ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC NGỌC
QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐỨC NGỌC
QUYỀN CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG PHÁP
LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số
: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đào Thị Hằng
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Đức Ngọc
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
TÊN CỦA KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1.
BHXH
Bảo hiểm xã hội
2
NLĐ
Người lao động
3
NSDLĐ
Người sử dụng lao động
4
DN
Doanh nghiệp
5
TAND
Tòa án nhân dân
6
LPSDN
Luật phá sản doanh nghiệp
7
LPS
Luật phá sản
8
HNCN
Hội nghị chủ nợ
9
TTPS
Thủ tục phá sản
22
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU: ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 3
2.1. Mục tiêu tổng quát ................................................................................... 3
2.2. Mục tiêu cụ thể ......................................................................................... 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4
4. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ................................................................... 6
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài...................................................... 6
7. Bố cục của luận văn..................................................................................... 7
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH
CỦA PHÁP LUẬT ........................................................................................... 8
1.1 Khái niệm quyền của người lao động trong pháp luật phá
sản......................................................................................................................8
1.2 Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của người lao động trong pháp luật
phá sản.. ........................................................................................................... 14
1.3. Nội dung các quy định về quyền của người lao động trong pháp luật
phá sản. ............................................................................................................ 19
1.3.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. ........................................ 19
1.3.2. Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ .......................................................... 21
1.3.3. Quyền được ưu tiên thanh toán các quyền lợi khi có quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp. ...................................................................... 22
1.3.4. Quyền khiếu nại các quyết định của Tòa án ......................................... 24
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ THỰC
TIỄN THỰC HIỆN ......................................................................................... 27
2.1. Lược sử phát triển các quy định về quyền của người lao động trong pháp
luật phá sản của Việt Nam và thực tiễn thực hiện .......................................... 27
2.1.1. Quy định về quyền của người lao động trong pháp luật phá sản
và thực tiễn thực hiện giai đoạn năm 1993 đến trước năm 2004. ................... 28
2.1.2. Quy định về quyền của người lao động trong pháp luật phá sản
và thực tiễn thực hiện giai đoạn năm 2004 đến trước năm 2014. ................... 31
2.1.3. Đánh giá, nhận xét sự phát triển về quyền của người lao động
trong pháp luật phá sản giai đoạn từ năm 1993 đến trước năm 2014. ............ 36
2.2. Nội dung các quy định về quyền của người lao động trong pháp luật
phá sản hiện hành và thực tiễn thực hiện. ....................................................... 40
2.2.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ......................................... 40
2.2.2. Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ .......................................................... 45
2.2.3. Quyền được ưu tiên thanh toán các quyền lợi khi có quyết định tuyên
bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã .............................................................. 49
2.2.4. Quyền đề nghị xem xét lại các quyết định của Tòa án nhân dân .......... 52
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN CỦA VIỆT NAM ............ 59
3.1. Yêu cầu hoàn thiện các quy định về quyền của người lao động trong pháp
luật phá sản. ..................................................................................................... 59
3.1.1. Cần khắc phục những bất hợp lý của các quy định hiện hành. ............. 59
3.1.2. Cần đảm bảo sự phù hợp với phát triển của nền kinh tế trong
điều kiện đổi mới, đặc biệt là điều kiện hội nhập quốc tế. ............................. 61
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền của người lao động
trong pháp luật phá sản của Việt Nam ............................................................ 64
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quy định về quyền
của người lao động trong pháp luật phá sản của Việt Nam. .......................... 67
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Xã hội được hình thành nên bởi rất nhiều các mối quan hệ, trong đó có
quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ. Trong mối quan hệ này, sự cân bằng về quyền
lợi và nghĩa vụ của cả hai bên ở mức độ nhất định chính là chìa khóa của sự
bền vững.
Nhìn vào bối cảnh thế giới, Việt Nam đã ký kết rất nhiều Điều Ước,
Hiệp Định quốc tế, điển hình như gia nhập Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
vào năm 1994 với những nguyên tắc về tôn trọng quyền của NLĐ cùng với đó
việc tham gia tuyên bố 1998 của ILO như một lời cam kết của Việt Nam về
đảm bảo và thực hiện tốt hơn nữa quyền của người lao động. Sáng ngày
04/02/2016 Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng đã thay mặt Chính
phủ ký xác thực lời văn hiệp định TPP và 35 thỏa thuận song phương trong
các lĩnh vực vực trong đó có quyền của NLĐ… Việc hội nhập sâu rộng với
thế giới đặt ra những yêu cầu khắt khe hơn về các quy định bảo vệ người lao
động của pháp luật trong nước cũng như những quyền này nhận được sự công
nhận của cộng đồng quốc tế.
Bối cảnh trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã dẫn tới sự
phá sản của hàng chục nghìn DN từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ đến
những tổng công ty hay tập đoàn lớn, giai đoạn đen tối đó đã đẩy hàng tram
nghìn NLĐ vào cảnh thất nghiệp, bị nợ lương….nhưng nhìn ở mặt tích cực
của vấn đề đây cũng là cuộc thanh lọc giúp loại bỏ những DN yếu kém. Và
thực tế đã chứng minh, dù số lượng DN phá sản ở mức kỷ lục nhưng giai
đoạn này cũng chứng kiến số DN thành lập mới tang đột biến, đặc biệt Luật
Doanh nghiệp 2014 ra đời có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 đã tạo một hành
lang pháp lý thông thoáng hơn cho việc thành lập DN, từ đó vấn đề việc làm
1
của NLĐ cũng được giải quyết tốt hơn. Nhìn chung, hiện tại là giai đoạn
chuyển mình mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế
duy trì ở mức ổn định, số DN thành lập mới tăng, việc làm cho NLĐ về cơ
bản được đáp ứng, nhưng bên cạnh đó vẫn ẩn chứa những rủi ro cho NLĐ vì
nền kinh tế thị trường có tính cạnh tranh khốc liệt, nền kinh tế thế giới biến
đổi không ngừng tác động không nhỏ đến Việt Nam đây vừa là thách thức
vừa là cơ hội nếu DN và NLĐ không muốn rơi vào cảnh phá sản hay mất việc
làm. Trong môi trường đầy tính cạnh tranh và khả năng rủi ro rất lớn này, thì
việc những DN, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (sau đây gọi chung là DN)
không đủ sức cạnh tranh và gánh chịu những rủi ro để rồi tụt lại phía sau và
dẫn tới phá sản dường như là một điều khó tránh khỏi, nếu phá sản ở góc độ
nào đó là một cơ hội để DN “hồi sinh”, một cứu cánh thì đối với NLĐ lại phải
đối mặt với rất nhiều rủi ro.
Lý luận và thực tiễn đều cho thấy rằng, NLĐ tham gia quan hệ lao động
khó có thể được đối xử bình đẳng với NSDLĐ. Về mặt pháp lý, NSDLĐ có
quyền tổ chức, quản lý quá trình lao động của NLĐ và NLĐ phải tuân thủ.
Bởi NSDLĐ là người có quyền sở hữu tài sản mà các yếu tố cấu thành nên
quan hệ sản xuất luôn chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu. Bên cạnh đó,
NSDLĐ còn bỏ tiền ra để mua sức lao động của NLĐ, muốn cho việc sử dụng
sức lao động đó đạt hiệu quả đòi hỏi NSDLĐ phải quản lý nó một cách khoa
học và phù hợp. Về mặt lợi ích kinh tế, giữa NSDLĐ và NLĐ vừa có sự mâu
thuẫn, vừa có sự thống nhất phụ thuộc lẫn nhau. Ở khía cạnh nhất định,
NSDLĐ luôn muốn giảm tới mức thấp nhất các khoản chi phí trong đó có vấn
đề tiền lương của NLĐ để tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, tiền lương và thu nhập
trong quan hệ lao động lại là nguồn sống chủ yếu của NLĐ. Trong quan hệ
lao động, NLĐ được coi là bên yếu thế hơn bởi bị phụ thuộc nhiều vào
NSDLĐ. Khi DN phá sản mối quan hệ giữa NLĐ và NSDLĐ bị phá vỡ, hàng
2
loạt những vấn đề liên quan đến quyền lợi của NLĐ được đặt ra: chế độ bảo
hiểm, tiền lương, phụ cấp, vấn đề trợ cấp thôi việc, vai trò của Công đoàn…
DN phá sản, bên cạnh sự thiệt hại của chủ nợ và con nợ, nó còn ảnh hưởng
trực tiếp đến những NLĐ.
Quay trở lại với các quy định của pháp luật Việt Nam, về quyền của
NLĐ đặc biệt là trong pháp luật phá sản đã cho phép họ được hưởng một số
quyền lợi đặc biệt cụ thể trong luật Phá sản 2014 hay Bộ luật Lao động 2012,
luật Công đoàn 2012, Luật Việc làm 2013, luật Bảo hiểm xã hội 2014. Tuy
nhiên từ quy định đến thực tế thực hiện đã bộc lộ những hạn chế nhất định
của pháp luật phá sản như: quy định giữa các Luật, bộ Luật đôi khi còn chồng
chéo; nhiều quy định cứng nhắc hoặc mang tính hình thức, quy định thiếu
thực tế…... quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản là một vấn đề mang tính
thời sự, cấp thiết, ở cái nhìn vĩ mô hơn nó còn ảnh hưởng đến tình hình trật tự,
kinh tế xã hội của đất nước. Cần nhìn nhận quyền của NLĐ trong pháp luật
phá sản dưới góc độ pháp lý, từ đó đưa ra những phân tích, đánh giá cũng như
giải pháp hoàn thiện nó sẽ giúp đảm bảo tối đa quyền của NLĐ. Từ tất cả
những lý do trên em quyết định lựa chọn đề tài: “Quyền của Người lao động
trong pháp luật phá sản của Việt Nam” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về
quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của Việt Nam; nhận diện được những
hạn chế, bất cập của chế định này và các tồn tại, vướng mắc trong thực tiễn
thực hiện chúng. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó
khăn, vướng mắc đặt ra trong thực tế hiện nay.
3
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, luận văn đưa ra những mục tiêu
cụ thể sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền của NLĐ trong pháp luật
phá sản của Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về quyền của NLĐ
trong pháp luật phá sản của Việt Nam.
- Thưc tiễn thực hiện quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của Việt
Nam trong thực tiễn hiện nay.
- Tìm ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật về
biện pháp bảo đảm bảo quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của Việt Nam.
- Trên cơ sở nhận thức về mặt lý luận kết hợp với nghiên cứu, phân tích các
vụ việc cụ thể, đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật
và biện pháp tổ chức thực hiện nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền lợi của NLĐ
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật về
Quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của Việt Nam, cũng như việc áp dụng
các quy này vào thực tiễn.
Trong luận văn này, tôi tập trung nghiên cứu khía cạnh pháp lý, cơ sở
lý luận, thực tiễn và nội dung quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của
Việt Nam. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu này, tôi đưa ra những khuyến nghị
cụ thể nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của NLĐ trong trường
hợp trên ở Việt Nam.
Về không gian, luận văn giới hạn việc tìm hiểu, so sánh ở mức độ nhất
định với pháp luật của một số quốc gia điển hình như: Hoa Kỳ- điển hình của
trường phái Common Law và Trung Quốc- một quốc gia có nền kinh tế
4
chuyển đổi, cùng theo đuổi chủ nghĩa xã hội và có nhiều nét tương đồng với
Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu.
Đề tài : “Quyền của người lao động trong pháp luật phá sản của Việt
Nam” đã đươ ̣c nghiên cứu trong nhiề u công triǹ h khoa ho ̣c cũng như các ta ̣p
chí luật học, tạp chí nghiên cứu khoa học như : Chính sách chế độ đối với lao
động trong doanh nghiệp phá sản và giải thể, nxb Chính trị quốc Gia 1996;
Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với việc bảo vệ quyền của người
lao động, Phạm Thị Huyền Trang, tạp chí Thanh tra chính phủ số 10/2014; Bộ
luật lao động với vấn đề bảo vệ người lao động, khóa luận tốt nghiệp Hồ Thu
Phượng, 1997; Quyền của người lao động và thực thi quyền của người lao
động trong quá trình giao kết, thực hiện, thay đổi, tạm hoãn và chấm dứt hợp
đồng lao động, khóa luận tốt nghiệp, Phạm Thị Lan Hương; Hoàn thiện pháp
luật lao động bảo vệ lợi ích quyền của người lao động ở nước ta hiện nay,
Ngô Văn Nam, báo Dân chủ và pháp luật số 07/2012;
Đặc biệt, công trình “Pháp luật về bảo đảm quyền của người lao động
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp ở Việt
Nam” luận văn thạc sỹ luật của tác giả Trần Huyền Trang, Khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội 2015. Có thể xem đây là công trình nghiên cứu mới nhất
liên quan đến Quyền của NLĐ trong luật phá sản của Việt Nam, lần đầu tiên
vấn đề quyền của người lao động trong pháp luật phá sản được tiếp cận dưới
một góc nhìn mới khi không chỉ đề cập đến luật phá sản mà còn có sự liên hệ
với pháp luật về việc làm, bảo hiểm....
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên ra đời trước khi LPS 2014 có
hiê ̣u lực, cho nên những công trình ấ y chưa thể câ ̣p nhâ ̣t đầ y đủ các quy đinh
̣
pháp luật mới cũng như những thay đổi khô ng ngừng của thực tiễn đời sống .
Chính vì những lí do trên mà tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Quyền của người lao
5
động trong pháp luật phá sản của Việt Nam” muốn góp phần làm sáng tỏ các
vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về quyền của NLĐ ở Việt
Nam, nghiên cứu ki ̃ những quy đinh
̣ mới để từ đó đề xuất một vài ý kiến nhằm
hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này làm luận văn thạc sĩ luật học
với mong góp phần làm sáng tỏ các vấn đề vướng mắc trong quá trình thực hiện
pháp luật về quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
, nghiên cứu ki ̃
những quy đinh
̣ mới để từ đó đề xuất một vài ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật
Việt Nam trong lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tôi còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, thống kê,
phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài “Quyền của người lao động trong pháp luật phá sản của Việt
Nam” tôi cho ̣n sẽ trực tiế p nghiên cứu chuyên sâu, làm rõ các vấn đề sau:
- Nếu ra những quy định mới trong pháp luật Phá sản, từ những quy
định này tiến hành phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp hoàn thiện.
- Đưa ra các tiêu chí đánh giá mới về quyền của NLĐ trong pháp luật
phá sản, từ những tiêu chí đó sẽ áp dụng vào xuyên suốt quá trình phát triển
về quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản của Việt Nam cũng như có sự liên
hệ với thế giới.
- Đặt vấn đề quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản trong bối cảnh
hiện tại của Việt Nam với những thay đổi như vũ bão về kinh tế xã hội cũng
như những thách thức trong thời đại mới.
6
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền của người lao động trong pháp
luật phá sản và sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2: Thực trạng các quy định về quyền của người lao động trong pháp
luật phá sản của Việt Nam và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
các quy định về quyền của người lao động trong pháp luật phá sản của Việt
Nam.
7
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI
LAO ĐỘNG TRONG PHÁP LUẬT PHÁ SẢN VÀ SỰ
ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1.
Khái niệm quyền của người lao động trong pháp luật phá
sản.
Lịch sử phát triển kinh tế của loài người đã chứng kiến những bước nhảy
vọt kinh ngạc từ buổi bình minh với những con đường tơ lụa ở Trung Đông xa
xôi cho đến sự sụp đổ của gã khổng lồ Nokia ở thế kỷ 21. Điều đó cho ta thấy
rằng xã hội luôn không ngừng phát triển và thay đổi, nền kinh tế cũng vậy bên
cạnh những yếu tố tích cực là thúc đẩy khoa học kỹ thuật phát triển, nâng cao
chất lượng cuộc sống của người dân thì nền kinh tế cũng xảy ra nhiều biến động,
thăng trầm và khủng hoảng. Hậu quả của sự khủng hoảng kinh tế thường kéo
theo sự phá sản hàng loạt của các DN. Tình trạng phá sản là hậu quả đương
nhiên của quá trình cạnh tranh, kinh doanh trên thương trường giúp loại bỏ
những DN yếu kém không kịp thích ứng đồng thời cũng là áp lực để các DN
phải luôn đổi mới để có thể tồn tại trên thị trường. Nhìn ở góc độ tích cực, nền
kinh tế của mỗi quốc gia giống như một đoàn tàu với rất nhiều toa nối nhau,
những DN phá sản là những toa phải bỏ lại phía sau để đoàn tàu về đích nhanh
hơn. Vì là một thủ tục tư pháp nên việc phá sản xảy ra khi các bên không thể
thỏa thuận được với nhau về mặt lợi ích và hậu quả mà nó để lại có tác động
không nhỏ đến đời sống kinh tế, xã hội trong đó đối tượng bị động và có số
lượng lớn nhất chính là NLĐ.
Về pháp luật phá sản trên thế giới, Luật Phá sản đầu tiên của Anh do vua
Henry VIII ký vào năm 1542. Đây là đạo luật chống lại cá nhân gây ra phá sản.
8
Trong nhiều thế kỷ, Luật Phá sản của Anh đã đưa nhiều con nợ vào tù, thậm chí
treo cổ. Còn tại Châu Âu lại có một thời kỳ dài chịu ảnh hưởng của Luật Phá
sản. Năm 1905, Nam Tư ban hành Luật cưỡng chế hòa giải phá sản. Theo luật
này, giữa các chủ nợ và con nợ không đạt được sự hoà giải thì được giải quyết
bằng cách cưỡng chế. Đến năm 1980 lại ban hành Luật "chỉnh đốn và đóng cửa
tổ chức lao động liên kết" và đây là Luật Phá sản hiện hành. Trong Luật tố tụng
dân sự của Liên Xô ban hành năm 1923 có điều nói về chế độ phá sản. Năm
1925, các quốc gia Châu Âu cũng đã ban hành nguyên tắc chung về luật không
có khả năng thanh toán nhưng cho đến nay vẫn chưa có gì tiến bộ. Các câu lạc
bộ kinh tế của EC hoặc giữa Mỹ và Canada cũng chưa có khả năng đi đến dự
thảo một luật phá sản chung. Do đó ngày nay, mỗi quốc gia đều ban hành một
luật phá sản riêng, phù hợp hơn với hoàn cảnh kinh tế - xã hội của nước mình,
như Luật Phá sản của Thụy Điển hiện nay là luật được ban hành năm 1972, Mỹ
từ năm 1978, của Ba Lan từ năm 1983, của Singapore từ năm 1985, của
Hungary và Trung Quốc từ năm 1986. Đặc biệt Anh năm 1986 ban hành 2 đạo
luật liên quan đến phá sản: Luật không có khả năng thanh toán và Luật treo giò
giám đốc Cty. [8]
Khái niệm phá sản xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển xã hội loài
người từ thời La Mã cổ đại, Trung Cổ cho đến xã hội hiện đại ngày nay. Thời La
Mã đó có nhiều con nợ thường bỏ trốn, để ổn định trật tự xã hội, Nhà nước La
Mã phải đứng ra cưỡng chế tài sản của con nợ để trả cho chủ nợ. Cách làm này
chỉ thích hợp đối với trường hợp con nợ chỉ mắc nợ một người. Nhưng khi cùng
một lúc con nợ phải trả cho nhiều chủ nợ thì rất dễ xảy ra tranh chấp. Bởi thế
người ta thấy rằng, để các chủ nợ đều được đảm bảo trả nợ một cách công bằng
hợp lý, “Tốt nhất là tòa án địa phương (của con nợ) đứng ra quản lý số tài sản,
rồi phân chia tài sản này cho các chủ nợ tuỳ theo vốn và lãi của mỗi người” [8].
Ở mỗi thời kỳ, mỗi quốc gia pháp luật phá sản lại có những điểm khác
9
biệt, nhưng nhìn chung cách lý giải về bản chất của phá sản đều gặp nhau ở
hai điểm chung đó là: (i)Một người hay một DN nào đó gặp khó khăn về tài
chính, không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả, và có thể
dẫn đến việc chấm dứt sự tồn tại của DN đó (ii)Phá sản đương nhiên phải do
pháp luật điều chỉnh và khi đặt trong cái nhìn về mặt pháp lý đây là một thủ
tục tư pháp và một DN được kết luận là phá sản khi có quyết định có hiệu lực
pháp luật của Tòa án tuyên bố một DN bị phá sản.
Tuy nhiên tùy vào trình độ phát triển cũng như điều kiện kinh tế xã hội
mà mỗi quốc gia lại có những thay đổi về đối tượng, yếu tố định lượng hay
pháp luật điều chỉnh của phá sản. Theo quy định tại Hướng dẫn quyền của
NLĐ khi DN phá sản do Phòng Lao động Hồng Kông ban hành tháng
09/2014, khuyến nghị NLĐ cần thông báo cho cơ quan chức năng khi DN có
những biểu hiện sau: “Chủ sử dụng lao động không trả được nợ của DN bao
gồm cả tiền khi đến hạn; Nguyên liệu thực vật, máy móc hoặc vật liệu khác
được lấy ra khỏi nơi làm việc mà không có lý do chính đáng; Nơi làm việc
đóng cửa mà không thông báo trước; Chủ DN đột nhiên biến mất” [18] qua
quy định này có thể thấy rằng các nhà làm luật không đưa ra một định nghĩa
nặng về tính pháp lý mà chỉ là những biểu hiện bên ngoài để NLĐ kịp thời
bảo vệ lợi ích của mình. Pháp luật phá sản một số quốc gia như Hoa Kỳ hay
Singapore cho rằng phá sản không chỉ bó hẹp trong phạm vi DN mà còn có cả
cá nhân (không kinh doanh). Tại Singapore, một cá nhân có thể nộp đơn xin
phá sản nếu nợ số tiền không có khả năng thanh toán tổng cộng ít nhất 10.000
đô la Singapore các điều kiện này sẽ được tòa án đánh giá và người này có thể
tuyên bố phá sản trong vòng 4-6 tuần sau khi đệ đơn [19]. Hoa Kỳ cho phép
cá nhân có thể đệ đơn khai phá sản một trong hai loại phá sản – Chương 7 “vỡ
nợ” phá sản hay Chương 13 “trả nợ” phá sản, nếu cá nhân nộp đơn phá sản
theo chương 7 kèm theo những điều kiện nhất định họ sẽ thoát khỏi khỏi
10
khoản nợ nhưng cũng bị tịch thu toàn bộ tài sản (trừ tài sản được miễn) còn
nếu nộp đơn theo chương 13 cá nhân có thể giữ được lại tài sản của mình các
khoản nợ sẽ được chính phủ gia hạn trả trong nhiều năm [20]. Theo Luật Phá
sản của 1966 của Úc, tại Điều 5 Giải thích các khái niệm có quy định Phá sản là
tình trạng DN bị tịch thu tài sản theo lệnh và trở thành phá sản theo kiến nghị
của chủ nợ, cũng tại điều 5 này quy định tất cả thủ tục và thẩm quyền về phá sản
đều phải thực hiện theo quy định tại Luật Phá sản 1966 này. Trong khi đó pháp
luật phá sản Nhật Bản chế định phá sản quy định tại nhiều bộ luật với thời gian
ban hành khác nhau: Luật Phá sản (năm 1922); Bộ luật thương mại (năm 1938);
Luật về thoả hiệp (năm 1922; năm 2000); Bộ luật về phục hồi dân sự (năm
1999; năm 2000); Luật về tổ chức lại công ty (năm 1952). [4]
Pháp luật phá sản của Việt Nam trải qua trình phát triển gần 30 năm,
bắt đầu manh nha từ luật Công ty năm 1990 cho đến Luật phá sản 2014 pháp
luật về phá sản của Việt Nam đã không ngừng phát triển và hoàn thiện để
thích ứng với môi trường kinh doanh biến đổi không ngừng. Nhưng dù cho có
thay đổi thế nào thì pháp luật về phá sản vẫn luôn đảm bảo những giá trị cốt
lõi đó là: Bảo vệ một cách có hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ nợ; Bảo vệ lợi ích của người mắc nợ, tạo cơ hội để người mắc nợ rút khỏi
thương trường một cách trật tự; Góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của NLĐ;
Góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; Góp phần làm lành mạnh hóa nền
kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả hơn.
Như vậy, pháp luật phá sản là hệ thống các quy phạm pháp luật quy
định về điều kiện mở TTPS; địa vị pháp lý, thẩm quyền, mối quan hệ giữa các
chủ thể tham gia TTPS; trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản;
điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thanh lý tài sản DN; thi hành quyết
định tuyên bố phá sản; các vấn đề khác phát sinh trong quá trình giải quyết
vụ việc phá sản. Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
11
Nam hiện nay chế định phá sản được quy định trong Luật Phá sản 2014 và
các văn bản hướng dẫn thi hành, ngoài ra các vấn đề liên quan đến quyền lợi
của NLĐ được quy định tại: Bộ luật lao động 2012, Luật Việc làm 2013, Luật
Bảo hiểm xã hội 2014, Luật Công Đoàn 2012 cùng các văn bản hướng dẫn.
Có thể thấy, phá sản là hiện tượng bình thường và cần thiết của kinh tế thị
trường, còn pháp luật phá sản là sự can thiệp có ý thức của Nhà nước vào
hiện tượng này nhằm hạn chế tối đa những hậu quả tiêu cực và khai thác
những mặt tích cực của nó. Thông qua pháp luật phá sản, Nhà nước và Tòa
án có thể can thiệp vào quá trình hoạt động kinh doanh của các DN với một
cách nhìn hiện đại, năng động và hết sức mềm dẻo.
Khi DN phá sản, ngoài lợi ích của chủ nợ bị ảnh huởng thì không thể
không nhắc đến quyền lợi của NLĐ – đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Tình
trạng nợ đọng bảo hiểm xã hội (BHXH) của nhiều DN, DN ngừng hoạt động
các chế độ BHXH của NLĐ cũng không được đảm bảo cụ thể đó là: không
được trả lương, phụ cấp theo hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đầy
đủ và đúng thời hạn; không được giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội
(BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), trợ cấp thôi việc…cuối cùng là tình trạng thất
nghiệp, như đã phân tích ở trên khi DN “phá sản hàng loạt” thì tỷ lệ thất nghiệp
cũng tăng cao gây ra bất ổn cho xã hội.
Quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản trong các văn bản pháp lý quốc
tế, các quyền của NLĐ nói chung và NLĐ trong pháp luật Phá sản nói riêng
được ghi nhận trong các Điều ước quốc tế như: Tuyên ngôn toàn thế giới về
nhân quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa năm 1966; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và các khuyến
nghị của Tổ chức lao động thế giới (ILO).
Đến nay, ILO đã thông qua 189 công ước và 203 khuyến nghị, đây
chính là những công cụ pháp lý chủ yếu, quan trọng nhằm khuyến trợ công
12
bằng xã hội và bảo đảm các quyền cho NLĐ. Theo các văn bản này, quyền
của NLĐ gồm các quyền: Quyền làm việc, quyền công đoàn độc lập, quyền
không bị ép làm việc không lương, quyền nam nữ hưởng lương bằng nhau,
quyền không bị phân biệt đối xử, quyền không bị phân biệt đối xử nếu có con
cái, quyền được giúp đỡ và có việc làm thích hợp nếu bệnh tật, quyền được
đào tạo, bồi dưỡng có ăn lương, quyền không bị đuổi việc, quyền được trả
lương bằng tiền, quyền hưởng lương trên hoặc bằng mức tối thiểu, quyền
được trả lương nếu chủ sử dụng lao động bị phá sản. [7]
C. Mác cho rằng, con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã
hội, trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa của các
mối quan hệ xã hội. Vì vậy con người phải có được các quyền trên nhiều lĩnh
vực khác nhau và các quyền này thường đan xen với nhau. Nhu cầu
về quyền hiểu theo nghĩa chung nhất là như nhau cho tất cả mọi đối tượng. Từ
căn nguyên này, giúp chúng ta tìm hiểu được về quyền của NLĐ nói chung và
trong pháp luật phá sản nói riêng. Vì lợi ích của NSDLĐ và lợi ích của NLĐ
phải có sự hài hoà. Quan hệ giữa họ không mâu thuẫn gay gắt với nhau mà
được chuyển hoá để kết hợp thành một thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì
sự phát triển của xã hội. Quyền của NLĐ khi DN phá sản cần hiểu là những
lợi ích mà họ được nhận nó không mâu thuẫn với quyền lợi của DN.
Qua các văn bản pháp luật quốc tế cũng như quan điểm của các nhà lý
luận, quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản là một trong những quyền hết
sức quan trọng của con người thuộc nhóm các quyền có việc làm, được trả
công và đảm bảo các chế độ, điều kiện lao động. Các quyền này không chỉ
được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước,
khuyến nghị), mà còn được cụ thể hóa và quy định trong các văn bản pháp
luật quốc gia như Hiến pháp, Bộ luật, Luật và được thể hiện dưới các khía
cạnh: địa vị pháp lý (được tham gia vào các thủ tục tố tụng với tư cách giống
13
như chủ nợ của DN), thẩm quyền, các quyền về tài sản…của NLĐ. Để bảo
đảm các quyền của NLĐ các quốc gia buộc phải ban hành các quy định về
nghĩa vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy
việc thực hiện các quyền của NLĐ, đồng thời phải đưa ra các quy định mang
tính chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.
Như vậy, về bản chất, NLĐ cũng là một chủ nợ của DN với sợi dây
ràng buộc là hợp đồng lao động hay thỏa ước lao động tập thể. Vì vậy quyền
của NLĐ trong pháp luật phá sản là những lợi ích, ưu tiên, hỗ trợ và sự công
nhận mà Nhà nước dành cho NLĐ trong lĩnh vực phá sản được cụ thể hóa
bằng luật, trong suốt quá trình từ trước, trong và sau khi DN bị tuyên bố phá
sản. Đó là các quy định về: Quyền tham gia TTPS, các quyền liên quan đến
tài chính (lương, BHXH, trợ cấp...), các quyền hỗ trợ. Cùng với đó là quan
điểm cách nhìn nhận của mỗi quốc gia về thứ tự ưu tiên thanh toán tài sản
của DN phá sản cũng như chính sách hỗ trợ và các chế tài đảm bảo thực thi
các quy định trên.
1.2.
Sự cần thiết phải bảo đảm quyền của người lao động trong
pháp luật phá sản.
Về mặt lý luận, trong mối quan hệ với NSDLĐ, NLĐ luôn ở vị trí yếu thế
hơn, có sự phụ thuộc và chịu sự quản lí, điều hành của NSDLĐ. Chính pháp luật
cũng thừa nhận điều đó. Với việc thừa nhận của pháp luật nên trên thực tế, xảy
ra hiện tượng lạm quyền của NSDLĐ và dẫn tới những thiệt thòi cho NLĐ . Từ
đó, muốn tạo ra quan hệ lao động được bình đẳng hơn pháp luật nói chung và
pháp luật phá sản nói riêng đã có những quy định để bảo vệ NLĐ, qua đó hạn
chế sự lạm quyền của NSDLĐ. NLĐ nhận thức được quyền của mình và DN tôn
trọng cũng như thực hiện các nghĩa vụ của mình với NLĐ. Phá sản ảnh hưởng
trực tiếp đến NLĐ khiến họ lâm vào tình cảnh thất nghiệp vì vậy đảm bảo quyền
14
của NLĐ khi DN phá sản là cách hạn chế mức độ thấp nhất những thiệt hại mà
họ có thể gặp phải, có ý nghĩa lớn đối với NLĐ và ổn định xã hội.
Về mặt thực tiễn, mỗi năm thị trường lao động Việt Nam đón nhận
thêm hơn 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, trình độ tay nghề của NLĐ
cũng không ngừng được nâng cao, áp lực việc làm và cạnh tranh trong thị
trường giữa những NLĐ là rất lớn, nên khi tham gia thị trường lao động, NLĐ
thường có tâm lý có được công việc bằng mọi giá. Kể cả khi đã có việc làm
ổn định, cuộc sống của họ cũng dễ bị ảnh hưởng bởi khó khăn phát sinh như:
Tương quan cung – cầu lao động trên thị trường, vấn đề thất nghiệp do nhiều
nguyên nhân... Vì vậy, người lao động khó có điều kiện thỏa thuận bình đẳng
thực sự với bên sử dụng lao động như yêu cầu. Họ cần được bảo vệ để hạn
chế những bất lợi, những sức ép do điều kiện khách quan mang lại cũng như
nhận thức đối với quyền của mình của phần lớn NLĐ chưa cao.
Khi một DN phá sản, NLĐ là người chịu ảnh hưởng đầu tiên và nặng nề
nhất, họ có thể không được thanh toán lương, bị mất việc làm... Nếu không có
sự bảo vệ của pháp luật thì với hiểu biết của mình NLĐ sẽ khó được đảm bảo
được những quyền lợi của mình.
Trong quá trình hội nhập, việc Việt Nam tham gia vào các Hiệp định
thương mại tự do (FTAs) nói chung và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) nói riêng đã đặt ra nhiều yêu cầu mới về đảm bảo quyền của
NLĐ nói chung và trong pháp luật phá sản nói riêng, bởi những tổ chức hay
Hiệp định quốc tế Việt Nam tham gia quyền của NLĐ luôn được đề cao với
những yêu cầu rất khắt khe. Đảm bảo quyền của NLĐ trong luật phá sản cũng
là đảm bảo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng với thế giới.
Cơ sở pháp lý, quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản là một quyền
qung trọng, cơ bản của NLĐ. Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật quốc tế
có thể thấy rằng, các quyền của NLĐ trong pháp luật phá sản là một trong
15
những quyền hết sức quan trọng của con người thuộc nhóm các quyền về kinh
tế, xã hội và văn hóa. Các quyền của NLĐ có vai trò quan trọng đối với NLĐ
hoặc tập thể NLĐ. Các quyền này không chỉ được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật quốc tế (tuyên ngôn, công ước, khuyến nghị), mà còn được cụ thể
hóa và quy định trong các văn bản pháp luật quốc gia như Hiến pháp, bộ luật,
luật và được thể hiện dưới hai khía cạnh là quyền và nghĩa vụ, bởi để bảo đảm
các quyền của NLĐ các quốc gia buộc phải ban hành các quy định về nghĩa
vụ thông qua việc ban hành các chính sách, chương trình để thúc đẩy việc
thực hiện các quyền của NLĐ, đồng thời phải đưa ra các quy định mang tính
chế tài xử lý khi các quyền này bị xâm phạm.
Quyền của NLĐ trong hoàn cảnh DN lâm vào tình trạng phá sản từ
trước đến nay vẫn được các văn bản pháp luật chuyên ngành phá sản và lao
động của các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm điều chỉnh bởi khi DN
phá sản thì sẽ làm cho khối lượng lớn NLĐ bị thất nghiệp, nhu cầu về việc
làm cũng trở nên cấp thiết, việc làm không ổn định, không thường xuyên và
phù hợp dẫn tới thu nhập bấp bênh, cuộc sống không đảm bảo, tệ nạn và tội
phạm xã hội tăng đáng kể, đồng nghĩa với việc tăng gánh nặng đối với kinh
tế, xã hội của quốc gia, khu vực.
Đảm bảo quyền lợi của NLĐ chính là một bước trong tiến trình xây
dựng, phát triển nền kinh tế bởi ở bất kỳ một đất nước nào, lực lượng lao động
luôn đông đảo chiếm đa số đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. NLĐ có
thể là cán bộ, nhân viên làm công tác quản lý, những công nhân, thợ kỹ
thuật…. họ có ở khắp mọi nơi, làm việc để có được thu nhập (bao gồm tiền
lương, tiền thưởng, các chế độ an sinh…) nhằm mục đích đảm bảo cuộc sống
của mình và đóng thuế cho nhà nước bằng nhiều hình thức, họ chính là lực
lượng tạo ra và cũng chính là lực lượng tiêu thụ hàng hóa trên thị trường, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển cũng bằng nhiều cách.
16
Tuỳ theo chế độ chính trị - xã hội và định hướng mà pháp luật từng
quốc gia trên thế giới theo đuổi, quan điểm của nhà nước trong việc ưu tiên
bảo vệ lợi ích của nhóm chủ thể nào mà chức năng bảo vệ các nhóm quyền lợi
của pháp luật phá sản có những quy định mang tính đặc thù. Trong pháp luật
phá sản hiện đại, vấn đề bảo vệ quyền lợi NLĐ được đặc biệt quan tâm.
Khẳng định quyền của NLĐ trong TTPS cũng chính là tôn trọng nhân quyền,
mục đích mà bất kỳ một đất nước văn minh nào nói riêng và nhân loại tiến bộ
hiện nay đều đang hướng tới. Pháp luật của hầu hết các nước đều ghi nhận
quyền của NLĐ trong suốt quá trình tố tụng và bình đẳng với các chủ nợ
khác bởi việc đảm bảo quyền của họ là thực sự cần thiết. Pháp luật phá sản ở
một số nước theo chủ nghĩa xã hội và đang phát triển như Cộng hòa dân chủ
nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhóm NLĐ, là
những thành phần yếu thế nhưng lại đóng vai trò chủ chốt trong xã hội và nền
kinh tế, quyền lợi của họ lại càng đặc biệt được bảo vệ.
Quyền của NLĐ trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
DN ngày càng được phát triển và thừa nhận một cách rộng rãi, thể hiện ở
các quyền như: quyền trả lương, các khoản nợ khác; quyền tham gia
HNCN, quyết định sự tồn tại của DN; quyền giám sát DN được áp dụng
thủ tục phục hồi, quyền được ưu tiên thanh toán nợ lương và các khoản tiền
hợp pháp khác.
Pháp luật phá sản nước nào trên thế giới cũng quy định các quyền để
NLĐ có thể tham gia tự bảo vệ lợi ích của mình. Cần nhận thấy rằng khi một
DN “mất khả năng thanh toán” các khoản nợ phát sinh từ hoạt động kinh
doanh thì NLĐ bị nợ lương, phụ cấp khác theo hợp đồng lao động sẽ vừa là
chủ nợ và cũng sẽ là nạn nhân. Cơ sở đầu tiên để họ thực hiện quyền của
mình, dù là ở tư cách nào đi nữa, trước hết vẫn là quyền nộp đơn lên cơ quan
tư pháp có thẩm quyền, cụ thể là Tòa án.
17
Hiện nay, pháp luật phá sản trên thế giới phân chia chủ nợ thành ba
loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ không có
bảo đảm. Pháp luật cho phép các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có bảo
đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS đối với DN, áp dụng
thủ tục thanh lý toàn bộ tài sản còn lại của DN để trả nợ cho các chủ nợ.
NLĐ trong trường hợp này sẽ có quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS DN với
tư cách là chủ nợ không có bảo đảm.
NLĐ có thể trực tiếp hoặc thông qua đại diện của chính mình tham
gia HNCN với tư cách là chủ nợ không có bảo đảm, gián tiếp giám sát thủ
tục phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của DN hoặc thủ tục thanh lý
tài sản của DN phá sản thông qua quản tài viên. Nhóm quyền lợi này có
thể tạm gọi là quyền tham gia TTPS. NLĐ cũng như các chủ nợ khác trong
HNCN, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến
lợi ích của mình, có quyền thông qua hay không thông qua kế hoạch phục
hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN, quyết định sự tồn tại hay
không tồn tại của con nợ.
Ngoài ra, cũng cần đặc biệt lưu ý về quyền liên quan đến quan hệ lao
động, đặc biệt là quyền được thanh toán tiền lương trong DN phá sản bởi đây
là một vấn đề phức tạp bao gồm nội dung nghĩa vụ thanh toán như tiền
lương, phụ cấp, trợ cấp thôi việc… quyền ưu tiên thanh toán: được thanh toán
sau các chủ nợ có bảo đảm… Về lý thuyết, rất khó để tìm thấy bất cứ ý kiến
nào phản đối quan niệm NLĐ được bồi thường tiền lương và các quyền lợi
khác mà họ đáng được hưởng khi DN phá sản sau khi DN thực hiện nghĩa vụ
thanh toán các khoản nợ thường không còn tài sản để thực hiện nghĩa vụ với
NLĐ.
Hậu phá sản DN, vấn đề đặt ra cấp bách nhất là quyền có việc làm. Đây
là yếu tố cơ bản để bảo đảm sự tồn tại thực tế của con người, đồng thời cũng
18
là yếu tố để bảo đảm nhân phẩm và lòng tự trọng của NLĐ. Quyền có việc
làm được coi là quyền hiến định trong pháp luật quốc tế, cụ thể, Tuyên ngôn
toàn thế giới về nhân quyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi người đều có quyền
làm việc, tự do lựa chọn việc làm...” So với quyền của NLĐ khi DN phá sản,
quyền có việc làm hẹp hơn, tuy nhiên, đây lại là một quyền cơ bản nhất, quan
trọng nhất trong lĩnh vực lao động việc làm và hậu phá sản. Quyền có việc
làm chính là tiền đề, điều kiện quan trọng để thực hiện các quyền khác của
NLĐ nói riêng và các quyền của con người nói chung, như quyền về nhà ở,
quyền về giáo dục, văn hoá..... Chỉ khi quyền có việc làm được đảm bảo thực
hiện, thì các quyền khác của con người mới có ý nghĩa. Luật việc làm 2013
của Việt Nam đã bước đầu thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề này.
1.3.
Nội dung các quy định về quyền của người lao động trong
pháp luật phá sản.
1.3.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Về khái niệm, quyền nộp đơn yêu cầu mở TTPS của NLĐ là quyền mà
NLĐ được tham gia vào TTPS của DN, cụ thể ở đây là NLĐ trực tiếp nộp
đơn (hoặc thông qua đại diện của NLĐ, Công đoàn) đến cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (TAND) để cơ quan đó thụ lý xem xét có quyết định mở TTPS
hay không đối với DN mà NLĐ nộp đơn đang làm việc. Về chủ thể, người
nộp đơn yêu cầu mở TTPS phải trực tiếp là NLĐ đang làm việc tại DN hoặc
Công đoàn, người đại diện cho họ, người nộp đơn phải đại diện và bảo vệ lợi
ích tuyệt đối cho NLĐ. Xác định đúng chủ thể NLĐ nộp đơn vừa đảm bảo
đúng thủ tục pháp luật vừa đảm bảo những mong mỏi,tâm tư nguyện vọng của
NLĐ được thực hiện; Nếu là đại diện cho NLĐ thì cần có biên bản họp hoặc
bỏ phiếu của tập thể NLĐ cử đại diện. Về thời điểm nộp đơn, bắt đầu từ thời
điểm khi quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ bị xâm phạm: DN chậm trả
lương hoặc không thực hiện nghĩa vụ tài chính khác đối với NLĐ. Về nghĩa
19