành ngữ Mường có câu: "làm cơm phải có mó, làm ló phải có đác" (nấu cơm
phải có nước, cấy lúa phải có nước). Nguồn nước chính thường là nước mưa và
nước của các con suối chảy xuôi giữa lòng thung lũng, các khe mạch chảy
thường xuyên hay định kỳ. Dựa trên các nguồn nước tự nhiên, người Mường đã
xây dựng một hệ thống thuỷ lợi khá hoàn chỉnh gồm:
Mương: là những đường dẫn nước vào ruộng, nó có thể chạy men theo
sườn đồi, sườn núi hoặc dọc các khu đồng, vừa cung cấp nước phục vụ cho trồng
trọt vừa tiêu nước khi có mưa lũ. Mương có thể đào chìm hoặc đắp nổi. Nguồn
nước từ mương thường lấy từ pai (phai). Phai: là loại đập đắp ngăn suối để dâng
nước vào mương. Trước kia phai hầu hết chỉ kè bằng đá hoặc bằng các thân cây
gỗ xếp chồng lên nhau, đóng cọc hai bên cho khỏi đổ.
6
6
Nhìn chung mương ở
người Mường không to như ở đồng bằng sông Hồng, mương hẹp chỉ vừa một
bước chân, phai cũng rất nhỏ.
Hạnh: là hệ thống dẫn nước nhỏ đắp bờ hai bên lấy nước từ mương vào các
cánh đồng. Cần đưa nước tới từng thửa ruộng người ta dùng cuốc khơi rãnh ở bờ
hạnh gọi là tạng khi đủ nước bỏ tạng đi đắp lại. Đối với các thửa ruộng cao hơn
nguồn nước người Mường dùng cọn nâng nước lên đổ vào ruộng.
Hệ thống thủy lợi trên đây của người Mường trong chừng mực nào đó
đã có dấu ấn của trí tuệ và sức lực con người. Xưa kia dưới chế độ nhà
lang hệ thống thủv lợi này do ậu huyền phụ trách. Hàng năm sau dịp tết,
nhà lang tổ chức họp bàn kế hoạch để xây dựng, tu bổ và bảo vệ, mọi
thành viên trong xóm, mường đều có nghĩa vụ tham gia kiến dựng mương
phai.
Mặc dù kinh nghiệm sản xuất qua bao đời đã cho phép họ rút ra kết luận
"một nà pa roong" (một ruộng ba nương) thì việc làm nương vẫn được tiến hành
khi mà diện tích lúa nước có hạn.
Nương trong tiếng Mường gọi là roọng, khác với ruộng nước, nương bao
gồm những khoảnh đất rừng được phát, đốt để gieo trồng. Nhưng không bằng
phẳng, không có bờ giữ nước. Ở người Mường có hai loại nương, đó là, nương
bằng, gọi là lủ có thể dùng cày được, và nương trên đất dốc, gọi là bỏn không
thể dùng cày được mà chỉ dùng cuốc hoặc chọc lỗ tra hạt. Trên cả hai loại nương
nói trên, người ta có thể trồng lúa và màu. Nương ở người Mường chủ yếu là
nương lúa, ngoài ra còn có nương sắn, nương ngô, nương bông. Trên nương,
người Mường cũng có tập quán trồng xen canh một vài loại giống cây trồng khác
như: đỗ, vừng trồng xen ngô... Đặc biệt hơn cả là sự có mặt của các nương bầu,
bí. Đó thực sự "là vườn rau" bởi lẽ ngoài những thứ rau hoang mà người phụ nữ
7
7
hàng ngày hái nhặt, lúc ra đồng, khi lên nương thì thứ rau độc nhất mà người
Mường trồng ở nương là bầu, bí.
Với một tập đoàn cây trồng đa dạng và phong phú như vậy nên trồng trọt
trên nương đã cung cấp nguồn lương thực, thực phẩm cho người Mường gần như
quanh năm. Có nhiều loại lúa nương khác nhau, tuỳ theo địa thế của từng mảnh
nương mà họ chọn giống lúa cho phù hợp. Để giữ màu, ở nương dốc, người ta
làm đường cản nước tức là xẻ rãnh ngang trên đầu của mảnh nương và xẻ thêm
một số rãnh dọc sườn núi để khi mưa xuống nước sẽ thoát theo những đường
rãnh đó hạn chế được sự xói lở làm hại đến cây trồng. Có thể nói sản phẩm của
kinh tế nương rẫy đến nay vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người
Mường.
Điều kiện môi trường đã tạo cho chăn nuôi phát triển nhưng cũng chỉ là
nghề phụ của gia đình, hoàn toàn phụ thuộc vào nông nghiệp. Vật nuôi có nhiều
loại như: gà, vịt, ngan, ngỗng, lợn, trâu, bò. Chăn nuôi nhằm mục đích lấy sức
kéo phục vụ cho sản xuất, một phần để làm thực phẩm phục vụ cho nghi lễ gia
đình và một phần đem bán.
Tập quán thả rông trâu bò từ lâu đã trở thành phổ biến, ngoài lối chăn thả này
trâu bò còn được chăn theo lối buộc dây để trẻ em hoặc người già trông nom,
còn đàn lợn được chăm sóc chu đáo hơn, chuồng lợn làm ở dưới gầm sàn hoặc
góc vườn, hàng ngày được chủ cho ăn ba bữa.
Nhìn chung, chăn dắt trâu bò là công việc của nam giới, còn lợn gà, ngan,
vịt do nữ giới đảm nhận. Đây cũng là lối phân công tự nhiên đã hình thành từ xa
xưa trong xã hội Mường.
8
8
Chăn nuôi: trâu, bò, lợn có vị trí đáng kể trong kinh tế gia đình. Những
con vật nuôi có thể như là một khoản "tiền tíêt kiệm" khi cần đem bán để mua
sắm đồ đạc và mua lương thực. Xưa kia trong xã hội Mường còn lấy trâu, bò làm
tiêu chuẩn để đánh giá giàu nghèo.
Cùng với trồng trọt và chăn nuôi, các nghề thủ công truyền thống cũng
tương đối phát triển không những đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp mà còn đem
bán, trao đổi. Trong các nghề thủ công nổi bật là nghề dệt, nuôi tằm ươm tơ; đan
lát. ở những nghề này nhiều người đã đạt tới trình độ tinh xảo. Dẫu vậy, nhìn
chung, thủ công ở người Mường chưa tách khỏi nông nghiệp, chỉ đóng vai trò
phụ và phụ thuộc vào nông nghiệp. Hoạt động của nghề thủ công mang tính thời
vụ, làm vào lúc nông nhàn, tranh thủ lúc rỗi rãi trong ngày, chưa đạt tới trình độ
chuyên môn hoá. Những sản phẩm tiểu thủ công nghiệp chỉ nhằm đáp ứng cho
sản xuất và sinh hoạt hàng ngày nhằm đảm bảo cho tính tự cấp tự túc trong kinh
tế ở phạm vi gia đình, làng bản, địa phương.
Ở người Mường các hình thức kinh tế chiếm đoạt vẫn còn khá phổ biến,
đặc biệt là hái lượm vẫn giữ vị trí đáng kể trong sinh hoạt hàng ngày. Hái lượm
được tiến hành theo mùa, mỗi mùa có những loại rau khác nhau. Theo thống kê
của chúng tôi về mùa xuân thường có trên 60 loại rau, mùa hè trên 40 loại, mùa
thu trên 20 loại và mùa đông khoảng 10 loại.
Nhìn chung, người Mường có nhiều kinh nghiệm trong hái lượm. Họ nắm
vững chu kỳ sinh trưởng và phát triển của nhiều loại cây trong rừng nên hiểu rõ
thời vụ hái của từng loài và được thể hiện qua tục ngữ như: "Tháng cáu, khẩu
cấu, lú cú" (tháng 6 gặp nhau ở hố củ mài); "Tháng kháu chín chu, chín cha"
(tháng 9 dâu da đều chín). Rau rừng không những là nguồn thực phẩm chủ yếu,
thường xuyên trong các bữa ăn hàng ngày của người Mường mà còn bổ trợ phần
9
9
nào cho sự thiếu hụt lương thực nhất là vào dịp giáp hạt, mặt khác sản phẩm từ
rừng còn là hàng hoá trao đổi như các loại măng khô, mộc nhĩ, nấm hương.
Đặc điểm nổi bật trong hái lượm rau rừng là đơn giản không cần công cụ
vẫn có thể hái được rau, có thể kết hợp hái ngay trong lúc sản xuất. Lao động
chủ yếu trong thu hái là phụ nữ và trẻ em.
Việc kiếm nhặt thức ăn dưới nước như mò cua, bắt ốc, đánh cá cũng được
tiến hành thường xuyên. Đánh cá có hai hình thức cá nhân và tập thể.
Hình thức đánh cá tập thể là dùng sức đông của nhiều người cùng xuống
một khúc suối đoạn sông. Đông nhất, huyên náo nhất là những buổi đánh cá xưa
kia do nhà lang tổ chức. Hiện nay đánh bắt cá chủ yếu tiến hành dưới hình thức
cá nhân, dụng cụ bắt cá gồm có nhiều loại.: chài, vó, câu.v.v..
Cùng với hái lượm, đánh cá, săn bắt cũng góp thêm một phần quan trọng
trong bữa ăn hàng ngày. Tuy nhiên săn bắt không được tiến hành thường xuyên.
Công cụ săn bắt có súng kíp, nỏ và các loại bẫy.
Việc trao đổi hàng hoá thông qua các chợ phiên ở người Mường đã xuất
hiện từ lâu, tuy nhiên trong cộng đồng người Mường chưa hình thành một tầng
lớp thương nhân chuyên nghiệp, người dân đến chợ mang theo những sản phẩm
đã làm ra như: thóc, gạo, ngô, các sản phẩm của nghề thủ công, của hái lượm
bán lấy tiền mua các nhu yếu phẩm mà bản thân họ không sản xuất ra được như:
dầu hoả, muối, vải vóc và nhiều hàng tiêu dùng khác.
Có thể thấy những đặc trưng cơ bản trong nền kinh tế truyền thống của
người Mường là: Trong trồng trọt, cây lúa giữ vai trò chủ đạo, chăn nuôi là nghề
phụ, có mối quan hệ khăng khít với trồng trọt, quy mô chăn nuôi tuỳ thuộc vào
hoàn cảnh từng gia đình mà có thể lớn hay nhỏ. Hoạt động thủ công nghiệp ở
10
10
mức độ nhỏ, đóng khung trong phạm vi gia đình; người nông dân vừa làm ruộng
vừa làm nghề thủ công. Hái lượm và đánh cá vẫn còn đóng vai trò đáng kể trong
đời sống kinh tế, ngược lại vai trò của săn bắt đã giảm đi nhiều.
4.2. Những chuyển đổi về kinh tế
4.2.1.Đổi mới cơ chế quản lý
Từ những năm 1980 trở về trước, các hợp tác xã nông nghiệp ở vùng người
Mường theo mô hình chung của cả nước, theo phương thức quản lý tập trung,
ruộng đất và tư liệu sản xuất được tập thể hoá. Tuy nhiên, hoạt động của các hợp
tác xã với khẩu hiệu " hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ" thực sự chỉ tồn tại trên
hình thức. Có thể nói đây là thời kỳ "nông nghiệp hoá ngành nghề, công xã hoá
những xóm làng và nông dân hoá dân cư"1. Phân phối trong các hợp tác xã mang
nặng tính bình quân chủ nghĩa, không có tác dụng kích thích sản xuất, không chú
ý đúng mức phân phối cho người lao động. Để từng bước khắc phục tình trạng
trên đây và thúc đẩy phát triển kinh tế ngày ngày 13 - 01 -1981, Ban bí thư
Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 100 CT/TW về “Cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã
nông nghiệp". Cơ chế khoán đã gắn trách nhiệm và quyền lợi của xã viên với sản
phẩm cuối cùng, tạo ra động lực mới cho sản xuất nông nghiệp, bởi nó cho phép
người nông dân sử dụng có hiệu quả toàn bộ phần đất nông nghiệp của mình một
cách trực tiếp2, nâng cao đời sống xã viên. Nguyên tắc khoán là: Hợp tác xã nông
nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là
ruộng đất, phân bón, sức kéo, công cụ và các cơ sở vật chất kỹ thuật của tập thể.
Hợp tác xã phải nắm được sản phẩm để đảm bảo được phân phối kết hợp được
1 Phan Đại Doãn.
2 Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình, Địa chí Hòa Bình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005, tr.443.
11
11
hài hoà 3 lợi ích, nhất là vấn đề phân phối theo lao động 3. Đối với người lao
động, Chỉ thị 100 khuyến khích mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản
xuất và thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng. Chỉ thị 100 đánh dấu bước tiến
đột phá đầu tiên trong tư duy quản lý kinh tế, tạo động lực quan trọng thúc đẩy
quá trình Đổi mới trong nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế sau này.
Tuy nhiên, các động lực mới này suy giảm nhanh chóng. Sản xuất nông
nghiệp bắt đầu chững lại và có chiều hướng giảm sút vào những năm 19861987. Sản xuất nông nghiệp không ổn định, nhiều mặt giảm sút, trái ngược với
xu hướng phát triển của thời kỳ 1981 - 1985. Phương thức giao khoán, định mức
khoán, phương án phân phối sản phẩm theo cơ chế 100 không thống nhất, dẫn
đến sự tuỳ tiện trong vận dụng, làm thiệt hại đến lợi ích người nhận khoán.
Nhu cầu bức bách của thực tiễn được Đảng đáp ứng bằng việc ban hành
Nghị quyết số 10 NQ/TW ngày 5- 4 - 1988 của Bộ Chính trị Ban chấp hành
Trung ương Đảng về Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, có tác dụng trực tiếp
và sâu sắc, tạo ra những chuyển biến căn bản và sâu rộng trong quá trình phát
triển nông nghiệp và nông thôn nước ta. Đây cũng là tiền đề cho sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở vùng người Mường trong những năm sau này
Nhiều loại tư liệu sản xuất quan trọng như trâu bò, máy móc được giao
khoán cho xã viên. Xã viên được chủ động thực hiện các khâu canh tác, hợp tác
xã chuyển sang làm dịch vụ theo yêu cầu của xã viên. Xã viên sở hữu phần lớn
sản phẩm làm ra, nộp cho hợp tác xã chi phí dịch vụ và quản lý, nộp thuế nông
nghiệp cho nhà nước. Cho đến cuối năm 1988, hợp tác xã không còn là một cấp
kế hoạch, một trung tâm điều phối sản xuất như trước. Cơ chế bao cấp trong hợp
3 50 năm Ban Kinh tế Trung ương (1950- 2000). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000.
12
12
tác xã nông nghiệp được xoá bỏ dần. Hợp tác xã điều hành ở khâu thuỷ nông và
bảo vệ thực vật, điều đó là hợp lý, được xã viên đồng tình, vì ở những khâu này
từng hộ xã viên không thể tự giải quyết được. Vai trò điều hành của hợp tác xã
có bị thu hẹp nhưng vẫn quan trọng ở chỗ tạo ra sự liên kết mới giữa hợp tác xã
với từng hộ xã viên trong khâu dịch vụ hợp đồng khoán, hai bên cùng có lợi.
Chức năng của đội trưởng sản xuất cũng thay đổi, chủ yếu làm nhiệm vụ theo
dõi, đôn đốc xã viên thực hiện nghiêm túc những hợp đồng kinh tế với hợp tác
xã.
Từ sau đổi mới (1986), về nguyên tắc ruộng đất thuộc quyền sở hữu của
nhà nước, nhưng được giao cho hộ gia đình sử dụng lâu dài từ 10 năm đến 15
năm Vào đầu những năm 80, để cải thiện tình trạng làm ăn không có hiệu quả
của các hợp tác xã nông nghiệp, chính sách khoán 100 ra đời, trao cho người lao
động quyền làm chủ 3 khâu trong quy trình sản xuất nông nghiệp là cây trồng,
chăm bón, thu hoạch. Chính sách này đã kích thích người dân đầu tư vào những
mảnh ruộng nhận khoán nhằm thu về sản lượng cao hơn mức quy định của hợp
tác xã. Sau Đại hội Đảng VI, nhiều chính sách về ruộng đất được ban hành và
thực hiện. Bước đầu đánh dấu quan trọng cho việc sử dụng đất của người dân là
Nghị quyết 10 và Luật đất đai, với việc quy định cho người sử dụng đất có 5
quyền. Cùng với nhiều văn bản pháp lý về ruộng đât và sản xuất nông nghiệp có
giá trị khác, người nông dân hoàn toàn yên tâm đầu tư nhân lực và vật lực vào
đất đai để được thu được sản lượng cao nhất.
4.1.3 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng
13
13
Công cuộc Đổi mới với chính sách Khoán 10 trong nông nghiệp là bước
quan trọng của quá trình giải thế hợp tác hóa đã tác động mạnh mễ tới đời sống
kinh tế nông nghiệp của người Mường. Trong canh tác đã có những tăng cường
đầu tư về khoa học kỹ thuật: khâu giống chuyển từ cấy lúa nếp truyền thống sang
giống nếp tạp giao của Trung Quốc, ngô chuyển sang trồng giống mới
BIOCEED; khâu làm đất đã thuê máy làm đất ở các khâu cày vỡ, bừa; đầu tư
phân bón như lân, đạm cho cây trồng. Cơ cấu cây trồng đã có sự thay đổi như
cây lúa không còn ở vị trí độc tôn, cây mía hiện đang chiếm ưu thế. Cơ cấu cây
trồng đã có sự thay đổi trong 10 năm trở lại đây. Bên cạnh đó, để phục vụ phát
triển nông nghiệp, nhiều địa phương đã có đội ngũ dịch vụ như công ty vật tư
nông nghiệp cung ứng các loại giống, phân bón, thuốc trừ sâu…nhưng hoạt động
vẫn còn mang nặng tính bao cấp và hoạch toán theo kinh tế xã hội chủ nghĩa1
Bên cạnh canh tác lúa nước, người Mường còn có nguồn thu lương thực từ
nương rẫy. Ở những khu vực đất đai màu mỡ họ có thể trồng lúa nương và căn
cứ vào điều kiện đất canh tác mà có thể trồng ngô, sắn, rau, đậu…Đây được coi
là nguồn lương thực quan trọng, đặc biệt là cây thực phẩm. Nương rẫy được làm
trên các đồi và núi đất xung quanh làng. Ở một số khu vực thung lũng núi, do
diện tích ruộng nước hẹp nên người Mường lại chuyển sang làm nương là chủ
yếu. Họ có tiêu chí để phân loại đất tốt xấu và dựa trên những đặc điểm đó để có
cách thức làm đất và chọn giống gieo cấy phù hợp.
Trong “Tri thức địa phương của người Mường trong sử dụng và quản lý
tài nguyên thiên nhiên” của Nguyễn Ngọc Thanh và Trần Hồng Thu đã mô tả và
phân tích rất cụ thể việc dử dụng tri thức địa phương vào loại hình canh tác
nương rẫy của người Mường. Người Mường ở Tân Lạc - Hòa Bình chủ yếu canh
1 Theo Báo cáo đề tài “Biến đổi về xã hội và văn hóa của người Mường tỉnh Hòa Bình dưới tác động của kinh tế
thị trường 1986 – 2004”, Tòa soạn tạp chí Dân tộc học, Hà Nội, 2005
14
14
tác nương rẫy bởi diện tích lúa nước rất hạn chế. Họ có thể trồng lúa và màu.
Một thời gian khi đất đã kém màu mỡ, họ chuyển sang trồng các loại màu như
ngô, sắn, dong giềng, rau đậu các loại…Người Mường ở Thu Cúc – Tân Sơn –
Phú Thọ lại phân loại nương theo cây trồng là nương lúa (trồng lúa nếp hoặc lúa
tẻ) và nương màu (trồng các loại rau đậu, bầu, bí, lạc, ngô…) và địa hình của
nương (nương dốc và nương bằng). Người Mường ở Bá Thước hay Cẩm Thủy –
Thanh Hóa đều bắt đầu việc phát đốt nương vào tháng 1 Âm lịch và tiến hành
trồng bông, lúa, sắn…Người Mường ở Kim Bôi – Hòa Bình thường trồng các
loại mía, dưa hấu và bong ở trên nương.
NóiNhin chung, tùy điều kiện đất đai từng vùng mà cơ cấu cây trồng màu
có sự thay đổi. Có vùng trồng cả hai vụ ngô và lạc như ở xã Cúc Phương (Nho
Quan, Ninh Bình), có nơi chỉ trồng được một vụ (Yên Thủy, Hòa Bình). Có vùng
thiên về trồng sắn như Thạch Yên, Thạch Lâm (Thạch Thành, Thanh Hóa),
nhưng có vùng lại có điều kiện trồng các loại đậu, đỗ, khoai sọ (Yên Thủy, Hòa
Bình)1. Có thể nói, những nông sản thu được từ nương rẫy đến nay vẫn đóng vai
trò quan trọng trong đời sống của người Mường. Bên cạnh đó, ngày nay người
Mường còn trồng rau sạch, hoa, cây cảnh để cung cấp cho thị trường Hà Nội đặc
biệt là người Mường ở Lương Sơn – Hòa Bình.
Bên cạnh đó, lâm nghiệp cũng là ngành kinh tế quan trọng của người
Mường. Người Mường ở Kim Bôi -– Hòa Bình có diện tích rừng chiếm 33.1%
tổng diện tích. Mấy năm gần đây, nhờ các chương trình PAM, 327, dự án rừng
đặc dụng, dự án 661, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng cung cấp vốn cho việc
trồng và bảo vệ rừng, đặc biệt là khoanh nuôi tái sinh rừng. Diện tích trồng rừng
tăng cao và diện tích cây ăn quả cũng lên tới 130ha. Người Mường ở Lương Sơn
1 Trần Hồng Thu, Sđd, 2000
15
15
– Hòa Bình còn vận động nông dân cải tạo đất trống, đồi trọc, mở rộng diện tích
bằng việc trồng các loại cây màu có giá trị hàng hoá. Nhiều gia đình đã tận dụng
đất hoang, cải tạo vườn đồi để trồng các loại cây ăn quả: vải, nhãn..., hoặc sử
dụng hàng nghìn hecta đất tự nhiên để trồng tre, luồng, keo tai tượng, bạch đàn,
do đó đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công tác chăm sóc bảo vệ rừng tự nhiên và
rừng đầu nguồn được chú trọng, góp phần nâng cao tỉ lệ che phủ rừng đạt mức
44%. Huyện tích cực chỉ đạo các địa phương phát triển các mô hình kinh tế trang
trại, kết hợp trồng trọt, chăn nuôi, góp phần giải quyết số lao động dôi dư và tăng
thu nhập cho kinh tế hộ. Toàn huyện hiện có hơn 300 trang trại với qui mô từ 1
ha trở lên, trong đó có một số trang trại đã mang lại hiệu quả kinh tế ban đầu.
Người Mường Phú Thọ, ngoài sản xuất lúa, gạo, tỉnh còn trồng các cây công
nghiệp đặc sản như chè, cọ, dứa, sơn trong đó cây chè chiếm hơn 90% diện tích
trồng cây công nghiệp lâu năm và là cây kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Sơn là cây
công nghiệp truyền thống của tỉnh.
Nhìn chung, cơ cấu cây trồng của người Mường đã có nhiều thay đổi. Sự
chuyển đổi này ở mỗi vùng Mường lại có nét riêng, chẳng hạn ở Hòa Bình, trước
hết, cây lúa không còn ở vị trí độc tôn. Cây mía hiện tại đang có nhiều ưu thế,
tuy nhiên vẫn là cây của các gia đình khá giả, bởi trồng loại cây này cần phải có
đầu tư. Thông thường, với 1.000 ha diện tích, cần đầu tư khoảng 20 kg đạm, 50
kg lân và mỗi vụ phải phun thuốc sâu 2 lần (chi phí khoảng 40.000 đ). Cây ngô
lai cũng đang được chú ý và loại này có thể trồng luân canh với mía. Trồng ngô
lai trong vườn là cách làm mới, khác với truyền thống chỉ trồng giống ngô địa
phương trên nương rẫy
16
16
Trồng rừng cũng là một trong những việc làm xuất hiện chưa lâu ở người Mường
xã Phong Phú. Theo hoạt động của dự án PAM, cả xóm có khoảng hơn 20 hộ
trồng rừng nguyên liệu giấy.
Đây cũng là thời kỳ kinh tế trang trại được khuyến khích phát triển. Nhiều
hộ gia đình đã cải tạo vườn, trồng các loại cây ăn quả có năng xuất, giá trị kinh
tế như nhãn, vải, hồng, xoài, na, đồng thời biết sử dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích mầm, quả ...của các chương trình khuyến
nông: APE, AFAP..., tạo thế ổn định về lương thực thực phẩm, tăng nhanh khối
lượng sản phẩm hàng hoá nông nghiệp.
Đi đôi với sản xuất nông nghiệp, công tác lâm nghiệp bắt đầu có chuyển
biến mới. Ngoài những cây phân tán được trồng hàng năm, với mục tiêu phủ
xanh đất trống đồi trọc, các hộ gia đình đã dần chuyển sang nhận đất rừng, trồng
mới và khoanh nuôi chăm sóc bảo vệ rừng theo hướng phát triển kinh tế vườn
rừng. Hầu hết đất đồi rừng đã có chủ. Việc giao đất giao rừng đến hộ xã viên đã
làm cho ý thức trách nhiệm của người dân tăng lên, hạn chế được việc phát rừng
bừa bãi, góp phần phủ xanh đồi rừng.
Ngành chăn nuôi trong những năm đổi mới cũng phát triển nhanh. Bình
quân mỗi hộ có 1 con trâu, bò; nhiều hộ nuôi từ 3 - 4 con. Nhờ cơ chế khoán
mới, đàn trâu, bò của các huyện tăng nhanh: năm 1988 - 1989 đàn trâu bò có
khoảng 68.734 con, năm 1990 -1993 đàn trâu bò tăng tới khoảng 77.558 con.
Đàn lợn cũng tăng lên đáng kể từ 18.623 con (1989), 281.549 con (1993). Sản
lượng thịt đạt 23.550kg/năm. Một số hộ nuôi từ 5 -10 con lợn. Ngoài ra, đàn gia
cầm cũng phát triển mạnh ở cảc khu vực tập thể và hộ gia đình. Có thể nói trong
17
17
lĩnh vực chăn nuôi trong những năm thực hiện đổi mới đã phát triển nhanh, theo
hướng chuyển đổi vật nuôi, thích nghi với cơ chế thị trường, góp phần tạo việc
làm.
Trong thời kỳ đổi mới, sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt được một số kết
quả. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được chú ý. Một số xí nghiệp quốc
doanh đã chủ động gắn sản xuất với vùng nguyên liệu, trong đó một số chỉ tiêu
quan trọng có mức tăng trưởng đáng kể như sản xuất khung xe đạp, liềm hái,
diệp cày... Sau khi có chính sách mới của Nhà nước về thủ công nghiệp, toàn
tỉnh có thêm 7 hợp tác xã thủ công nghiệp, 46 tổ sản xuất, thu hút và tạo việc làm
cho gần 3 ngàn lao động.
Trong thời kỳ đổi mới, do các ngành nghề được mở rộng, đồng thời sử dụng
hợp lý cơ cấu thành phần kinh tế, coi trọng sản xuất của các hợp tác xã thủ công
nghiệp, các hình thức tổ hợp tư nhân và kinh tế gia đình nên sản xuất tiểu thủ
công nghiệp phát triển mạnh, chiếm tỷ trọng lớn, tạo ra khối lượng hàng hoá lớn
đáp ứng nhu cầu của người dân và thị trường trong, ngoài tỉnh.
Theo đà phát triển của kinh tế trong 10 năm của thời kỳ đổi mới, quá trình
xây dựng cơ sở hạ tầng đã diễn ra với tốc độ nhanh. Đa số các công trình công
cộng kiên cố của các xã, huyện như hệ thống thuỷ lợi, trường học, trạm điện,
đường giao thông được xây dựng vào thời kỳ này. Cùng với sự phát triển của cơ
sở hạ tầng, đời sống vật chất của các hộ gia đình cũng ngày một nâng cao. Nhờ
có sự tăng trưởng về kinh tế mà từng năm số hộ nghèo đói cũng giảm đi đáng
kể. Nhìn chung lại, đặc điểm cơ bản của thời kỳ này là Vĩnh Phú trong đó có tỉnh
Vĩnh Phúc hiện nay cùng cả nước bắt đầu công cuộc đổi mới, đang trong quá
trình thử nghiệm ban đầu và tập trung chủ yếu vào việc khai thác nội lực để phát
18
18
triển nông nghiệp, củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác
xã, đồng thời bắt đầu khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh
cùng phát triển trên các lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
Những đổi mới trong lĩnh vực kinh tế tập trung chủ yếu vào đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế ở cấp tỉnh. Hướng chủ yếu trong thời kỳ này là mở rộng
quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của các cơ
quan quản lý nhà nước vào hoạt động tác nghiệp của các đơn vị cơ sở. Sự bao
cấp của tỉnh (trên cơ sở sự bao cấp của Nhà nước), đặc biệt là sự bao cấp đối với
các đơn vị kinh tế, đã được từng bước giảm bớt. Những đổi mới này được thực
hiện trên cơ sở các chính sách chung của Nhà nước. Nhìn chung, trong giai đoạn
này, tỉnh đã có những chủ động nhất định trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
và điều hành xã hội, nhưng chủ yếu vẫn là tích cực triển khai các chính sách
chung của Nhà nước. Tác động của nhiều năm thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập
trung bắt đầu được khắc phục dần trên những lĩnh vực chủ yếu. Về kinh tế, Tỉnh
vẫn tiếp tục tìm kiếm phương án chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, trong
thời kỳ này, nông nghiệp luôn là trọng tâm, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh
tế của tỉnh và thu hút một lượng lớn các nguồn lực của tỉnh.
Trong nông nghiệp, tỉnh tiếp tục chính sách khoán, tạo sự chủ động rộng
rãi cho kinh tế hộ, hỗ trợ họ thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao tính chất hàng hoá của sản
xuất nông nghiệp. Tỉnh cũng đã chú trọng tìm kiếm cơ cấu cây trồng, vật nuôi để
hình thành những sản phẩm mũi nhọn cho mình. Quá trình phát triển nông
nghiệp của gắn với việc phát triển kinh tế hợp tác, củng cố lại các hợp tác xã
nông nghiệp.
19
19
Cuối giai đoạn này, việc thu hút đầu tư từ ngoài tỉnh đã được triển khai
trên thực tế. Tuy nhiên, các chính sách chưa được ban hành một cách đồng bộ
và có hệ thống.
1.2
Thiết chế xã hội.
1.2.1. Thiết chế xóm, mường
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, xã hội người Mường nằm trong
khuôn khổ một xã hội có đẳng cấp. Trong đó mỗi con người được chính danh
định phận chặt chẽ. Quý tộc gọi là Lang, bình dân gọi là Dân. Thiết chế xã hội
trong xã hội cổ truyền ở người Mường nói chung là xóm và mường. ở đó hình
thành một bộ máy quản lý, điều hành theo luật tục, mọi thành viên trong cộng
đồng xóm, mường phải tuyệt đối tuân thủ. Nơi cư trú của người Mường được gọi
bằng từ quêl hoặc xóm. Quêl hay xóm đều có nghĩa là làng. Làng là đơn vị cơ sở
của xã hội Mường gồm nhiều tiểu gia đình phụ quyền mà tế bào gia đình là cha
mẹ và con cái, trong đó quyền thế tập thuộc về con trưởng. Mỗi làng của người
Mường thường quần tụ nhiều dòng họ, trung bình mỗi làng có 4-5 dòng họ.
Hiện nay kết cấu dân làng có cùng một huyết thống hầu như không còn nữa.
Hình thức bố trí nơi cư trú của người Mường cũng rất đa dạng: làng có thể thiết
lập ở sườn đồi, nhà cửa bố trí từ chân đồi lên lưng chừng đồi thành hình vành
khăn. Nếp nhà chính là nhà sàn, tựa lưng vào núi, mặt ngoảnh ra đồng ruộng. ở
những vùng tiếp giáp với người Việt, ngôi nhà sàn cổ truyền về cơ bản bị thay
đổi chức năng, trở thành công trình phụ. Nếp nhà chính là ngôi nhà đất hay nhà
xây nằm ở phía trong cùng mảnh vườn, tiếp đến là cái sân hẹp, một dãy nhà
ngang mà đầu hồi của nó sát với nếp nhà chính. Bếp, chuồng lợn, chuồng trâu
20
20
dựng kề sát với đường, vách (tường hậu) quay lưng ra đường làng.
Tên làng thường đặt theo đặc điểm, địa hình tự nhiên. Mỗi làng có một
miếu thờ thổ công, bến nước chung, bãi thả trâu, bãi tha ma và cùng chung một
hệ thống thuỷ lợi. Làng có ranh giới riêng, mặc dù chỉ mang tính ước lệ nhưng
được truyền lại qua nhiều thế hệ. Người Mường thường dựa vào dòng nước
sông suối, hòn đá, gốc cây to, để phân chia địa giới. Khu vực đất đai thiên nhiên
chung của làng đã được xác lập một cách bền vững, ngoài đất ở là đất sản xuất
và núi rừng được các thành viên của làng biết rõ, được các thành viên của làng
khác tôn trọng. Ruộng đất của làng nào thuộc quyền sử dụng của làng đó. Người
dân của làng này không thể sản xuất trên đất đai cũng như thu hái lâm thổ sản
trên rừng của làng khác. Người di cư đi nơi khác không còn có quyền lợi về đất
đai ở làng cũ. Xưa kia hiếm thấy hiện tượng xâm chiếm đất đai giữa các làng ở
kề nhau. Luật tục Mường qui định: người làng khác đến bắn thú, nếu con thú
trúng đạn phải chia một nửa phía nằm dưới đất cho lang ở làng đó. Hoặc một
người nào đó thuộc làng khác bắt gặp một loài ong làm tổ trên mặt đất, được
quyền chiếm làm của riêng nhưng phải biếu lang một ít sâu, lấy ở tầng dưới
cùng trong lòng đất. Những hiện tượng này, phải chăng biểu hiện của quyền
chiếm hữu đất đai mà đại diện thuộc về lang.
Tính cộng đồng và tính tập thể cũng là đặc điểm nổi bật ở người Mường.
Đặc điểm đó thể hiện trên nhiều mặt trong đời sống của làng. Các hình thức sản
xuất tập thể được hình thành phổ biến và có ý nghĩa không nhỏ đối với từng đơn
vị kinh tế gia đình. Một trong những đặc điểm của tổ chức nhóm lao động là
không định thành phần tham gia, mà chỉ tập hợp nhất thời từng vụ, từng việc
theo sự tự nguyện của các thành viên, nó đáp ứng yêu cầu cấp bách về thời vụ về
nhân lực. Trong canh tác nương rẫy và làm ruộng đều cần đến lao động tập thể ở
21
21
một số khâu công việc. Vì vậy hình thức lụ nhau (đổi công), nhiều nhà đến làm
cho một nhà vào các dịp mùa vụ với một số công như nhau vẫn được duy trì. Hết
thời vụ mà gia đình nào đó chưa kịp trả hết công cho nhà khác, có thể để lại vào
dịp khác. Những gia đình neo đơn, gặp hoạn nạn được dân làng giúp đỡ và
không tính toán thiệt hơn. Những lúc mất mùa, đói kém, người trong làng thường
cưu mang nhau, nhà nào có của ăn, của để sẵn sàng cho nhà thiếu ăn một, hai
yến thóc, năm, bảy cân gạo, ít cũng vài cân ngô, cân sắn và coi đó là trách
nhiệm chứ không phải là ban ơn làm phúc. Khi có một người qua đời, cả làng
đến lo giúp tang chủ việc mai táng. Đám cưới coi như sự kiện vui chung, dân
làng đều được gia đình mời đến dự, và tuỳ theo khả năng của mỗi nhà mà có
chút quà mừng bằng gạo, hoặc bằng tiền..v.v.
Cùng với việc đổi công, hợp tác giúp đỡ nhau, những qui định chung trong
sinh hoạt của làng cũng được tôn trọng. Trước đây, khi bắt đầu vụ sản xuất,
người ta thường nhắc nhở nhau bảo vệ mùa màng, không để gia súc phá hoại hoa
màu, không vào rừng hái măng ngoài những ngày đã qui định, bẫy thú phải
thông báo cho người trong làng biết và chỉ được đặt bẫy ở những nơi xa làng, giữ
gìn vệ sinh nguồn nước ăn công cộng.
Việc quản lý ở làng xưa, là tạo (theo cách gọi ở Hoà Bình)thổ lang hay còn
gọi là lang (theo cách gọi ở Phú Thọ). Họ là anh em ruột thịt của dòng họ ngài
hoặc lang cun, đạo Mường thuộc ngành thứ. Giúp thổ lang hay tạo có khán, ậu.
Mọi công việc của thổ lang, tạo trong quản lý làng đều phải xin ý kiến của
ngài, lang cun, đạo Mường và hàng năm thổ lang, tạo phải có nghĩa vụ đóng góp
lễ vật cho ông ta. Khi bố mẹ ngài chết thì các thổ lang phải chịu tang như bố mẹ
mình. Ngoài các chức vụ trên đây trong hệ thống tự quản của làng còn có người
già, các chủ gia đình, các trưởng họ.
22
22
Mường là đơn vị tổ chức xã hội, tập hợp nhiều làng trong cùng một thung
lũng, hay nhiều thung lũng liền kề nhau. Đơn vị tổ chức này đặt dưới sự cai quản
của một dòng họ quý tộc mà người Mường vẫn gọi là "nhà lang". Tầng lớp
thống trị nhà lang, tập hợp thành những dòng họ phụ hệ, mỗi dòng họ chiếm lĩnh
một mường. Mỗi dòng họ nhà lang tự phân biệt với các dòng họ khác không chỉ
bằng mường họ chiếm lĩnh mà còn bằng một tên họ ( Đinh, Quách, Bạch, Hà,
Hoàng..).
Tầng lớp “bị trị” thường có chung một tên họ là Bùi, bất kể là người thuộc các
chi họ nào đi nữa. Như vâỵ, Bùi, thực ra, không còn là tên họ mà vô hình chung
đã trở thành tên chỉ “tầng lớp” bị trị. Dân Mường đương nhiên thừa nhận sự
thống trị của nhà lang.
Tổ chức bộ máy thống trị trong từng "mường", do "nhà lang" thiết lập theo
thể thức, con trai cả của chi nhánh cả trong dòng họ nhà lang trên danh nghĩa
quản toàn mường dưới danh hiệu ngài, hoặc thổ tù. Mặc dầu, trên thực tế, ông ta
chỉ trực tiếp quản một số làng ở trung tâm mường mà người ta gọi là chiềng,
giúp việc cho họ là một vài người thân tín, không có bộ máy giúp việc( ậu), như
ở một vài nơi khác.
Quan hệ giữa những thổ lang quản các làng với ngài, lang cun, đạo mường,
trong phạm vi một mường là quan hệ giữa những người đại diện của các chi
nhánh thứ và chi nhánh cả, trong phạm vi một dòng họ.
Để duy trì quyền lợi của mình, "nhà lang" đề ra các quy định và quản lý
dân theo các quy định đó. Hàng năm nếu nhà lang có việc gì lớn (cưới, làm
nhà...), dân trong mường phải có nghĩa vụ đến giúp. Nếu làm nhà mới thì mỗi
nhà trong mường tự giác mang tre, nứa, lá cọ đến nộp cho "nhà lang".
23
23
Nhà lang cưới vợ gả chồng cho con trai, con gái thì dân mường có nghĩa vụ
đến làm mọi việc phục dịch cho đám cưới đồng thời thuỳ theo khả năng của từng
gia đình mà có thể mang một, hai con gà hoặc vài lít rượu, một tấm vải gọi là
góp cho nhà lang. Trong trường hợp nếu nhà lang có bố, mẹ chết thì dân trong
mường phải đến lo giúp việc chôn cất. Nếu ngài, lang cun, đạo mường không
may qua đời trước hết các lang xóm đều phải đến chịu tang như chính bố, mẹ
mình chết, ngoài ra họ còn đóng góp cho lễ tang tuỳ từng nơi mà lễ vật có thể
nhiều hay ít.
Mỗi khi trong làng, trong mường có gia đình nào làm nhà mới, tổ chức
đám cưới hoặc có tang đều phải mời nhà lang đến dự và khi ra về ông ta được
biếu 2kg thịt lợn, hoặc 1 con gà, 1 chai rượu. Dân có việc mổ trâu, bò, lợn đều
phải biếu nhà lang một vai. Săn được thú rừng phải đem đến biếu nhà lang theo
thể thức "vác tru, lu-nai" (trâu nộp vai, nai nộp đùi sau). Về ruộng đất, nhà lang
là người có nhiều ruộng đất nhất trong mường. Ruộng của nhà lang như xưa
người ta thường nói trâu kéo cày đến đâu thì ruộng nhà lang kéo đến đó, khi
trâu kéo đứt chạc mới hết ruộng nhà lang. Điều này chứng tỏ nhà lang là người
chiếm nhiều ruộng nhất trong vùng. Trước đây ruộng của nhà lang là do dân
trong mường làm. Toàn bộ sản phẩm thu hoạch thuộc về nhà lang dân chỉ được
cho ăn một bữa hôm cày, cấy.
Nhà lang còn là người đứng đầu về mặt tôn giáo, dân Mường coi ông ta là
người đại diện cho mình tiếp xúc với thần thánh. Vì thế trong nhiều nghi lễ của
mường, làng nhất thiết phải có mặt nhà lang
Tóm lại điểm nổi bật nhất trong xã hội vùng Mường trước Cách mạng
tháng Tám 1945 là sự tồn tại của chế độ nhà lang.
24
24
Sau khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng (1954), chế độ nhà lang
không còn nữa. Người nông dân có ruộng đất tự do làm ăn, sinh sống và bình
đẳng về mọi mặt. Tổ chức xã hội theo cơ cấu làng, xã, huyện, tỉnh. Xã hội được
quản lý bởi hệ thống hành chính thống nhất trong toàn quốc, có Hội đồng nhân
dân là cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân trong xã, có Uỷ ban nhân
dân điều hành công việc hành chính, bên cạnh đó có tổ chức Đảng ( Đảng uỷ
xã). Ngoài ra còn có các tổ chức đoàn thể như: Thanh niên, Phụ nữ, Hội nông
dân.v.v. Bên cạnh việc quản lý xã hội bằng luật pháp của Nhà nước, thì ở một
mức độ nhất định, vai trò của tập quán pháp vẫn còn tác động ít nhiều.
1.2.2.Gia đình và hôn nhân.
Hiện nay, gia đình của người Mường đang thực hiện nhiều chức năng quan
trọng trong các lĩnh vực đời sống, tác động rất lớn đến sự phát triển xã hội, đến
tư tưởng và ý thức tộc người.
Với người Mường hình thức gia đình phổ biến là loại hình gia đình nhỏ
(gia đình hạt nhân, gia đình đơn giản, gia đình cá thể, gia đình một vợ, một
chồng, gia đình hiện đại). Trong đa số trường hợp đó là những gia đình nhỏ trọn
vẹn hai thế hệ, bao gồm một cặp vợ chồng cùng con cái chưa có hôn nhân, hoặc
không có con. Quá trình hình thành các gia đình nhỏ (hai thế hệ) diễn biến theo
các chiều huớng khác nhau. Thứ nhất, theo truyền thống, những gia đình có
nhiều con trai sau khi một trong những người con trai đó (trừ con trai cả) lấy vợ,
cặp vợ chồng mới cưới đó được bố mẹ cho ra ở riêng cùng với ruộng đất, tài sản
do bố mẹ chia cho. Thứ hai, do vai trò của kinh tế hộ được thừa nhận (kể từ khi
thực hiện khoán 10) gắn liền với nó là việc giao đất giao rừng theo hộ, chính
25
25