THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
THƠ VÀ MẤY VẤN ĐỀ
TRONG THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Tác giả: HÀ MINH ĐỨC
LỜI VIẾT
NHÂN DỊP SÁCH ĐƯỢC TÁI BẢN
Đã hơn hai mươi năm trôi qua kể từ khi cuốn Thơ và mấy vấn đề trong
thơ Việt Nam hiện đại được xuất bản (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974).
Đến nay NXB Giáo dục cho in lại cuốn sách này nhằm phục vụ nhu cầu
nghiên cứu, học tập của học sinh, sinh viên và giáo viên các trường đại học,
cao đẳng và phổ thông. Thơ ca trong những năm gần đây đã có nhiều đổi
thay, nhiều sáng tạo mới. Tuy nhiên, điểm xuất phát về lí luận thơ và những
chuẩn mực có tính nguyên tắc về thể loại thơ trữ tình vẫn được giữ vững.
Trong lần tái bản này trừ việc tước bỏ một số câu chữ về cơ bản tôi vẫn giữ
nguyên như lần in đầu để đảm bảo tính nhất quán và không khí của thời điểm
lịch sử đã qua.
Hà Nội, 10–12–1996
HÀ MINH ĐỨC
LỜI NÓI ĐẦU
Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại là một công trình
nghiêng về lí luận thơ. Tìm hiểu lí luận về thơ, cái khó khăn đến ngay từ bước
đầu khi cần xác định một định nghĩa vì thơ. Thơ là gì? Thật khó để tìm được
một cách giải thích đầy đủ vì thơ tuy xưa nay người ta đã bàn luận khá nhiều.
Trong thực tế có hàng trăm định nghĩa về thơ nhưng chưa có ý kiến nào thực
sự thống nhất với nhau. Sở dĩ thế vì phẩm chất của thơ giàu có, hình tượng
thơ đa dạng, luôn biến hóa, và phức tạp hơn là các nhà thơ và lí luận về thơ
luôn đứng ở những góc độ khác nhau về quan điểm giai cấp, thị hiếu thẩm
mĩ, bản sắc dân tộc và nội dung thời dại, để bàn luận về thơ. Tuy nhiên giải
thích được đúng đắn sự khác nhau chính là giường mối đầu tiên để tìm ra sự
gặp gỡ. Quan điểm lí luận văn nghệ của chủ nghĩa Mac – Lênin, đường lối
văn nghệ của Đảng, quan điểm cách mạng về thơ của Bác Hồ và một số các
đồng chí lãnh đạo là những cơ sở và tiêu chuẩn vững chắc soi sáng và giúp
đỡ cho chúng tôi đi vào tìm hiểu về thơ. Sự phát triển rất phong phú và lâu
đời của truyền thống thơ ca dân tộc, bước phát triển mới tốt đẹp và nhiều
thành tựu của thơ ca cách mạng thời kì hiện đại là những thực tế sinh động
và giàu ý nghĩa đã thôi thúc và động viên chúng tôi suy nghĩ về mặt lí luận.
Với thơ có biết bao nhiêu vấn đề cần được đặt ra về lí luận. Có những vấn đề
đã được đề cập đến từ lâu và tưởng như rất quen thuộc nhưng lại luôn đòi
hỏi phải giải quyết với yêu cầu và nhận thức mới như các mối quan hệ giữa
hiện thực đời sống và thơ, thơ và văn xuôi, truyền thống và sáng tạo, nội
dung và hình thức trong thơ. Có những vấn đề lí luận khó và phức tạp, nhưng
mang ý nghĩa thời sự trực tiếp như chất suy tưởng và trí tuệ trong thơ, tính
hiện đại của thơ. Đà phát triển của các vần thơ cách mạng lại đặt ra yêu cầu
đi sâu vào lí luận tân tiến và cách mạng trong thơ. Trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi bị lôi cuốn vào những văn đề lí luận hấp dẫn, mới mẻ nhưng
cũng rất khó khăn, nên trong cuốn sách này chúng tôi tự hạn chế phạm vi
nghiên cứu trong khuôn khổ thơ trữ tình. Chúng tôi chưa có điều kiện để phát
biểu lí luận và nhận định về thơ châm biếm, thơ tự sự, thơ miền núi, thơ thiếu
nhi. Các đề tài trên đòi hỏi những công trình nghiên cứu riêng.
Trong tiến trình lịch sử, nền thơ cách mạng có rất nhiều thành tựu lại
luôn vượt lên, khởi sắc, qua từng chặng đường cách mạng.
Chỉ nhìn vào cấu tạo của các lực lượng sáng tác cũng thấy đội ngũ
thực là đông vui, sung sức. Lớp trước với các anh, chị: Tố Hữu, Chế Lan
Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Anh Thơ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Xuân
Sanh, Yến Lan…
Lớp cách mạng và kháng chiến với các anh: Hoàng Trung Thông,
Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Trần Hữu
Thung, Xuân Hoàng, Trinh Đường, Phạm Hổ, Bàng Sĩ Nguyên, Hoàng Tố
Nguyên, Hoàng Minh Châu, Nguyễn Viết Lãm, Minh Huệ.
Lớp chống Mĩ với các anh, các chị: Giang Nam, Thanh Hải, Thu Bồn,
Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa
Điềm, Xuân Quỳnh, Vương Trung, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Ngô
Văn Phú, Nguyễn Duy, Phan Thị Thanh Nhàn…
Thực tế phát triển phong phú của thơ ca thời kì hiện đại cũng như
truyền thống lâu đời của thơ ca Việt Nam là cơ sở chủ về lí để chúng tôi suy
nghĩ và đề xuất những vấn đề lí luận về thơ. Chúng tôi cũng kết hợp bước
đầu phát triển một số ý kiến về thơ ca Việt Nam thời kì hiện đại. Chắc chắn
chưa phải là những ý kiến được phát biểu một cách hệ thống theo gốc độ
nghiên cứu văn học sử mà chủ yếu là trên tinh thần vận dụng kết hợp giữa lí
luận và thực tiễn sáng tác. Chỉ với mức độ và giới hạn ấy công việc cũng
nhiều lần vượt trên khả năng của bản thân. Điều may mắn là chúng tôi luôn
được sự giúp đỡ và động viên nhiệt tình của các nhà thơ, nhà nghiên cứu mà
hôm nay khi đặt bút viết những dòng cuối cùng của tập sách, chúng tôi xin gửi
đến các anh Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Huy Cận, Xuân Diệu, Hoàng
Trinh, Tế Hanh những lời cám ơn chân thành. Những ý kiến của các anh đã
cổ vũ và biến lòng yêu thơ của tôi thành những nỗ lực thường xuyên, tự vượt
lên mình, đặc biệt với anh Chế Lan Viên, người đã viết những lời nhận xét
chân tình cho tập sách.
Mùa hè 1973
HÀ MINH ĐỨC
TỰA
Rồi sẽ có những quyển sách sâu sắc và sáng tạo độc đáo nữa xuất
hiện. Những quyển ấy sẽ có thêm ưu điểm này và đức tính nọ. Chúng sẽ…
Nhưng thôi, đầu tiên hãy có ngay cho chúng ta những tác phẩm như thế này.
Có gì đâu? Chỉ vì, mới hôm qua thôi, những quyển như thế còn ít lắm, ngỡ
như không có nữa.
Nghĩ có buồn không? Ở đất nước hàng nghìn năm thơ, hàng trăm thi
sĩ, thơ không những là hình thức phổ biến mà còn như là chủ yếu để thổ lộ
tâm tình, thế mà sao sách vở bàn luận về thơ ít ỏi làm vậy! Ít cho đến nỗi ai
nói gì về thơ thì ta cũng mặc, hay ừ ào cho nó xong chuyện rồi thôi.
Thơ… lơ… mơ. Cũng có lí do, là tuy làm thơ nhiều, nhưng ta không
trọng nó bao nhiêu. Chúng ta vẫn xem thơ là loại… như thế ấy, như thế ấy.
Nhưng lại cũng có một lí do ngược lại là lắm lúc ta lại thiêng liêng hóa nó,
thần bí hóa nó, thơ là… bất khả luận, bởi chưng là… bắt khả tri. Tôi có một
anh bạn thân, nhà thơ chân chính nữa, nhưng cứ nghe ai bàn gì về thơ là anh
giãy nảy lên rồi. Anh bảo:
“Thơ là lòng, là hồn, chứ có phải nghề ngỗng kĩ thuật gì mà cứ phải lí
luận, bàn cãi”. Anh thừa nhận có nghề họa, nghề kịch, nghề viết tiểu thuyết,
nghề đàn, nhưng nhất định không chấp nhận có nghề thơ.
Dù nghề hay hồn, thì xưa nay thơ vẫn là một địa hạt gây nhiều trở ngại
nhất cho sự thám hiểm của các nhà lí luận. Ở phương Tây, người ta đẩy thơ
qua phạm trù của bóng tối, cơn điên, tiềm thức, tôn giáo, dục tình… Thậm chí
lặng câm, câm mới là thơ thực. Thơ–có -thơ đã là như vậy. Đến như thơ–
phản–thơ, thơ–phi–thơ, theo các khẩu hiệu cuối cùng, thì còn rắc rối biết
ngần nào.
Nhưng chả phải đơn giản, dễ dàng gì hơn cho các nhà lí luận về thơ xã
hội chủ nghĩa. Chúng ta lại có cái khó khác của chúng ta. Từ xưa đến nay
chúng ta quen đồng nhất thơ với mộng với mơ, thế thì bây giờ sẽ thế nào đây,
khi cách mạng là thực tiễn, là hiện thực rõ ràng nhất? Xưa nay thơ là say, là
mê, nhưng cách mạng lại là tỉnh thức, tỉnh đến trong tiềm thức của mình. Một
bên thơ là chủ thể chủ quan, một bên cách mạng chính là khách quan, là lịch
sử. Một bên thơ là tiếng ru, tiếng hát, có khi là tiếng hát thầm trong phòng the,
mà nay cách mạng lại cần những lời hiệu triệu, những tiếng thét nữa, tiếng
thét to trước mặt quân thù hay ở giữa quảng trường. Làm thế nào đây? Mà vá
víu, gò gẫm, cưỡng ép, thì đâu có phải là lí luận. Nào có phải là cứ cộng năm
mươi phần trăm chất thơ và năm mươi phần trăm chất cách mạng thì ta sẽ có
thơ cách mạng một trăm phần trăm. Trong một lí luận thơ cách mạng chân
chính, thì không phải các yếu tố cách mạng hay thơ mỗi thứ đều nghèo đi một
nửa, mà chính ở đấy, thơ cũng giàu lên và cách mạng cũng giàu lên.
Phải nói là khi anh Hà Minh Đức, mấy năm trước đây, bắt tay vào công
trình khá công phu, khá đồ sộ này, thì anh đã thừa hưởng được một sự hỗ trợ
lớn. Đó là thực tiễn thơ, thực tiễn cách mạng vô cùng phong phú trên đất
nước ta gần ba mươi năm lại đây. Cuộc cách mạng ở ta có nhiều đặc điểm,
mà một đặc điểm khá quan trọng là nó đã tiến triển qua một thời gian rất đỗi
dài. Tính từ 1945 không thôi, thì đã hơn một phần tư thế kỉ. Chừng ấy thì giờ
đủ để xáo động tất cả các vấn đề, gốc hay là ngọn. Chừng ấy thì giờ đủ để
cho những vấn đề ta gạt đi lần trước thì nó lại xuất đầu lộ diện lần sau.
Chừng ấy thì giờ đủ chỗ cho nhiều vấn đề ta chưa bao giờ nghĩ đến hôm qua,
thì ngày mai bỗng phải đặt ra ráo riết, mỗi chặng đường lại có một cái mới
phát sinh. Có đủ thời cho tất cả.Có thời cho những nhà thơ cũ trước cách
mạng vứt đi cái cũ của mình. Rồi có thời cho chính những thi sĩ ấy trở thành
không chỉ là gạch mới, ngói mới, mà cả là cột mới nữa của ngôi nhà thơ cách
mạng. Cái thời cho những cây bút trẻ xuất hiện, rồi có thời cho những cây bút
trẻ ấy già giặn lên, thành chủ lực quân, trong khi một số khác chưa già mà đã
rụng với những cơn gió độc. Nhân văn – Giai phẩm. Có thời ta phải vờ quên
sự thầm thì nhí nhắt của cái riêng cố hữu để khẳng định tiếng nói mới của cái
chung cần khẳng định. Rồi lại có thời muốn cho cái chung được phong phú,
ta phải quay ra giải quyết ổn thỏa riêng chung, một người với mọi người. Có
thời nói đến hình thức là làm hại nội dung. Nhưng có thời song song với rượu,
là phải bàn đến cả vấn đề thay bình nữa đấy, không thì hỏng rượu. Miễn cho
tôi liệt kê các thời ấy ở đây. Nhưng ta hãy thử lật ngược vấn đề. Nếu tập lí
luận này viết vào thời chưa có vấn đề chống Mĩ nó sẽ thế nào? Liệu nó có thể
viết được về chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thơ một cách hùng hồn, vì
có cơ sở, như ở đây hay không? Nếu nó được viết vào thời chưa xây dựng
chủ nghĩa xã hội, thì nó lấy tài liệu đâu để khẳng định cho lí luận thơ viết về
hiện thực và cái mới. Nếu nó được viết vào lúc trên thi đàn lui tới chỉ có một
số tên tuổi trước cách mạng, cộng thêm những tên trước thời kháng chiến, thì
lí luận về lực lượng của nó có lúc rào rào những cây bút trẻ đang lên như bây
giờ?
Trong tham luận của mình tại Hội nghị chuyên đề về thơ Á–Phi họp ở
Êrêvan năm ngoái, tôi có ví thơ với một con sông đang chảy qua nhiều phong
cảnh khác nhau của lịch sử, và mỗi thời điểm mà nó đi qua đã cho con sông
thơ ấy một sắc thái riêng. Nó có thể là mặt hồ yên tĩnh nơi này mà lại là gềnh
thác nơi kia, là tiếng ru vỗ về nơi này mà lại là gào thét nơi khác. Tùy theo địa
hình. Tùy theo lịch sử. Nếu là sông, thì con sông Thơ Việt Nam (sông Hương
là nó mà sông Mã sông Hồng cũng là nó, nó là cửu Long chín dòng cuộn
sóng mà cũng là sông Thương nước chảy đôi dòng) – vâng, con sông Thơ
Việt Nam đã chảy qua quá dài thời gian, qua bao địa hình khác lạ. Điều ấy
giúp rất nhiều cho các nhà lí luận. Vẽ bản đồ con sông nọ không dễ đơn giản
xuôi chiều.
Quá trình cách mạng dài đẻ ra các vấn đề, nó như một thú lí luận vô
hình, bên cạnh các lí luận thành văn, lí luận hữu hình, và đồng thời nó đẻ ra
các tác giả, các tác phẩm, cái thực tiễn thơ, nó là một thứ lí luận sống. Hãy
nói đến thứ lí luận sống ấy truớc. Chúng ta ngày nay không những có tác
phẩm, tác giả, mà có tác giả thế hệ này đến thế hệ kia, tác phẩm tiêu biểu cho
đặc điểm này hay đặc điểm khác. Mỗi tác giả chúng ta lại có thể điểm từng
thời kì với khuynh hướng riêng trong giai đoạn ấy. Và nói đến một tác phẩm ta
có thể so sánh nó cùng bao tác phẩm khác tương tự, đối lập, hay bổ sung.
Chúng ta có một nền văn học, một nền thơ. Có đủ và có dư cho các nhà lí
luận làm nên lí luận. Đọc lên một câu thơ, nhắc đến một tên tác giả, ta biết
ngay nó chứng tỏ cho một luận điểm nào. Ngược lại, muốn dẫn một tác giả,
một tác phẩm để chứng minh cho một luận điểm nào, nhà lí luận không đến
nỗi trắng tay khi làm việc ấy. Cũng nhờ thế mà ai có khả năng thì khi làm lí
luận thơ Việt Nam, vô hình trung đã có thể làm văn học sử Việt Nam. Riêng
tập sách này. Phải nhận, ít nhiều nó cũng có dạng ấy đấy.
Nhưng ngoài thực tiễn các tác phẩm, các tác giả từ đó toát ra lí luận,
hay từ đó ta rút ra lí luận, thì anh Hà Minh Đức còn thừa hưởng một thực tiễn
khác khá quan trọng: ấy là những lời phát biểu, tuyên bố, lập luận về thơ,
phần lớn đã thành văn. Ngày nay ai quên được câu “Nay ở trong thơ nên có
thép” – cái câu đã thay đổi đời thơ (và cả đời người nữa chứ) của cả một thế
hệ thi sĩ. Và nếu ta yêu mến nhà thơ lớn Tố Hữu, thì ta phải đánh giá cao
những suy nghĩ lớn về thơ của anh, người đã nói thơ là tiếng nói đồng chí
đồng tình. Anh là người đầu tiên tìm ra chữ “dân–tộc–hiện–đại” không chia
cắt, không phải là do hai từ cộng lại. Và chúng ta không quên công lao của
Hoài Thanh, của Xuân Diệu kiên trì trong địa hạt lí luận thơ này từ kháng
chiến đến nay, từ những ngày Việt Bắc rừng nứa bờ tre, các anh đã chăm
chút từng câu thơ công nhân, từng câu thơ bộ đội.
Nhưng sự đóng góp quan trọng nhất cho lí luận thơ Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay, phải nói là bài Tựa tập thơ của Sóng Hồng (tác giả tự đề
tựa). Hình như chúng ta chưa đánh giá hết điều ấy. Ngoài cái giá trị nội tại lớn
lao của nó, bài tựa ấy còn mang thêm một giá trị khác là nó đến đúng lúc,
đúng thời. Đúng vào cái lúc chúng ta đang tranh cãi với nhau (hay tự thầm cãi
với mình) về nhiều vấn đề mà lại dè dặt, bảo thủ nữa trong cách giải quyết.
Cái tựa ấy đã đến và lên tiếng giúp ta trả lời. Không phải chỉ trả lời trên các
vấn đề đường hướng, chiến luợc, cơ bản, mà còn cả trong những vấn đề cụ
thể, chi tiết nữa kia (thơ là quả hay là hoa, là trí hay là tình, là thực hay là mơ,
có hùng ca nhưng có thể hay là không có tình ca, thơ có vần hay không vần,
tự do hay thể cũ là chủ thể). Tất cả chưa đầy bảy trang giấy nhỏ: “Thơ là một
vũ khí đấu tranh giai cấp kì diệu”, “Thơ tức là sự thể hiện con người và thời
đại một cách cao đẹp”, “Thơ cũng như nhạc có thể trở thành một sức mạnh
phi thường khi nó chinh phục được trái tim của quần chúng nhân dân”, “Thơ
là một viên ngọc kim cương long lanh dưới ánh sáng mặt trời”, “… thơ là nghệ
thuật kì diệu bậc nhất của trí tửởng tượng”. Những định nghĩa liên tiếp như
thế về thơ đã trả lại cho thơ cái giá trị lớn lao của nó, cổ vũ những người làm
thơ tiến lên, vì đã tin thêm ở hiệu lực vũ khí của mình. Họ nguyện sẽ vì cách
mạng, vì nhân dân, vì văn học, trau đổi và giữ gìn vũ khí ấy.
Từ đây trở lên trên, tôi đã kể qua những cái gì quý báu mà anh Hà Minh
Đức đã thừa hưởng để viết nên tập sách. Công của anh không phải chỉ có
thừa hưởng. Nhưng giá chỉ có thừa hưởng, biết cách thừa hưởng, thì cũng
quý lắm rồi! Vì có khi có tất cả đấy rồi, mà người ta có chịu thừa hưởng cho
đâu. Ví như đã có một hiện thực thơ Việt Nam phong phú, thế mà đến nay
vẫn có những bài lí luận nằm lại phía bên này đường ranh giới của sự trừu
tượng. Gọi những bài viết của họ vang động bởi các danh từ to lớn kia là xã
hội học dung tục hay cao sang, thuần túy hay pha loãng gì đó thì cũng cho
sinh chuyện, nhưng quả là các bài ấy viết cho thơ cũng được, viết cho tiểu
thuyết cũng xong mà viết cho một chỗ không thơ không tiểu thuyết nào thì
cũng đúng cả. Tác giả các bài ấy thích đi về trên các đại lộ quen thuộc, các
quảng trường nhẵn vết chân người – ở đó không có họ ta cũng biết lối đi. Còn
họ bỏ mặc ta ở những chỗ gai góc, khó khăn, ngõ hẻm hang cùng, khi ta cần
đến họ hỏi đường thì họ vắng mặt, à quên, thì họ… trừu tượng. Anh Hà Minh
Đức, tuy chưa thực mạnh dạn, chưa thực bao quát, nhưng cũng đã dám xông
vào các vấn đề hóc búa ấy: các vấn đề đặc trưng, hình thức, trực năng, phi lí,
ngữ ngôn. Xông vào và ra được.
Tôi cũng nhớ đến một loại lí luận khác, đã về trần, xuống tục rồi mà vẫn
muốn làm tiên, không hệ lụy, không dám cho áo mình trong vườn hoa thơ kia,
lại có thể rách vì một cành hoa và một chiếc gai nào! Tôi muốn nói đến các
nhà phê bình lí luận hay tránh né. Gọi họ là thẩm mĩ học từ xa hay gián cách,
thẩm mĩ học chiến lược hay đại cương gì đó thì cũng được đi, nhưng quả là
họ chung chung thật. Người ta chung chung ở lí luận, còn họ chung chung ở
một phía khác. Họ bàn về thơ hẳn hoi, tinh tế là đằng khác, có tâm hồn lắm,
nhưng cứ động đến một tên sách, tên người nào là họ chùn lại rồi. Họ tránh
các tác phẩm cụ thể, tác giả cụ thể như những tảng đá có thể đắm thuyền
mình. Cần phải dẫn chứng thì họ nhắc thơ nhân dân, thơ miền Nam, thơ em
Khoa cho xong chuyện.
Vì thế, tuy có thiếu sót chỗ này chỗ khác, có những điểm ta có thể
không đồng tình, nhưng nói chung Hà Minh Đức đã dám (!) đánh giá cao cái
thực tế thơ, thực tế văn học nước mình. Anh đọc khá nhiều sách nước ngoài
đấy nhưng không phải vì thế mà trở nên choáng mắt đi, và lúc về nhìn lại cụ
thể ở nhà, thì chỉ thấy một vùng lóa lóa.
Mùa lúa đã có. Cái công anh là biết bó lại, mang về. Bó những cái cần
bó và vứt những cái phải vứt. Anh đã vứt đi nhiều quan điểm không phải là ít
phổ biến lâu nay trong làng lí luận. Hoặc là những quan điểm giản đơn, bảo
thủ, khép chặt cửa lại – lệch phía bên này. Hoặc là những quan điểm tiên
phong, rối rắm, mở toang hoang các cửa – lệch phía bên kia. Anh có đấu
tranh. Anh vận dụng sinh động quan điểm của Đảng và do đó hướng được
mình về phía tương lai, về cái mới.
Chính nhờ biết dựa vào quan điểm của Đảng và có đấu tranh, nên anh
không bị lạc trong cái bát trận đồ sách vở, mắc kẹt trong cái loa thành chữ
nghĩa nước ngoài. Người ta nói tám vạn ngàn tư về thơ trên thế giới. Anh dẫn
sách có lúc hơi thiếu, có lúc hơi thừa, nhưng nói chung là có ích và gây được
thú vị. Dẫn sách ở đây không phải chỉ để thỏa mãn tò mò chúng ta, những
người ham con chữ, anh dẫn sách là để nối liền ta cùng với người xưa, cùng
với người xa. Thơ Việt Nam không biệt phái, không cô độc. Thơ ta cùng
chung quy luật với thơ nhân loại. Ta không đi vào ngõ tắt. Ta ở trên con
đường lớn mà thơ nhân loại đang đi, và cái gì ta được ở đây, chính cũng là
cái mà ở xa nhân loại đang tìm, và cái tìm được của người khác cũng cổ vũ
cho ta trong sáng tạo.
Có thể gọi tập sách của anh Hà Minh Đức đã đưa ra một lí luận ta chấp
nhận được, có thực tiễn, có đấu tranh, đứng vững trong quan điểm mình mà
không gò bó hẹp hòi, bao quát ra xa mà không rối rắm. Không chơi chữ,
nhưng tôi có thể nói rằng anh đã trình bày lí luận ấy không như một nhà phê
bình, mà như một nhà… phê bình văn học. Bởi lẽ anh đã trình bày khá văn
học – bằng lời văn, nhưng trước hết bằng năng lực cảm thụ thơ, cảm thụ văn
học – những lí luận trên. Đọc xong tập sách, ta càng tin ở khả năng của Thơ
hơn, giữa lúc có nhiều nơi muốn báo tử nó. Chúng ta cũng càng tin thêm ở
những gì chúng ta làm được về thơ trong ba chục năm nay! Ba mươi năm
thơ.
Đề tựa một tập sách không có nghĩa là tán thành tất cả những điều viết
ra trong sách. Nếu quả như thế thì chả ai dám đề tựa nữa! Nhất là đối với các
quyển sách dày. Có nhiều điểm trong sách này khác xa ý kiến của tôi. Nhưng
tôi phải biết tôn trọng tác giả. Vả chăng, cái điều quan trọng là đường hướng
chung tập sách đã phù hợp với sự suy nghĩ của mình.
Cách đây mấy năm, kết thúc bài tựa cho tập Thơ chống Mĩ cứu nước,
tôi có mơ ước: “Một nền thơ Việt Nam mang lí tưởng xã hội chủ nghĩa mà lại
rất dân tộc, thừa hưởng truyền thống cũ của cha ông nhưng táo bạo đi tìm cái
mới hiện đại ngày nay, mang hoài bão chung của một nước một thời nhưng
bao dung trân trọng phong cách của trăm nhà, chiến đấu trên những đỉnh cao,
nhưng không coi thường cuộc sống thường tình, kết hợp tính đảng và tính
nhân dân, Việt Nam và nhân loại, hiện thực mà rất đỗi trữ tình, đi tìm cái thiện
cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp”.
Tác phẩm của anh Hà Minh Đức cũng mang mơ ước ấy. Nó ra xong,
người ta sẽ tiếp thu chỗ này, đính chính chỗ nọ, khen ngợi phần này, uốn nắn
phần kia, như đối với tất cả mọi quyển sách. Nhưng đầu tiên những tác phẩm
như thế này thật cần biết bao nhiêu. Chỉ vì, mới hôm qua đây, những quyển
như thế không thấy có mấy, gán như là không có.
Đây là những lí do khiến tôi trân trọng giới thiệu tập sách này.
Hà Nội, 1974
CHẾ LAN VIÊN
Chương 1. XÁC ĐỊNH MỘT QUAN NIỆM ĐÚNG ĐẮN VỀ THƠ
I. XUNG QUANH MỘT ĐỊNH NGHĨA VỀ THƠ
Trong lời đề tựa tập thơ của mình, Sóng Hồng viết: “Thơ là sự thể hiện
con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không chỉ nói lên tình cảm riêng
của nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói lên niềm hi vọng của cả
một dân tộc, những ước mơ của nhân dân vẽ lên những nhịp đập của trái tim
quần chúng và xu thế chung của lịch sử loài người… Thơ là một hình thái
nghệ thuật cao quý tinh vi. Người làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt thể hiện
sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tình cảm và lí trí kết hợp một cách
nhuần nhuyễn và có nghệ thuật”.
Một quan niệm như thế về thơ không những đã nói lên được tầm quan
trọng của thơ, một hoạt động tinh thần hết sức phong phú và tinh tế của đời
sống tâm hồn con người mà còn có tác dụng phê phán trên nhiều mặt những
quan điểm thần bí và dung tục hóa thơ ca. Thơ là thể loại văn học nảy sinh
sớm. Khi con người bắt đầu cảm thấy những mối liên hệ giữa mình và thực
tại, và sâu sắc hơn khi có những nhu cầu tự biểu hiện, thì thơ ca xuất hiện.
Đã hàng ngàn năm lịch sử trôi qua, tiếng thơ vẫn là tiếng nói tươi trẻ nhất của
đời sống, vẫn luôn thiết tha khơi động đến chiều sâu của tình cảm, gắn bó với
những ước mơ hoài bão, mềm mại trong nỗi niềm tâm sự an ủi, và hào hùng
trong tiếng nói ngợi ca chiến đấu. Từ thời kì cổ đại với thơ của Penđar,
Saphô, Têôcrit đến những tiếng thơ gần gũi hơn của Gơt, Sinlơ, Hainơ,
Huygô, Pêtôphi, Puskin, Lecmôntôp… và thơ hiện đại với P.Êluya, Blôc,
Maiakôpxki, Pablô Nêruđa, Garxia Lorka…
Thơ ca Đông phương trầm lắng, nên thơ rất độc đáo trong cảm hứng
sáng tạo. Ấn Độ với Tagor; Trung Quốc với Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lí Bạch,
Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, v.v… Thơ Việt Nam từ Nguyễn Trãi đến
Nguyễn Du, từ Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu đến Tố Hữu, Chế
Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu…, nhiều thế kỉ đã trôi qua; mỗi phong cách thơ
đều có một sắc thái, một âm hưởng riêng. Có thể nào từ những cái riêng biệt
độc đáo đó tìm về được một đặc điểm chung của thơ?
Xác định được một quan niệm chung, một định nghĩa về thơ là một vấn
đề cần thiết. Người ta đã bàn nhiều về thơ nhưng thực ra ý kiến vẫn có nhiều
điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau và thật sự vẫn chưa có được một định
nghĩa hoàn chỉnh về thơ. Phần vì khác nhau về lập trường quan điểm, phần vì
hình tượng thơ biến hóa và ít xác định, phẩm chất thơ ca đa dạng, phong
phú, tác động của thơ đụng đến nhiều mặt trong đời sống tinh thần của con
người…, nên từ nhiều góc độ cảm thụ khác nhau,người ta tìm đến và nói về
thơ.
Thơ là tiếng nóị của tâm hồn, của niềm mơ ước. Thơ bộc lộ khác vọng
vươn tới một lí tưởng đẹp đẽ và cao thượng. Sự có mặt của thơ ca chân
chính trong đời sống góp phần chứng minh sự tồn tại của những gì tích cực
của con người đang luôn tha thiết tìm đến và đấu tranh cho một lẽ sống và
chân lí tốt đẹp. Nhiều quan niệm về thơ được xác định qua phẩm chất này
của thơ.
“Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng
Hồng). Phần cao đẹp của con người bộc lộ trong đời sống hằng ngày mà thơ
ca có nhiệm vụ miêu tả và biểu hiện trực tiếp, nhưng rất quan trọng là sự cao
đẹp của lí tưởng và những khát vọng chân chính mà con người đang đấu
tranh để thực hiện một cách hiệu quả. Thơ phải khơi dậy được những hoài
bão cao đẹp và rộng lớn của con người. Thơ không chỉ biểu hiện cuộc sống
như nó vốn có. Thơ có nhiều thuận lợi hơn các thể loại khác để biểu hiện
cuộc sống trong phần sẽ có và cần phải có. Đấy cũng chính là thể hiện cuộc
sống một cách cao đẹp. Huy Cận cũng cho rằng: “Cái chỗ đến cuối cùng của
thơ là phải đem đến một cái gì nâng sự sống lên”. Hay nói theo những cách
nói khác: “Thơ, đó là sự cố gắng không ngừng của con người để tự vượt lên
mình”, “Thơ ca đáp ứng một nhu cầu mơ ước”, “Thơ là một động lực kì thú để
nâng cuộc sống lên tầm vóc cao hơn đồng thời nâng tầm vóc chúng ta cao
bằng cuộc sống”
Những quan niệm trên đều trực tiếp và gián tiếp bộc lộ ý thức trách
nhiệm và lòng tin của nhà thơ vào cuộc sống cũng như đối với chính mình.
Chức năng xã hội và lí tưởng của thơ ca được xác định khá rõ rệt. Cũng một
khuynh hướng nhấn mạnh trong bản chất của thơ phần mơ ước và khát vọng
vươn tới, nhưng những ý kiến sau đây lại xác lập chủ yếu trên một quan niệm
có tính chất thoát li xã hội về bản chất của thơ ca. Các nhà thơ lãng mạn
thường đem đối lập một cách sai lầm thơ với đời sống hiện thực, nên có
khuynh hướng lí tưởng hóa thơ một cách cực đoan, xem “thơ là sự hiện thân
cho những gì thầm kín nhất của con tim và thiêng liêng nhất của tâm hồn con
người, và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, âm thanh huyền diệu nhất trong
thiên nhiên”, hay cho rằng “thơ ca là một giấc mơ qua đấy người ta mơ ước
về một cuộc đời tốt đẹp hơn hoặc cực đoan và siêu hình khi quan niệm thi ca
là cái đích hoàn hảo nhất để không, bao giờ vươn tới được: “Thơ sẽ còn lại
mãi mãi để nhắc nhở cho thời đại, cho lịch sử, cho những người đang sống
và những người kế tiếp rằng hành động của họ chưa đạt tới cái đích của thi
ca phóng ra”
Nói đến thơ cũng chính là nói đến một phuơng diện của tinh hoa con
người và tạo vật. Thơ không ăn nhập, dung hòa với những cái gì thô thiển,
tầm thường, cũng như phần bề bộn, xô bồ của cuộc sống. Thơ được khai
thác từ trong đời sống cũng như những vỉa quặng được lấy ra từ trong lòng
đất, và cao hơn nữa đó là chất kim được chắt lọc ra từ những đống quặng bề
bộn. Thơ đòi hỏi đến sự điển hình cao độ – điển hình của tâm trạng, hình ảnh,
nhịp điệu… Quá trình chọn lọc này thực chất là một quá trình sáng tạo rất
công phu, tinh tế, vừa đòi hỏi sự nhập thân, gắn bó, lại biết tách ra để tỉnh táo
chọn lọc, vừa dung nạp tinh thần phóng túng, tài hoa, lại đòi hỏi hết sức mức
độ, chặt chẽ. Quá trình chọn lọc sáng tạo cũng không diễn ra như người gạn
lấy tinh chất theo cách nấu gạo lấy rượu hoặc cất nước hoa, ở đấy vẫn còn
và rất cần đến dấu vết và bùn đất của đời sống nhưng không tự nhiên, thô sơ.
Thông qua sự chọn lọc này, chất liệu của đời sống không bị khô héo, hoặc bị
cắt xén đi mà vẫn bồi hồi và nhịp nhàng sự sống.
Nhiều nhà thơ đã tìm nghĩa cho thơ qua phẩm chất này. Tố Hữu quan
niệm “thơ biểu hiện tinh chất của cuộc sống”, “thơ là cái nhụy của cuộc sống”.
Xuân Diệu cũng cho rằng: “Thơ là lọc lấy tinh chất, là sự vật được phản ánh
vào trong tâm tình”. Lưu Trọng Lư cũng lưu ý đến đặc điểm trên của thơ: “Thơ
là sự sống tập trung cao độ, là cái lõi của cuộc sống”. Thanh Tịnh cũng nghĩ:
“Thơ là tinh hoa, là thể chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm”. Một quan niệm
cũng khá phổ biến về thơ ca gắn liền với năng lực đồng cảm nhanh chóng và
lạ kì của thể loại này. Thơ ca là những sợi dây tình cảm thương mến ràng
buộc mọi người. Thơ ca đi bằng con đường ngắn nhất đến với trái tim và
cũng để lại ở đây những dấu vết không phai nhạt được. Năng lực đồng cảm
của thơ không tràn lan vô nguyên tắc mà bao giờ cũng có hướng định theo
một lí tưởng xã hội, một quan niệm yêu thương chi phối. Tố Hữu đã nhiều lần
xác định quan niệm về thơ qua đặc điểm này. “Thơ là một điệu hồn đi tìm
những hồn đồng điệu”. “Thơ là chuyện đồng điệu”. “Thơ là tiếng nói tri âm”.
Tiếng thơ tuy nhẹ nhàng, thầm kín nhưng có một năng lực tập hợp nhanh
chóng trên một lí tưởng xã hội chung, những tâm trạng gần gũi quen thuộc.
Tiếng nói thiết tha này nhiều khi như một bằng chứng rõ rệt xác minh những
mối liên hệ đồng cảm giữa những trận tuyến tình cảm, yêu thương, căm giận
của con người. Trên ý nghĩa đó, tiếng thơ là một lời kêu gọi sự hưởng ứng,
đồng tình; tiếng thơ là một lời tâm sự thầm kín được mở rộng như một tiếng
nói bạn bè thân thương; tiếng thơ là một âm vang dội đi dội lại, ngày càng
lắng sâu trong đời sống tâm hồn con người, tiếng thơ là nơi giao cảm và hội
ngộ của những tâm tình, tiếng thơ là sự giao hòa giữa thế giới riêng tư của cá
nhân và xã hội. “Thơ là một hành động giao cảm, một hành động tín nhiệm”,
hay nói thêm một khía cạnh khác: “Thơ phải là một cố gắng hòa hợp tình cảm
của cá nhân với hiện thực của thế giới chúng ta”.
Nói đến vấn đề đồng cảm trong thơ là trên cơ sở xác định rõ rệt ranh
giới về giai cấp. Nói như nhà thơ Tố Hữu: “Thơ là tiếng nói đồng ý đồng tình,
tiếng nói đồng chí. Thơ tư sản thì tìm tới lỗ tai, cái bụng tư sản. Thơ của nhân
dân lao động thì tìm tới trái tim của người lao động”.
Nhiều định nghĩa về thơ gắn liền bản chất của thi ca với sự sáng tạo.
Nghệ thuật là sáng tạo, bản chất của nghệ thuật là sáng tạo. Với thi ca, sự
sáng tạo phải trở thành mục đích, yêu cầu và nội dung của hoạt động này. Thi
ca dễ lặp lại mình, dễ đi lại những nẻo đường đã có sẵn và trì trệ. Nhiều nhà
thơ đã xác định bản chất của thơ ca trên đặc điểm này. Biêlinxki đã từng xác
định “tính nghệ thuật là sự sáng tạo”; và cũng có thể nói như một nhà thơ,
“thơ ca là sự sáng tạo của sáng tạo”. Luôn đi về phía trước, đối lập với mọi sự
im lặng, bảo thủ và tăm tối, thơ ca là ánh sáng, là sự phát hiện, là tương lai.
Trong bản thân thơ ca chứa đựng một cái gì của tương lai hay ít hơn là phải
dự kiến một cái gì cho tương lai. Năng lực tìm tòi, phát hiện ấy là sự sáng tạo.
Apôline cũng khẳng định “thơ ca và sáng tạo chỉ là một”. Nêkraxôp xem “thơ
ca là vinh dự của sự sáng tạo có thể có được của con người”. Maiakôpxki,
người mở đầu của nền thơ ca Xô viết, đã bộc lộ sức sáng tạo lớn lao, mạnh
dạn trong toàn bộ hoạt động sáng tác của mình. Maiakôpxki quan niệm “chính
người sáng tạo ra những quy tắc thi ca mới là thi sĩ”. Trên tinh thần đề cao sự
sáng tạo trong thơ cũng có nhiều cách nói với những màu sắc khác nhau,
như xem “thơ là mở ra được một cái gì mà trước khi có câu thơ đó, trước khi
có nhà thơ đó vẫn như là bị phong kín”, “thơ là biểu hiện của lòng tin vào
những công trình sáng tạo của con người”. Biết bao tiếng nói thơ ca đã mất đi
vì nó không đem lại một cái gì mới cho con người. Những sáng tạo trong thơ
ca chưa phải là những dự kiến quy mô về tương lai, những sự phác họa tỉ mỉ
về những công trình cụ thể của đời sống con người mà chủ yếu là sự sáng
tạo trong đời sống tâm hồn. Luôn có một cái nhìn phát hiện, đem đến cho con
người những rung cảm và cách suy nghĩ, cách giải thích mới, từ đấy góp
phần nâng cao cuộc sống con người với những giá trị tinh thần cao đẹp của
nó. Một nhận định, một sự giải thích đúng đắn cũng có giá trị củng cố cho
những ước mơ, và những ước mơ lại chuẩn bị cho những năng lực mới, cho
sức sáng tạo mới. Sáng tạo là đi về phía tương lai, về phía chân lí; từ trong
những tìm tòi, nghĩ suy, từ trong đấu tranh để khẳng định cái mới.
Thơ là sáng tạo. Một nhận định và cũng là một yêu cầu, một ước mong
tích cực. Xác định bản chất của thơ ca là hành động giao cảm, là một ước mơ
hay một sáng tạo đều đúng với bản chất của thơ, nhưng thường không đủ và
nhiều định nghĩa có thể cực đoan và lệch về một phía. Tuy nhiên những định
nghĩa, những quan niệm trên đều tích cực, gắn bản chất thơ ca với những cái
gì tốt đẹp và đẩy cho thơ ca đi về phía trước.
Bên cạnh những quan niệm tích cực trên, tồn tại biết bao nhiêu những
quan niệm, những định nghĩa sai lầm về thơ. Một xu hướng khá phổ biến là
tách thơ khỏi đời sống hiện thực, xem thơ là một cái gì thanh khiết, cao đẹp.
tinh tế, không gắn bó gì với cuộc sống lao động cực nhọc. Thơ không tìm chỗ
đứng ở những sự việc, những cái hằng ngày có tính chất thực dụng, tầm
thường. Và đẩy thơ ca đi xa hơn, xa hơn, ra khỏi địa hạt và phạm vi của thế
giới con người, nhiều quan niệm gắn bản chất của thơ ca với thế giới linh
thiêng huyền bí của thần thánh, và hoạt động thơ ca trở nên một hoạt động kì
lạ, “nhiệm mầu”. Quan niệm này tồn tại đã từ rất lâu trong đời sống của con
người. Trong hình thái cổ sơ, thơ ca tồn tại dưới dạng của những bài hát lễ
nghi, những lời phù chú và được sử dụng trong các hội hè văn nghệ và tôn
giáo. Lời hát còn diễn ra kết hợp với nhạc và nhảy múa. Những bài phù chú
của các thầy phù thủy diễn hành tế tự được xem như những bài thơ đầu tiên.
Ở đây tôn giáo thâm nhập vào thơ ca, nhân tố thần linh chi phối đến cảm
hứng sáng tạo, đến những tình cảm và hình ảnh trong bài. Nhưng thực chất
của những niềm ước mong, của những lời cầu nguyện lại mang một nội dung
xã hội, một yêu cầu cụ thể trong lao động. Những bài ca nghi lễ gắn liền với
lao động như những bài ca khấn nguyện của người Mường (Mãn Đức, Lạc
Sơn, Hòa Bình) gồm những bài nói về chu trình làm ruộng, cũng như những
bài dân ca tế thần như hát Ải lao, hát Xoan, hát Dậm Hà Nam, hát Hội Dô, tuy
đều mang màu sắc tôn giáo nhưng nội dung lại chứa đựng nhiều nhân tố tích
cực. Chúng ta hãy nghe một khúc hát Hội Dô:
… Đây là Liệp Hạ đóng đám Khánh Xuân
Bạn nàng tôi vào hát thờ thần
Đề chữ vui vè
Già thì sức khỏe
Trẻ thì bình yên
Ở giữa ăn tiền
Kính thờ thượng đẳng
hoặc một điệu khúc có tính chất cầu nguyện qua mấy câu sấm cổ của người
Irlăng: “Tin vui mừng, biển nhiều cá, bờ sóng cuộn sạch bong, rừng cây tươi
tốt. Niệm chú xong, vườn cây dâng hoa, đồng lúa chín vàng, ong bay rộn rã.
Một thế giới vui tươi, thanh bình, giàu có, một mùa hè kì thú”.
Ở đâu là phần huyền bí của tôn giáo và ở đâu là phần ước mong lành
mạnh? Yếu tố thần linh nhiều khi chỉ tồn tại như một biện pháp, một giới hạn
chung của thời đại. Không thể xem thơ ca là pháp thuật, là chuyện phù phép.
Trong thời kì cổ đại, Platông đã xem linh cảm như bản chất của thi ca
bộc lộ ra từ trong quá trình sáng tác cũng như thưởng thức. Linh cảm là một
sự giao cảm mầu nhiệm giữa thế giới thần thánh đến thế giới của con người
mà nhà thơ là người trung gian, là kẻ truyền đạt. Trong đối thoại Iông giữa
Iông và Xôcrat, Platông đã khẳng định luận điểm trên thông qua phép biện
luận có tính chất loại suy. Thơ ca không phải là một kiến thức về kĩ thuật. Đọc
Hôme không phải để học cách chỉ huy quân đội, cách chèo thuyền và đánh xe
ngựa tuy rằng trong đó có những đoạn tả hay về những vấn đề trên. Khi linh
cảm nhập vào thơ, ấy là thời điểm quan trọng của sự sáng tạo, sự say mê
tràn vào lấn át lí trí, phút linh thiêng chiếm ngự tâm hồn. Platông xem các nhà
thơ trữ tình khi làm những câu thơ hay cũng giống như những thầy tế tự
Côrybăng được thần thánh nhập vào khi nhảy múa. Họ nhập mê, mất lí trí và
sự tỉnh táo bình thường, cảm hứng sáng tạo của họ hoàn toàn bị thần linh chi
phối. Sau này một số nhà thơ như Nôvalix, Pôn Clôđen, Seli, Hăngri
Brêmông… cũng thường giải thích và gắn hoạt động sáng tạo thơ ca với bản
chất linh thiêng huyền bí của tôn giáo.
Xuân thu nhã tập cũng nêu lên một định nghĩa về thơ mô phỏng theo
quan điểm của Platông và pha trộn với một số quan niệm có tính chất thần bí
của triết học duy tâm cổ Trung Quốc. L.Hippiuyt xem thơ là một hình thức cầu
nguyện trong tâm hồn. Và khi xem trong bản chất thi ca như một hình thức
nguyện cầu, cũng có nhiều quan niệm khác nhau, Vũ Hoàng Chương cho
rằng thơ ca là sự nguyện cầu để trở về. Có người nghĩ: “Trước kia làm thơ là
cầu nguyện với Thượng đế, với thiên nhiên. Bây giờ thơ là một bản kinh,
người thơ tự cầu nguyện với chính mình”. Hàn Mặc Tử quan niệm “tất cả thi
sĩ ở trong đời phải quy tụ, phải đi khơi mạch thơ ở Đức Chúa Trời”, và có
người gọi Hàn Mặc Tử là thi sĩ của đạo quân Thánh giá. Thần linh có khi chỉ
là một cớ, một chiêu bài, lấy sự thiêng liêng để che đậy những dạng ý chính
trị về thi ca. Một số quan niệm về thơ ca ở Sài Gòn hiện nay nằm trong
trường hợp này.
Những quan niệm trên nhằm dụng ý từ bỏ chức năng xã hội của thơ ca
và đẩy thơ ca vào một địa hạt huyền bí. Thơ không còn là tiếng nói cảm
thông, là tiếng hát của tâm hồn, mà chỉ còn là lời nguyện cầu của con người
đang ở trong cảnh khổ đau, hoặc là sự chấp nhận, một cách thụ động những
gì được xem là linh thiêng và được đưa về từ một thế giới khác. Thơ đi vào
hướng bế tắc. Nhà thơ không còn là người công dân tích cực, người chiến sĩ
đóng góp với xã hội một tiếng nói của chân lí, của những ước mơ và khát
vọng chân chính. Tôn giáo trong bản chất của nó là mâu thuẫn và trái địch với
thơ ca.
Một khuynh hướng cần phê phán khi đem những yếu tố hình thức trong
thơ để lí giải bản chất và xác định định nghĩa về thơ. Một số người thường
nhắc lại câu nói của Valêri: “Thơ ca là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và
ý nghĩa” và xác định như tính chất nước đôi (ambiguité) là cơ sở và gốc rễ
của thơ. Đi quá hơn về phía hình thức, một số quan niệm xem thơ như là phù
phép về ngôn ngữ và vận dụng hình ảnh. Ăngđrê Jiđơ quan niệm “một nhà
thơ chân chính là một nhà pháp thuật”. Ở trong quan niệm này của Jiđơ, tính
chất thần linh, tôn giáo không phải là chủ yếu, mà căn bản Jiđơ quan niệm
thơ ca như một thứ ma thuật về ngôn từ. Trong tuyển tập thơ ca Pháp, Jiđơ
đặc biệt chú ý đến định nghĩa về thơ của Têôđo Băngvin: “Cái trò ảo thuật này
nhằm lay động những cảm xúc nhờ sự phối hợp của những âm thanh… nhờ
thứ bùa phép này mà những ý tưởng được tất yếu truyền đạt giữa chúng ta
một cách chắc chắn bằng những từ mà tự chúng không hẳn nói ra điều ấy”
Banmôn, nhà thơ suy đồi và tượng trưng Nga, cũng đề xướng một quan niệm
tương tự. Những người chạy theo khuynh hướng trên thường xem ngôn ngữ
như là mục đích tự thân của sự sáng tạo, hoặc tách rời âm thanh và ý nghĩa
của từ hoặc giải thích một cách huyền bí sự tổ hợp của các từ trong quá trình
sáng tác.
Khuynh hướng hình thức chủ nghĩa còn lí giải bản chất của thơ ở kĩ
thuật xây dựng hình ảnh và tổ chức kết cấu của tác phẩm. Hình ảnh, một yếu
tố thiên về nội dung của thơ, đã biến thành những trò ảo thuật hình thức. Pôn
Clôđen lại nhấn mạnh đến kết cấu như yếu tố cơ bản nhất của thơ: “Thơ ca là
kết cấu và nhờ có kết cấu mà nó mang lại cho lỗ tai và trái tim của người
nghe niềm vui và thích thú riêng”.
Ngoài những quan niệm về thơ theo những khuynh hướng khác nhau
trên, còn có những định nghĩa cầu kì, lập dị về thơ theo một cách cảm, cách
nói có tính chất phiến diện, do một liên tưởng ngẫu nhiên, hoặc lấy cái thứ
yếu làm bản chất, lấy một biểu hiện thoáng qua nhất thời làm quy luật phổ
biến.
Tìm hiểu và xác định bản chất của thơ không thể không đề cập đến một
vấn đề quan trọng mà từ trước đến nay đã được bàn luận và lí giải, đó là sự
phân biệt giữa thơ và văn xuôi.
II. THƠ VÀ VĂN XUÔI
Người ta dễ thấy sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi trong cấu tạo hình
thức của hai thể loại này. Văn xuôi và thơ đều có nhịp điệu, nhưng nhịp điệu
của văn xuôi không rõ nét, không có âm hưởng rõ rệt, và buông thả có tính
chất tự nhiên, mơ hồ. Cho nên nếu nói cho xác định đúng với bản chất của
nhịp điệu thì chỉ thơ mới có nhịp điệu. Một số công trình nghiên cứu về thơ
cũng thống nhất quan niệm khi xác định tính nhịp điệu trong văn xuôi và trong
thơ. Cấu trúc nhịp điệu trong văn xuôi không rõ ràng: “Nhịp điệu trong văn
xuôi không phải là cái gì khác mà chỉ là một phác họa của nhịp điệu”. Nhịp
điệu trong văn xuôi “trôi chảy, không bền vững, nó thay đổi và chuyển chỗ
không ngừng; phần lớn là không thể quy nó về những quy luật rõ ràng nào,
không thể miêu tả tổ chức của nó. Nhịp điệu của thơ, trái lại, rõ ràng”. “Văn
xuôi, cái thể lỏng đáng nguyền rủa nhất định không chịu nhận một hình thức
xác định”. Nhịp điệu trong thơ là nhịp điệu có tổ chức trên cơ sở của những
đặc điểm về ngôn ngữ của một dân tộc nhất định. Nhịp điệu của thơ ca Việt
Nam khác với nhịp điệu của thơ ca Pháp, thơ Nga, v.v… Trong cấu tạo nhịp
điệu, yếu tố dễ thấy nhất về mặt hình thức để phân biệt với văn xuôi là những
câu thơ có vần và dạng cấu tạo của nó. Nhìn chung, những câu thơ được cấu
tạo thành những dòng đều đặn (thơ cách luật) thành những khổ thơ, và có bắt
vần. Trong thơ tự do, đặc điểm trên tuy có khác đi, nhưng vẫn có thể dễ nhận
thấy một cách bao quát dạng của một bài thơ khác với tính chất kéo dài và
nối tiếp của những câu văn xuôi. Nhưng sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi
chắc chắn không phải chỉ ở những yếu tố thuộc về hình thức. Trong đời sống,
chúng ta thường bắt gặp những câu có vần có nhịp làm theo các thể thơ
nhưng không thể xem là thơ được. Trong sinh hoạt văn học người ta cũng
thường gọi một cách châm biếm những nhà thơ tồi, những người thiên về kĩ
thuật hình thức là nhà thơ ghép vần. Hiện tượng ghép vần luôn có mặt bên
cạnh sự tồn tại của thơ ca chân chính. Như thế là đặc điểm bản chất của thơ
không phải là ở những câu văn vần. Từ lâu đã có sự phân biệt này. Trong
Nghệ thuật thơ ca, Arixtôt đã xác định rõ rệt: “Chỗ khác nhau giữa nhà sử học
và nhà thơ không phải là một người thì dùng văn xuôi, một người thì dùng văn
vần. Những quyển sử của Hêrôđôt có thể đổi thành văn vần vẫn là sử dù có
vần luật hay không cũng vậy”. Arixtôt xem nội dung sáng tác là cơ sở để phân
biệt cái gì là thơ và không phải là thơ. Trong tác phẩm Mĩ học, Hêghen cũng
cho rằng “văn xuôi viết thành câu thơ vẫn chưa phải là thơ”. Victo Huygô
trong bức thư gửi cho Aden Phuse, đã đề cập đến vấn đề này: “Những câu có
vần nhịp tự nó chưa phải là thơ. (Thơ là từ trong những ý tưởng và những ý
tưởng lại đến từ trong tâm hồn. Những câu thơ chỉ là bộ quần áo đẹp trên cơ
thể đẹp. Thơ có thể biểu hiện bằng văn xuôi nhưng nó chỉ thực sự thật hoàn
mĩ qua về đẹp duyên dáng và lộng lẫy của những câu thơ”.
Đi vào thực tế sáng tác có những câu mà hình thức là những câu thơ,
nhưng thực chất lại là câu văn xuôi.
Và ngược lại, người ta cũng thấy có nhiều bài văn xuôi có tính chất thơ.
Ở đây chúng ta có thể tiến hành một sự so sánh thú vị giữa hai trích đoạn thơ
và văn xuôi của Xuân Diệu cùng viết về một chủ đề:
“Ôi đất nước! Sau mười năm xây dựng trong hòa bình mắt say với ánh
điện do những tay người lao động làm ra bây giờ ta lại có dịp trong mười
đêm, hai mươi đêm, ba mươi đêm liền nhìn người trong bóng tối, ta nhìn
người, đất nước ơi, trong lúc chân đạp xe đi tôi nhìn người. Tổ Quốc ơi, trong
những đêm lấy làm ngày như thế! Như hai mặt của một trang giấy dính chặt
nhau, tôi lật những trang ngày rạng rỡ ánh sáng mặt trời, tôi lật những trang
đêm nở đỏ… Như đứa trẻ mắt đã no nhìn mặt mẹ thương yêu, nó nhắm mắt
đưa hai bàn tay lên sờ mặt mẹ, nó càng thêm thương yêu mẹ vô ngần; dưới
bóng sao, dưới bóng trăng, dưới cả bóng mây đen kịt, phần lớn thấy lờ mờ,
có khi thấy khá rõ, nhiều khi như đi trong biển mưa, tôi có cảm giác như chủ
yếu là hai tay tôi đã được sờ lên những nét mặt của Tổ Quốc thương yêu, trái
tim bây giờ nhạy bén lắm, không nhìn, tôi cũng biết là mẹ… Đã mấy khi tôi
thức trọn với núi sông như những lúc hành quân đêm”.
Những câu văn xuôi trên mang nhiều chất thơ, ý thơ, Xuân Diệu cũng
đã rút cái chất thơ đó thể hiện vào trong bài thơ Những đêm hành quân:
Tôi đã đi hàng chục đêm sao
Một chiếc xe – đạp vào băng bóng tối
Cũng có lúc mây trời đen kịt lưới
Cũng có tuần trăng mới ánh trăng trong.
Đã mấy khi tôi thức với non sông
Trọn những đêm ròng mắt chong chân bước
Đêm hành quân thả tâm hồn đi trước
Yêu với căm hai đợt sóng ào ào
Vỗ bên lòng, dội mãi tới trăng sao.
Giữa đêm tối, gần xa là biển mực
Chính là lúc trái tim càng sáng rực
Khi mắt không nhìn được bốn thước xa
Chính là khi nghe cả núi sông nhà
Tôi như đứa trẻ con đôi mắt khép
Sờ mặt mẹ trên ngón tay tha thiết
Tôi hiểu đêm nay thôn xóm nghỉ gì
Đằng chân trời ấp ủ những điều chi.
Sự khác nhau chủ yếu giữa hai trích đoạn trên là ở hình thức biểu hiện.
Một bên chất thơ biểu hiện trong những câu văn xuôi và một bên qua những
câu thơ. Sự lẫn lộn hoặc kết hợp qua lại giữa thơ và văn xuôi bộc lộ qua
nhiểu hiện tượng văn học. Người ta thường nhắc tới loại văn xuôi có nhiều
chất thơ của Victo Huygô trong văn học Pháp và của Tuôcghênhep trong văn
học Nga. Trong văn học Việt Nam cũng có nhiều thể loại thơ ca cổ dường
như đứng giữa văn xuôi và thơ như thể phú, các loại biền văn. Và ngay trong
nhiều sang tác văn xuôi cũng chứa đựng nhiều chất thơ. Một số bài kí của
Nguyễn Trung Thành, một vài chương trong Miền Tây của Tô Hoài và Hòn
Đất của Anh Đức thường được xem là giàu chất thơ. Do đó ranh giới giữa thơ
và văn xuôi không phải bao giờ cũng dứt khoát, cũng dễ phân định bằng một
vài tiêu chuẩn xác định nào. Hêghen cũng có căn cứ khi nói lên một thực tế là
không phải lúc nào cũng dễ vạch ra một cách chính xác sự khác nhau giữa
thơ và văn xuôi. L.Tônxtôi cũng có lúc cho rằng: “Tôi không bao giờ biết đâu
là ranh giới giữa văn xuôi và thơ ca”. Phải chăng “vấn đề là một vần, một điệu
thơ, một cách sang hàng khác thường, một cách nói không như lệ thường,
một tiếng kêu, một cơn giận, một niềm ân ái yêu thương… Nhưng rồi lại có
những sự hôn phối, những kết hợp, những sự lai tạp. Có những bài văn xuôi
có tính chất thơ và những bài thơ bằng văn xuôi. Có những cuốn tiểu thuyết
thơ và nhiều cuốn tiểu thuyết khác thì lại không thế. Con đường phân ranh
giới không phải lúc nào cũng rành mạch liên tục.
Nhiều nhà thơ đã dùng những cách nói, những hình ảnh khác nhau để
nêu lên sự khác biệt giữa văn xuôi và thơ. Puskin cho rằng thơ và văn xuôi
cũng như lửa và băng, Pôn Valêri xem con đường đi từ văn xuôi đến thơ có
một cái gì gần với bước phát triển từ lời nói đến tiếng hát, từ bước đi đến điệu
nhảy. Có nhà thơ xem thơ là nỗi khổ đau có một cái gì đấy huyền bí và linh
thiêng, còn văn xuôi là một niềm vui dễ hiểu (Nagruzzi). Có người phân biệt
nhịp điệu trong thơ và văn xuôi như tốc độ của một chuyến tàu tốc hành và
một con tàu thường. Thực ra những cách so sánh trên vẫn chưa nói lên được
gì nhiều lắm về sự khác nhau giữa thơ và văn xuôi. Phân biệt thơ và văn xuôi
không hoàn toàn chỉ là một việc làm có tính chất học thuật thuần túy mà nhiều
khi bộc lộ trực tiếp những vấn đề về quan điểm. Một loại khuynh hướng khá
phổ biến là đối lập thơ và văn xuôi, chất thơ và chất văn xuôi, để qua đấy xem
thơ là cái gì cao quý, thanh khiết, thoát li khỏi đời sống hiện thực tầm thường,
nhỏ nhặt, thô thiển vốn là nội dung chủ yếu của văn xuôi. Hêghen xem văn
xuôi như một cái gì nhạt tẻ và hằng ngày đối lập với thơ giàu tưởng tượng
đắm say và bay bổng hơn. Nitsơ cho rằng viết văn xuôi hay “là nhằm nghĩ
đến thơ bởi vì văn xuôi là một cuộc chiến tranh độc đáo không ngừng với thơ,
không ngừng tách ra khỏi thơ và đối lập với thơ”, P. Valêri cũng đối lập một
cách cực đoan giữa thơ và văn xuôi. Valêri xem việc viết thành văn xuôi một
bài thơ là một hành động tà giáo (acte dhérésie). Valêri phê phán quan niệm
của Đalămbe về mối quan hệ nhất trí giữa thơ và văn xuôi, Valêri cho rằng
Đalămbe tưởng mình nói về thi ca nhưng thực ra dưới các danh từ đó ông ta
lúc đó đang nghĩ đến những điều hoàn toàn khác thế.
Thực ra thì Đalămbe đã có lí (nếu không phải là ông ta đồng nhất) khi
nêu lên sự thống nhất giữa thơ và văn xuôi như một nguyên tắc cần chấp
nhận. “Theo tôi thì đây là quy luật nghiêm ngặt nhưng đúng mà thế kỉ của
chúng ta đã đề ra buộc các nhà thơ phải chấp nhận: nó chỉ thừa nhận là tốt
bằng thơ những gì mà nó sẽ thấy được rất tốt nếu viết ra dưới thể văn xuôi”.
Văn xuôi là tiếng nói trực tiếp của đời sống hằng ngày mà chúng ta
thường bắt gặp trong tiểu thuyết, các thể kí, các vở kịch. Về dung lượng nó
thường rộng lớn hơn, phong phú và cũng bề bộn hơn nhiều lần cái mà thơ có
khả năng chứa đựng. Về tính chất, văn xuôi đi sát với cuộc sống, nó có khả
năng đề cập và mang trong nội dung những phẩm chất đa dạng của đời sống
qua sự chọn lọc, tuyển lựa theo quy luật điển hình hóa của nghệ thuật. Về
hình thái biểu hiện thì văn xuôi là tiếng nói đi sát và gần như trùng với tiếng
nói hằng ngày. Đó là tiếng nói tự nhiên giàu chất liệu và sức sống, đó là tiếng
nói gọn gàng, khúc chiết của tư duy vừa được nghệ thuật hóa, lại vừa giữ
được sự dễ hiểu, rõ ràng, giản dị của hoạt động giao tế hằng ngày. Puskin
cũng nhận xét: “Sự chính xác và gọn gàng là những phẩm chất đầu tiên của
văn xuôi. Văn xuôi đòi hỏi tư tưởng và tư tưởng. Thiếu tư tưởng thì những
cách biểu hiện rực rỡ cũng chẳng dẫn tới đâu”.
Những đặc điểm của văn xuôi xác định một nguyên tắc thực tế không
thể đối lập thơ với văn xuôi nếu nghĩ rằng thơ cũng từ cuộc sống mà ra; sự
thêm bớt những nhân tố nào đó trong văn xuôi và đặt nó trong không khí và
một văn cảnh thích hợp thì có thể chuyển hóa thành thơ và ngược lại. Từ thơ
trở về với văn xuôi cũng có những nẻo đường cụ thể. Gơt đã có những nhận
xét thật đúng đắn khi tác giả xác định rằng “bài thơ chỉ nên vượt khỏi văn xuôi
một chút thôi”. Trong nghệ thuật thơ, cái ranh giới ấy cần phải được phát hiện
và xác định một cách tinh tế. Với bất kì tác phẩm văn xuôi chân chính nào đều
có cái thi vị của thơ và phần thi vị của riêng nó. Và trong những sáng tác thơ
có giá trị cũng cần và có thể có cái khỏe khoắn, vững chãi và giản dị chân
chất của văn xuôi. Tách rời hoặc đối lập thơ ca và văn xuôi là không đúng và
không phù hợp với thực tế sáng tác và thực tế đời sống. Văn xuôi đối lập với
thơ, loại trừ mọi chất thơ sẽ rơi vào lí trí khô khan và thô sơ nghèo nàn. Về
phần thơ, nếu tách rời hoặc vượt quá xa văn xuôi sẽ thiếu chất sống trực tiếp,
dễ ngọt ngào một cách chung chung và lơ lửng trong không khí.
Nhiều sáng tác thơ ca thời kì trước cách mạng có xu hướng đối lập với
văn xuôi. Về nội dung, phần lớn những bài thơ có tính chất thoát li chứa đựng
những cảm nghĩ viển vông, xa thực tế. Khi nhà thơ viết:
Trăng vừa đủ sáng để gây mơ
Gió nhịp theo đêm không vội vàng
Khí trời quanh tôi làm bằng tơ
Khí trời quanh tôi làm bằng thơ
thì bản thân những câu thơ trên tuy cũng “hấp dẫn” nhưng xa lạ với âm
hưởng của một cuộc sống thực. Chất liệu để tạo nên câu thơ thuần túy là
chất liệu của “tâm hồn” – một tâm hồn ủy mị thoát li – đã nhân lên nhiều lần
nữa khoảng cách giữa nó và cuộc sống, và loại trừ tất cả những chất liệu hiện
thực, những yếu tố mà văn xuôi trực tiếp sử dụng. Một phương diện khác, do
chịu ảnh hưởng nhiều của quan điểm duy mĩ, hình thức, chạy theo sự gọt
giũa về vần điệu, hình ảnh, nên những câu thơ khác đi nhiều với lời nói thông
thường. Những câu thơ trên nếu không mang dấu vết của văn xuôi – có thể
gọi đó là một ưu điểm? – thì cũng nặng nề và tác hại bởi nó đã thoát li thực
tế, ru người đọc vào một thế giới mơ hồ, xa lạ.
Sau Cách mạng, thơ trở về gần với đời sống. Chất liệu phong phú của
đời sống hiện thực thâm nhập vào trong thơ. Các sáng tác thơ đều trực tiếp
đề cập đến những vấn đề nóng hổi của thực tế chiến đấu và sản suất. Những
bức tranh, những hình ảnh nhiều màu sắc của đời sống, những cảm xúc, tâm
trạng và liên tưởng giàu sức sống là nội dung chủ yếu của sáng tác thơ.
Nhiều lúc cái phong phú của nội dung đã làm rạn nứt khuôn khổ gò bó của
câu thơ cách luật. Thơ tự do xuất hiện và phát triển dần trở thành chủ thể đáp
ứng được yêu cầu phản ánh cuộc sống muôn hình muôn vẻ. Nhiều nhà thơ
có ý thức tránh và khắc phục khuynh hướng viết về cuộc sống quá ngọt ngào,
trữ tình và thơ mộng. Cần có một hướng đi sát với thực tế hơn, một cách nói
giản dị chân chất. Họ tìm về lối viết mộc, khỏe, nhiều khi trần trụi để nói cho
được chiều sâu cũng như cái đa dạng của cuộc sống. Xuân Diệu, Tế Hanh,
Huy Cận, Hoàng Trung Thông…, ở những mức độ khác nhau, đều bộc lộ rõ
xu hướng đưa cuộc sống trực tiếp vào trong thơ. Trong lớp thơ trẻ, Phạm
Tiến Duật là một trường hợp tiêu biểu.
Về mặt hình thức biểu hiện, theo hướng đi về với cuộc sống và trong
thể tự do, câu thơ có khuynh hướng từ tiếng hát, lời ca, lời nói khúc điệu trở