ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***----------
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG LAN
ĐẢNG BỘ HUYỆN BÌNH LỤC LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM
2014
Chuyên ngành: Lịch sử đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn: TS. Lê Thị Quỳnh Nga
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học của
riêng tôi. Các tài liệu và số liệu trích dẫn trong luận văn là
hoàn toàn trung thực và có xuất xứ rõ ràng. Nếu có gì
không trung thực, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Người viết cam đoan
Nguyễn Thị Phương Lan
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn Thạc sĩ, tác giả xin gửi lời tri ân sâu sắc tới
TS. Lê Thị Quỳnh Nga - người Thầy đã tận tình dạy dỗ, hướng dẫn tác giả
trong suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy Cô trong khoa Lịch sử trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi
tác giả đã học.
Cám ơn các cán bộ Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
các cơ quan ban ngành của tỉnh Thanh Hóa và huyện Quảng Xương đã tạo
điều kiện cho tác giả có được tài liệu thực hiện Luận văn.
Cám ơn gia đình, bạn bè, người thân đã luôn động viên, khuyến khích
tác giả trong quá trình học tập và làm luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
Nguyễn Thị Phương Lan
3
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục luc
4
MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Trong quá trình CNH HĐH đất nước hiện nay vấn đề nông nghiệp nông
thôn là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển đất nước nó ảnh hưởng rất lớn đến thành quả chung của toàn bộ sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Nước ta hiện nay vẫn là nước nông nghiệp, lực
lượng lao động vẫn chủ yếu ở nông thôn, chiếm khoảng 70% dân số, trong
khi đó đóng góp của nông thôn vào nền kinh tế quốc dân chiếm khoảng hơn
20% GDP và trên 25% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên các chính sách
phát triển nông nghiệp thường thiên về phát triển ngành mà chưa chú ý đến
vai trò của chủ thể, động lực chính của sự phát triển nông nghiệp và nông
thôn đó là nông dân, phần lớn các chính sách chưa quan tâm xử lý tổng thể và
hợp lý giữa các vùng, giữa các lĩnh vực trong ngành, giữa nông thôn và thành
thị, chưa đặt ra và giải quyết triệt để các mối quan hệ giữa các yếu tố chính
trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Đây là nguyên nhân chủ
yếu khiến cho sau nhiều thập kỷ nền nông nghiệp của ta chuyển sang nền kinh
tế thị trường vẫn chưa đạt được bước nhảy vọt trong nông nghiệp, nông thôn.
Chính vì vậy nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
1991 đã xác định: “phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến phát triển toàn diện kinh tế nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu để ổn định kinh tế xã hội” (23 tr63). Đặc biệt nghị quyết đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nhấn mạnh: “hiện nay và trong nhiều năm
tới đây vấn đề nông nghiệp, nông dân nông thôn có tầm chiến lược quan trọng.
Việc xây dựng hoàn chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế, nông nghiệp và
nông thôn thực hiện chương trình mới nhằm xây dựng các làng ấp, xã, bản có
cuộc sống ấm no, hạnh phúc, văn minh xanh, sạch, đẹp gắn với việc hình thành
các khu dân đô thị hóa. Phát huy dân chủ, xây dựng nếp sống văn minh, bài
trừ các tệ nạn xã hội ở nông thôn” (30 tr195 – 196) .
5
Mặc dù chủ trương xây dựng và phát triển nông thôn được Đảng ta
đưa ra khá sớm nhưng kết quả thực hiện xây dựng và phát triển nông thôn
mới trong cả nước nói chung và của Hà Nam nói riêng còn tồn tại nhiều
vấn đề cần giải quyết. Trong quá trình thực hiện chủ trương đổi mới nông
thôn trên mỗi địa bàn thực hiện luôn tồn tại nhiều vấn đề. Có những thành
tựu nổi bật làm thay đổi bộ mặt làng xã về các phương diện như: đường xá,
cầu cống, môi trường, hệ thống giáo dục - y tế, đời sống nhân dân ấm no,
hạnh phúc nhưng cũng tồn tại một số hạn chế nhất định về khả năng lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn vấp phải rất nhiều khó khăn: tư
tưởng bảo thủ, trì trệ chính là rào cản khá lớn cho quá trình thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp ở nông thôn.
Trong cơ cấu nền kinh tế của huyện kinh tế nông nghiệp chiếm tỉ lệ
>90% vì vậy vấn đề nông nghiệp, nông thôn lại càng cấp thiết hơn bao giờ
hết. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “ Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây
dựng nông thôn mới giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014”, làm luận văn
Thạc sỹ ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam để nghiên cứu làm rõ hơn
đặc điểm tình hình nông nghiệp, nông thôn của huyện trong giai đoạn thực
hiện xây dựng NTM.
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống của nhân dân. Xuất phát từ
tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, trong những năm qua nông nghiệp,
nông thôn là đề tài nghiên cứu được các nhà khoa học quan tâm. Có rất nhiều
công trình khoa học, nghiên cứu liên quan đến nội dung trên như sau:
+“Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử” do
GS. Phan Đại Doãn và PGS. Nguyễn Quang Ngọc làm chủ biên, NXB chính
trị Quốc gia ấn hành năm 1994, là công trình nghiên cứu những vấn đề lịch sử
6
trong phát triển nông thôn nước ta. Sau khi nêu lên sự quan tâm của Nhà nước
trong thời kỳ về quản lý làng xã và xây dựng thiết chế chính trị - xã hội nông
thôn nước ta, các tác giả trình bày khá toàn diện về quản lý nông thôn nước ta
trong lịch sử như vấn đề Nhà nước quản lý nông thôn trong các thế kỷ XVI XVIII; Nhà Nguyễn với vấn đề nông thôn thế kỷ XIX; Phát triển nông thôn
trong thời kỳ pháp thuộc (1945 - 1954); Cơ cấu quản lý làng xã Việt Nam từ
1954 - 1975. Công trình còn đề cập mô hình phát triển làng xã nông thôn Việt
Nam ở các vùng cụ thể nhất là Nam bộ, Bắc bộ. Công trình đã cung cấp
những số liệu quan trọng về vai trò Nhà nước, tính cộng đồng, tính bền vững
của mô hình làng xã Việt Nam; những nhân tố tác động đến sự hình thành
thiết chế làng xã và mô hình hoạt động.
Ngoài ra còn có hàng loạt các công trình nghiên cứu, giới thiệu kinh
nghiệm phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài. Theo hướng này, các
nhà nghiên cứu và chỉ đạo thực tiễn ở nước ta như: PGS.TS Chu Hữu Quý;
GS.TS Nguyễn Thế Nhã cũng đã có những công trình nghiên cứu rất công
phu và có giá trị.
Điểm chung nhất của các công trình này là sau khi phân tích thực tiễn
giải quyết vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc xây dựng chỉ đạo chính
sách phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ngoài, các tác giả đều gợi mở,
nêu lên những kinh nghiệm để có thể vận dụng giải quyết vấn đề thực tiễn
Việt Nam.
+ “Phát triển nông thôn” do GS. Phạm Xuân Nam (chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội ấn hành 1997, là công trình nghiên cứu chuyên sâu về phát
triển nông thôn. Trong công trình này tác giả đã phân tích sâu sắc một số nội
dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như: dân số, việc làm,
lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý tài nguyên
thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xóa đói giảm nghèo. Trong lúc phân
tích những thành tựu, yếu kém trong phát triển nông thôn ở nước ta, các tác
7
giả chỉ ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống chính sách và cách thức chỉ đạo của
Nhà nước trong quá trình vận động của nông thôn.
+ “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và
ở Việt Nam” của các tác giả Benedict J.Tria Kerrkvliet, Jamsscott Nguyễn
Ngọc và Đỗ Đức Thịnh sưu tầm và giới thiệu, Nxb Hà Nội ấn hành năm 2000.
Trong công trình này các tác giả đã nghiên cứu vai trò, đặc điểm của nông
dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên trên thế giới và những kết quả
bước đầu trong nghiên cứu làng truyền thống ở Việt Nam .
Đặc biệt công trình nghiên cứu của PGS.TS Vũ Trọng Khải chủ trì
được Nxb Nông nghiệp ấn hành năm 2004 là một công trình nghiên cứu công
phu về mô hình phát triển nông thôn Việt Nam. Công trình nghiên cứu này
được xuất bản trên cơ sở đề tài cấp Nhà nước do tác giả làm chủ nhiệm với
tiêu đề: “Tổng kết và xây dựng mô hình phát triển kinh tế - xã hội kết hợp
truyền thống làng xã với văn minh thời đại”.
+ “Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng” do tác giả GS.TS
Nguyễn Đình Phan; PGS.TS Trần Minh Đạo; TS Nguyễn Văn Phúc biên
soạn. Trong công trình các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều nội dung song
chú ý nhất là các tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề lí luận về CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn; các yếu tố tác động đến nông nghiệp, nông thôn nói
chung và đồng bằng sông Hồng nói riêng.
+ “Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn”
của tác giả PGS.TS Chu Hữu Quý, PGS.TS Nguyễn Kế Tuấn, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2001. Trong công trình khoa học này các nhà nghiên cứu làm
rõ vấn đề như: một số vấn đề lí luận về CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn
theo những yêu cầu rút ngắn; nghiên cứu thực trạng thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn; các tác giả cũng đưa ra con đường, bước đi và các giải pháp
chiến lược đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
8
+ “Xây dựng nông thôn mới vùng chiêm trũng” các tác giả Nhật Tân,
Tạp chí Cộng sản số 23, năm 2007. Trong bài viết tác giả nghiên cứu những
khó khăn, thuận lợi trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở vùng đồng
bằng chiêm trũng. Bên cạnh đó còn có những bài đăng trên tạp chí, các báo
của Trung ương và địa phương cũng đề cập tới vấn đề liên quan NTM.
Những công trình đó đã cung cấp những luận cứ, luận chứng, những dữ
liệu rất quan trọng cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển nông
thôn, nông nghiệp, nông dân nước ta trong thời kì đổi mới. Tuy nhiên chưa có
một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về huyện Bình Lục xây dựng NTM từ năm
2008 đến năm 2014. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các tài liệu trên, kết hợp
với phân tích, tổng hợp, đánh giá tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp của
huyện, tác giả đã tập hợp, xây dựng một cuốn tài liệu viết về quá trình xây
dựng NTM ở huyện Bình Lục giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014 mang tên:
“Đảng bộ huyện Bình Lục lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008
đến năm 2014”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu làm rõ vấn đề nông thôn mới ở huyện Bình Lục dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014.
Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Đề tài nghiên cứu làm rõ đặc điểm, tình hình xây dựng NTM ở huyện
Bình Lục từ năm 2008 đến năm 2014. Hệ thống hoá các chủ trương của Đảng về
phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn trong thời kì đổi mới đã được Đảng bộ
huyện kịp thời nắm bắt và vận dụng sáng tạo vào đặc điểm riêng của huyện.
+ Đề tài phác họa quá trình lãnh đạo xây dựng NTM ở huyện dưới sự
lãnh đạo của Đảng bộ huyện.
+ Cuối cùng luận văn nêu lên những nhận xét trong quá trình xây dựng
NTM và những kinh nghiệm lịch sử được rút ra từ đó.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài chính là chủ trương và biện pháp xây
dựng nông thôn mới của đảng bộ Huyện Bình Lục.
Phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu bối cảnh đề ra chủ trương xây dựng NTM
+ Sự lãnh đạo xây dựng NTM của Đảng bộ huyện từ năm 2008 đến
năm 2014.
+ Đề tài rút ra những nhận xét và kinh nghiệm lịch sử.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Đề tài sử dụng và tham khảo các văn kiện của Trung ương Đảng, Đảng
bộ tỉnh, Đảng bộ huyện Bình Lục về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng
NTM giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014. Đồng thời cũng sử dụng các báo
cáo tổng kết, sơ kết qua các năm, kì đại hội trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ xây dựng NTM ở Bình Lục.
Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn sử dụng các phương pháp: lịch sử, lo gic, so sánh ngoài
ra trong luận văn còn sử dụng phương pháp điền dã thu thập kết quả tại địa
phương trong thời gian thực hiện.
6. Đóng góp luận văn
Đề tài phác họa bước đầu bức tranh xây dựng nông thôn mới qua
việc hệ thống hóa những chủ trương và giải pháp thực hiện của Đảng bộ
huyện Bình Lục. Những kết quả mà đề tài đạt được qua quá trình thực tế
khảo sát quá trình xây dựng NTM ở huyện sẽ là nguồn tài liệu tham khảo
cho lịch sử địa phương trong quá trình viết lịch sử Đảng bộ của huyện
trong giai đoạn đổi mới.
10
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
chia làm 2 chương.
Chương 1: Sự lãnh đạo xây dựng nông thôn mới của Đảng bộ huyện
Bình Lục từ năm 2008 đến năm 2014.
Chương 2: Một số nhận xét và kinh nghiệm lịch sử
11
Chương 1
SỰ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN BÌNH LỤC TỪ NĂM 2008 ĐẾN NĂM 2014
1.1. Một số điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Bình Lục
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Bình Lục là một huyện đồng bằng chiêm trũng nhất của địa bàn tỉnh Hà
Nam nằm cách thành phố Phủ Lý khoảng 17 km về phía đông nam của tỉnh
nằm dọc trên tuyến đường 21A cũ. Từ xưa kia Bình Lục luôn được biết đến là
mảnh đất trũng nhất của tỉnh là “cái rốn nước” hoặc những cái tên đùa vui
như “quê hương danh giá đất ông Cò”. Với những cái tên mà mọi người quen
gọi về Bình Lục ta có thể thấy phần nào về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và
cũng từ đó hình thành và tác động đến tình hình kinh tế - văn hóa – xã hội và
đời sống của nhân dân trong huyện.
Về vị trí địa lý
Bình Lục nằm ở chính giữa và phía đông nam của tỉnh Hà Nam. Phía
Đông Bắc và phía Bắc giáp huyện Lý Nhân với ranh giới là nhánh nhỏ của
sông Châu Giang, phía Tây Bắc giáp huyện Duy Tiên ranh giới là dòng
chính sông Châu Giang, phía Tây giáp huyện Thanh Liêm, các huyện này đều
thuộc tỉnh Hà Nam. Riêng phía Nam và Đông Nam huyện giáp tỉnh Nam
Định, ranh giới là sông Lý Nhân, tính từ tây sang đông giáp các huyện: Ý
Yên, Vụ Bản và Mỹ Lộc. Trong địa bàn huyện có các con sông nhỏ như: sông
Sắt, sông Liêm Phong (trên ranh giới với huyện Thanh Liêm),... đều là các
sông nhánh của sông Châu Giang và sông Đáy, thuộc hệ thống sông Hồng.
Lịch sử hình thành của huyện có rất nhiều biến động theo lịch sử thăng
trầm của thời gian. Theo sử cũ chép lại huyện Bình Lục xuất hiện từ trước
thời Trần nhưng trong quá trình phát triển của lịch sử địa dư Bình Lục có
nhiều thay đổi. Bình Lục có lúc lệ vào phủ Lý Nhân thuộc Châu Giao dưới
thời nhà Minh thống trị có lúc đổi tên thành Ninh Lục dưới thời Tây Sơn.
12
Năm 1832 Bình Lục và Nam Sang được thành lập phân phủ Lý Nhân
thuộc tỉnh Hà Nội. Năm 1884 xứ Bắc Kỳ được thành lập phân phủ Lý Nhân
bị bãi bỏ. Bình Lục lại thuộc phủ Lý Nhân tỉnh Hà Nội lúc đó gồm 4 tổng:
Ngô Khê, Bồ Xá, Yên Đổ và Mai Động với 37 xã. Ngày 20/3/1890 Pháp ra
nghị định đưa ra tổng Ngọc Lũ, Cổ Viễn (Thượng Nguyên, Nam Định), tổng
Vũ Bản (Vũ Bản, Nam Định) và lập thêm tổng mới là Văn Mỹ, đưa Bình Lục
nên làm 8 tổng. Huyện Bình Lục thời phong kiến thuộc phủ Lý Nhân trấn Sơn
Nam. Trong huyện có những di chỉ khảo cổ học nổi tiếng xã Ngọc Lũ, nơi lưu
giữ trống đồng Ngọc Lũ trước khi được giới khảo cổ phát hiện ra giá trị quý
giá của nó năm 1901. Đây là di vật khảo cổ có giá trị và nguyên vẹn của
nền văn hóa Đông Sơn – văn minh đồ đồng. Ngoài chiếc chống đồng trên tại
xã này, về sau còn phát hiện thêm 2 chiếc trống đồng nữa. Thời gian tiếp theo
phát hiện các trống đồng cùng loại được phát hiện tiếp theo tại các thôn Đại
Vũ (trống Vũ Bị năm 1969), xã An Lão (trống An Lão năm 1985). Tổng cộng
trống đồng có ở Bình Lục hoặc đã phát hiện tại Bình Lục là 6 chiếc. Địa dư
huyện Bình Lục có thêm một số thay đổi trong thời gian tiếp theo.
Năm 1966, sáp nhập xã Bình Thành vào xã Tiêu Động.
Năm 1976, hợp nhất 2 xã Hòa Bình và Quế Sơn thành một xã lấy tên là
xã An Lão.
Năm 1987, thành lập thị trấn Bình Mỹ - thị trấn huyện lỵ huyện Bình
Lục - trên cơ sở của việc xác nhập đơn vị diện tích của 1 số xã như:1,44 ha
diện tích tự nhiên và 51 nhân khẩu của xã An Đổ; 164,48 ha diện tích tự nhiên
và 947 nhân khẩu của xã An Mỹ; 90 ha diện tích tự nhiên và 573 nhân khẩu
của xã Mỹ Thọ và 3,91 héc ta đất của xã Trung Lương.
Năm 2014 diện tích và dân số của huyện Bình Lục là 1.236.54 ha diện
tích tự nhiên và 12.868 người (40 tr25).
Về thổ nhưỡng, khí hậu
13
Điều kiện tự nhiên của huyện cho thấy Bình Lục nằm trong vùng đồng
bằng tích tụ chiêm trũng đất thôi chua yếm khí xen đồi sót nguyên nhân là do
hệ thống sông bị sụt võng và do con người sớm can thiệp do đắp đê ngăn lũ.
Vì vậy đồng ruộng nơi đây có đặc điểm là thấp và bằng phẳng nên thường
chịu ảnh hưởng thiên tai vào mùa mưa và hạn hán vào mùa khô. Theo Ngô Vi
Viễn khi làm Tri phủ Bình Lục năm 1934 trong lúc soạn “Địa chí Bình Lục”
ông đã viết về vùng đất này. “Hàng năm từ tháng 6 hoặc 7 đến tháng 11 hay
tháng Chạp ta tùy theo mùa mưa nhiều hay ít to hay nhỏ nước ngập đường đi
nông hay sâu chỉ có đi thuyền là tiện và nhanh chóng hơn cả”. (40 tr40 - 41).
Đặc điểm đất đai tự nhiên của huyện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và
chăn nuôi gia súc gia cầm.
Về địa hình huyện như lòng bàn tay nên có rất nhiều con sông lớn nhỏ
chạy qua như sông Đào, sông Châu Giang, Ninh Giang, Luyện Giang, Dương
Giang và sông Mới. Với hệ thống sông ngòi dày đặc tạo nên mạng lưới thủy
lợi nội đồng vững chắc cung cấp nước tưới cho cây trồng và vật nuôi trong
từng thời vụ. Trong các đợt tìm kiếm khai quật tại một số nơi được cho là
bằng chứng của loài người sinh sống đầu tiên các nhà khảo cổ đã thu thập
được những bãi sú vẹt đào được ở một số cánh đồng đặc biệt ở “Đống Xa”
thuộc Phú Đa vào thời kì Văn Lang – Âu Lạc cách ngày nay 2000 năm.
Trong ca dao tục ngữ Bình Lục ngày nay khi miêu tả về đời sống kinh
tế – văn hóa của nhân dân:
Quạt giấy, mũ bạc nhài đồng
Phú Đa thợ nhuộm trát hồng tô xanh….
Đây là một nghề từ tổ tiên truyền lại hàng năm lễ tổ vào ngày 7/1 Âm
lịch hay còn gọi là “Hội hàng đào”. Ngoài ra nhân dân huyện còn có nghề đan
lờ, rọ dùng để bắt cá, bắt cua với nguyên liệu bằng tre. Những thời điểm nông
nhàn người nông dân với bàn tay khéo léo tạo ra những sản phẩm phù hợp với
đồng quê chiêm trũng, góp phần tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống cho
14
nhân dân.
Quê anh ngày 8 tháng 3
Quay vào kháy rọ, quay ra đan lờ
Nhờ trời mưa thuận gió hòa
Lờ, rọ bán được cả nhà thêm vui. (40 tr45)
Có thể thấy Bình Lục là một huyện thuần nông toàn huyện có 19 đơn vị
hành chính, 21 xã thị trấn 251 thôn xóm tiểu khu. Tổ chức Đảng bộ huyện có
71 tổ chức cơ sở Đảng trong đó có 21 đảng bộ xã, thị trấn; 5 đảng bộ và 45
chi bộ cơ quan trực thuộc huyện ủy, 250 chi bộ thôn xóm tiểu khu với 7044
đảng viên. Huyện Bình Lục có tổng diện tích tự nhiên là 14.401.02 ha dân số
134.057.00 người năm 2014 (40tr46).
Về khí hậu nước ta với địa hình chữ S chạy dài từ Bắc tới Nam hướng
trọn và nằm kề Biển Đông hùng vĩ vì vậy Việt Nam nằm trọn trong múi giờ
thứ 7 vành đai nhiệt đới gió mùa ẩm. Số lượng giờ nắng và lượng mưa hàng
năm nhiều nên có những điều kiện khí hậu thuận lợi cho nông nghiệp phát
triển. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 23độ C, nhiệt độ trung bình thấp
nhất khoảng 13 – 15độ C và cao nhất tháng 7 khoảng 29 – 30 độ C. Tổng số
giờ nắng trung bình trên 1100 giờ/năm. Lượng mưa trung bình hàng năm trên
1800mm nhưng phân bố không đều, tập trung 70% lượng mưa vào mùa hạ
trong đó trung bình có 125 – 158 ngày mưa. Mưa thường tập trung vào tháng
5 đến tháng 10 trong năm chiếm 80 – 90%. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau. Nhìn chung khí hậu và thời tiết Bình Lục thuận lợi cho nông nghiệp
và các loại cây trồng vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Tuy nhiên do đặc
điểm địa hình và lượng mưa phân bố không đồng đều nên một số nơi trong
địa bàn huyện thường xảy ra hạn hán vào mùa khô và lũ lụt vào mùa mưa
nhất là các xã: Bối Cầu, An Đổ, Hưng Công.
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội
Thành phần dân cư ở huyện Bình Lục chủ yếu là người Kinh chiếm
15
trên 98% dân số. Dân cư nơi đây thường là những người đã sinh sống từ rất
lâu họ có duyên, họ gắn bó và họ lớn lên cùng mảnh đất nơi đây trưởng thành
qua từng giai đoạn với những thăng trầm lịch sử. Bình Lục được coi là mảnh
đất hiếu học, nơi hội tụ những anh tài tinh hoa của nền giáo dục Việt Nam.
Chưa có điều kiện để kiểm kê số liệu chính xác về số người đỗ Tiến sĩ đương
đại, dưới đây chỉ viết về 53 vị đỗ Tiến sĩ tính từ người đỗ đầu tiên năm 1429,
Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hiếu đến người đỗ cuối cùng vào năm 1910 là cụ Phó
bảng Bùi Kỷ. Theo ghi chú của địa bạ huyện số người đỗ cao làm quan trong
triều với những tên tuổi như: Nguyễn Khuyến, Nguyễn Khắc Hiếu, Trình
Thuấn Du, Nguyễn Bảng. Với đức tính cần cù chịu khó, nhân dân huyện Bình
Lục luôn có truyền thống cách mạng, yêu nước, anh dũng đấu tranh chống
giặc ngoại xâm. Từ những năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ
nhân dân huyện đã cung cấp cho chiến trường miền Nam Việt Nam cả về sức
người và sức của. Huyện Bình Lục cùng với miền Bắc đã trở thành hậu
phương vững chắc cho miền Nam Việt Nam hoàn thành sứ mạng lịch sử
thống nhất đất nước.
Hiện nay theo những báo cáo thống kê về tình hình phát triển kinh tế
trên địa bàn huyện trước năm 2008 cho thấy 90% dân số thuộc cơ cấu kinh tế
khu vực nông thôn trong đó 75% lao động làm việc trong các ngành kinh tế
nông nghiệp, 15% lao động trong ngành tiểu thủ công nghiệp và 10% trong
kinh doanh, dịch vụ. Thành phần kinh tế chủ yếu phân bố như sau: hoạt động
nông nghiệp chủ yếu là cấy lúa với những giống lúa ngắn ngày và cho năng
suất cao như: lúa Ải, Tạp giao QC 21, hoặc một số giống lúa có giá trị cao
như Thiên hương, Bắc thơm. Một năm có 2 vụ sản xuất vụ chiêm và vụ mùa;
ngoài ra có các nghề thủ công như làm gạch, đan cói (xã Phú Đa, Hưng
Công), thêu tranh (xã Bối Cầu, An Đổ). Đặc điểm chung của huyện Bình Lục
là chiêm trũng tuy nhiên với ý chí quyết tâm người dân trong huyện đã cố
gắng bồi đắp, cải tạo và xây dựng tiến hành trồng xen kẽ các cây vụ đông để
tăng thêm thu nhập như xã: An Khoái, Bối Cầu, Hưng Công với các loại cây
16
trồng như đậu tương, khoai tây, khoai lang, trồng dâu ở Trung Lương.
Tựu chung lại nguồn cung cấp chính cho đời sống nhân dân là nông
nghiệp trồng lúa nếu như trước kia người dân chủ yếu trông chờ vào 2 vụ/năm
đến nay đã có sự cải tiến bằng việc tìm kiếm những cây trồng hợp lý để tiến
hành xen canh trong khoảng thời gian chuyển giao giữa mùa vụ.
Để khai thác tiềm năng tối đa của đất một trong những giải pháp hàng
đầu cần được quan tâm giải quyết chính là hệ thống thủy lợi bởi yếu tố này
ảnh hưởng trực tiếp và làm thay đổi thực trạng nông nghiệp trên địa bàn tỉnh:
biện pháp thực hiện tăng vụ, tăng diện tích.. Kết quả đạt được những năm vừa
qua việc mở rộng diện tích gieo trồng tăng vụ đã góp phần tích cực sản xuất
đất nông nghiệp phát triển nhất là trong lĩnh vực sản xuất lương thực, làm
thay đổi bộ mặt nông thôn trong những năm đổi mới. Với điều kiện cơ sở vật
chất kỹ thuật ở Bình Lục còn nghèo nàn chưa đủ mạnh để biến tiềm năng
thành hiện thực nhưng so với những năm trước thì phong trào hợp tác hóa
nông nghiệp có nhiều biến động quan trọng. Các công trình thủy lợi lớn, trung
bình đã và đang được xây dựng, củng cố và hoàn thiện; hệ thống mạng lưới
kênh mương tưới tiêu thủy lợi nội đồng hiện có đã và đang phát huy tác dụng
đảm bảo cho khâu tưới tiêu trên diện rộng. Các trạm bơm cũ được nâng cấp
sữa chữa và xây dựng thêm những trạm bơm mới, công tác bổ sung nâng cao
chất lượng cán bộ khuyến nông của địa bàn huyện được tăng cường. Hàng
năm lãnh đạo huyện, Ban tổ chức UBND huyện tổ chức các đợt học tập, nâng
cao nhận thức và bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ ở từng cơ sở.
Những chủ trương của Đảng bộ huyện trong các kì đại hội luôn đặt ra
nhiệm vụ, yêu cầu, cần thiết cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Chủ
trương mà huyện đưa ra “tăng cường đầu tư những điều kiện cần thiết nhất
cho sản xuất nông nghiệp” sao cho phù hợp với đặc điểm kinh tế địa phương.
Chủ trương trên được cụ thể hóa bằng việc Đảng bộ huyện tiến hành kiểm tra,
rà soát lại mạng lưới thủy lợi nội đồng trên toàn huyện, các hồ chứa nước và
17
các giống lúa đang tiến hành gieo trồng.
Đầu tiên Đảng bộ huyện tiến hành tu sửa những trạm bơm cũ và nghiên
cứu xây dựng thêm những trạm bơm mới đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho
toàn huyện trong mọi hoàn cảnh.
Thứ hai Đảng giao nhiệm vụ cho bên khuyến nông và nông nghiệp của
huyện tiến hành nghiên cứu và cải tiến giống lúa phù hợp nhất với đặc điểm
địa hình của huyện và cho năng suất cao. Ngoài ra Đảng bộ huyện cũng tiến
hành đầu tư cho ngành công nghiệp bởi phát triển sản xuất công nghiệp không
những chỉ nâng cao về năng suất phát triển mà còn tạo điều kiện phát triển các
ngành kinh tế khác, phát triển sản xuất công nghiệp góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu chung của toàn ngành kinh tế. Theo hướng giảm tỉ trọng ngành
nông nghiệp tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời phát triển
mạnh ngành công nghiệp sẽ tạo ra hàng vạn chỗ làm việc cho người lao động,
giải quyết được vấn đề lao động dư thừa ở địa phương. Trên địa bàn hiện nay
xuất hiện nhiều cụm công nghiệp: mây giang đan, chăn nuôi gia súc, gia cầm,
cơ sở dệt may.
1.1.3. Đặc điểm văn hóa – y tế – giáo dục
Tình hình giáo dục của huyện có nhiều chuyển biến tích cực và gắn kết
chặt chẽ hơn với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Năm 2006 huyện tiến
hành hoàn thành phổ cập giáo dục bậc THCS. Chất lượng giáo dục toàn diện
từng bước được nâng lên. Số lượng học sinh thi đỗ vào các trường cấp 3, đại
học và cao đẳng ngày chiếm số lượng lớn. Tỉ lệ học sinh giỏi các cấp, giải
quốc gia, quốc tế tăng lên. Phong trào xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội
học tập, khuyến học khuyến tài phát triển mạnh mẽ. Quy mô trường lớp được
quan tâm sửa đổi ổn định, 97% học sinh đi học tiểu học đúng độ tuổi, 94%
học sinh đi học trung học đúng độ tuổi. Cơ sở vật chất học tập giảng dạy được
tăng cường, 85% lớp học và trường lớp được kiên cố hóa. Trường Cao đẳng
sư phạm Hà Nam là mô trường hàng năm thu hút nhiều số lượng học sinh thi
18
đầu vào với điểm số cao. Đây cũng chính là ngôi trường hàng năm đào tạo ra
số lượng giáo viên đủ đáp ứng nhu cầu giáo dục của huyện. Một số ngôi
trường THPT điểm của huyện cũng được trang bị và cải tiến cơ sở vật chất kỹ
thuật: THPT Bình Lục A, trường THCS Nguyễn Khuyến, THPT Bình Lục B,
Trường Năng Khiếu.
Nhu cầu văn hóa của huyện vẫn duy trì thường xuyên với những lễ hội
truyền thống ở các thôn làng được người dân quan tâm thực hiện: hàng năm
vào các tháng lễ hội dù bận rộn với cuộc sống hàng ngày nhưng vào những
ngày lễ mọi người dừng hẳn công việc hàng ngày và tập trung cho buổi lễ, hội
thật tưng bừng và hoành tráng. Các phong trào xây dựng đời sống văn hóa
như nếp sống mới đời sống tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc được Đảng bộ
huyện và chính quyền các cấp từng thực hiện đạt hiệu quả cao. Theo thống kê
năm 2010 trên huyện có 100% xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Trước kia
trạm y tế các xã là tạm bợ chưa được quan tâm thì đến nay Đảng bộ huyện đã
đặc biệt quan tâm tới chất lượng cuộc sống của người dân bằng việc cho tu
sửa, bổ sung trang thiết bị cho trạm y tế các xã, phường. Phong trào TDTT
cũng ngày được huyện quan tâm với những ngày hội thể thao với nhiều loại
hình và tổ chức thi đấu giữa các ban ngành, địa phương tạo nên không khí thể
thao sôi nổi trong địa bàn huyện. Hoạt động văn hóa, thông tin phát triển ngày
càng đa dạng, nội dung và hình thức có nhiều đổi mới góp phần đáp ứng nhu
cầu hưởng thụ văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ” từng bước đi vào chiều sâu.
Nhiều giá trị văn hóa được bảo tồn và phát huy. Đến nay có khoảng 85 % số
phường và làng được xếp loại đạt chuẩn văn hóa.
Công tác phát thanh, báo chí truyền hình tuyên truyền cho việc xây dựng
Nông thôn mới, các chính sách chủ trương của Đảng cũng được quan tâm và
thực hiện đều đặn. Phong trào thi đua loại bỏ những hủ tục lạc hậu, xây dựng
đời sống văn hóa mới đậm đà bản sắc dân tộc, chống suy đồi, khắc phục những
19
lệch lạc trong lối suy nghĩ của người dân đã diễn ra thường xuyên.
Hoạt động khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường có những bước
đổi mới. Việc nghiên cứu, tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất
và đời sống được đẩy mạnh nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, y tế.
Công tác vệ sinh đô thị, môi trường nông thôn được tăng cường bằng việc
thành lập các ban quản lý vệ sinh môi trường, xử lý rác thải. Cách thức thực
hiện tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ
môi trường cho toàn dân ở từng cơ sở. Nội dung tuyên truyền để bảo vệ môi
trường được các cấp tiến hành tuyên truyền rộng rãi bước đầu nâng cao nhận
thức về bảo vệ môi trường cho toàn dân ở địa phương. Thực tế cho thấy trước
kia tình trạng rác thải chưa được xử lý một cách triệt để hợp lý nên thường
thấy ở các làng bà con tiến hành đổ rác bừa bãi ra các con mương, vệ đường.
Tình trạng hôi hám mất vệ sinh môi trường thường xuyên xảy ra liên tiếp. Vì
vậy vệ sinh môi trường, quanh cảnh thiên nhiên mất mỹ quan thường diễn ra.
Hiện nay Đảng bộ đã họp và quyết định xây dựng những bãi chứa rác thải
quanh các làng và thành lập luôn một đội kiểm tra tình hình thu gom rác thải.
Làm cho môi trường trong sạch, đẹp đẽ hơn.
Những kết quả đạt được tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân toàn
huyện vững tin bước tiếp vào công cuộc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện. Nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần là động lực để nhân dân bước
tiếp vào xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong
giai đoạn đổi mới đất nước hiện nay.
1.2. Chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng
1.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Xây dựng NTM theo Hồ Chí Minh thực chất và trước hết là xây dựng
những con người lao động – người nông dân XHCN. Trong việc xây dựng đó
Người luôn lấy đạo đức làm gốc. Xây dựng NTM về mặt đạo đức theo Người
trước hết phải làm cho con người có đủ cơm ăn áo mặc, được học hành chữa
20
bệnh. Đạo đức của người nông dân phải được xây dựng trên 1 nền tảng kinh
tế định hướng đi lên XHCN. Người đặc biệt nhấn mạnh vai trò quyết định của
con người chính bởi con người là chủ thể của mọi hoạt động, tính cách suy
nghĩ và những hành động của con người sẽ ảnh hưởng rất lớn tới kết quả thực
hiện các mục tiêu. Người đặc biệt cho rằng “xã hội nào con người đó” không
thể lấy con người thời xưa ra để xây dựng đất nước của thời đại bây giờ. Cũng
theo Người nước ta là 1 nước dân chủ nên phải xây dựng một chế độ dân chủ.
NTM được hiểu là nông thôn của những người nông dân lao động của những
con người không chấp nhận sự lười biếng. NTM cũng là nơi thể hiện đậm đà
văn hóa tình nghĩa, tình làng nghĩa xóm. Nét đẹp của người nông dân là ở chỗ
trên kính dưới nhường, thương yêu giúp đỡ nhau, giúp đỡ những gia đình neo
đơn, người già, gia đình thương binh liệt sỹ.
Xây dựng NTM là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân không phải là
của riêng ai, là nhiệm vụ lâu dài nên mọi người phải nêu cao tinh thần làm
chủ. Người chỉ rõ NTM là nông thôn được tạo lập nên bởi nhiều gia đình mới,
xã hội tốt thì gia đình càng tốt mà có nhiều gia đình tốt thì mới tạo nên xã hội
tốt. Những ý kiến chỉ dẫn trên của Người như ngọn đuốc sáng trong đêm tối
giúp ta tìm ra những đường đi một cách đúng đắn nhất.(33 tr26)
Như vậy đối với quan điểm của Hồ Chí Minh thì xây dựng NTM là
phát triển trên tất cả các lĩnh vực từ xây dựng đời sống vật chất cho nhân dân
ấm no hạnh phúc đến xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện đại tiên tiến,
người phụ nữ được giải phóng, được hưởng quyền bình đẳng. Những tư tưởng
của Người thực sự sâu sắc, thiết thực và vượt trước thời đại để cho tới hôm
nay những tư tưởng đó còn mới mẻ và tiến bộ.
Thực tiễn cho thấy trước thời kì đổi mới vấn đề nông nghiệp, nông dân
và nông thôn chưa thực sự được đặt đúng vị trí của nó. Trong suốt một thời
gian dài trong lịch sử công nghiệp nặng luôn được đặt lên vị trí hàng đầu và
được ưu tiên phát triển. Trong đại hội IV 12/1976 và đại hội V năm 1982 đã
21
dần chỉ ra những sai lầm và chuẩn bị đầy đủ những điều kiện tiền đề cần thiết
cho công nghiệp và nhấn mạnh: “Tập trung sức mạnh phát triển nông nghiệp
coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp từng bước lên sản
xuất XHCN ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng
một số ngành công nghiệp nặng quan trọng. Kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp với sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong cơ cấu công –
nông nghiệp hợp lý” (52 tr66). Đây được coi là sự điều chỉnh quan trọng, sự
thay đổi lớn trong quan điểm của Đảng về vị trí của kinh tế nông nghiệp, song
trong việc chỉ đạo và hoạch định thực hiện chính sách nông nghiệp chưa thực
sự được coi là mặt trận hàng đầu không đảm bảo những điều kiện cần thiết để
phát triển nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích.
Với tinh thần đổi mới toàn diện bắt đầu từ trong tư duy kinh tế tới đại
hội VI 1986 đã chỉ rõ: “Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren
mất cân đối, phải rứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp
lý” (21 tr24).
Đại hội nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu cần phải đưa
nông nghiệp tiến một bước theo hướng sản xuất lớn. Việc xây dựng và thực
hiện 3 chương trình kinh tế lớn đều liên quan trực tiếp đến nông nghiệp
(lương thực - thực phẩm - hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu). Đó là sự cụ thể
hóa nội dung chính của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên
của thời kì quá độ lên CNXH.
Trong buổi hội nghị tổng kết thực tiễn ngày 05/04/1988 Bộ Chính trị
khóa VI ra nghị quyết 10 - NQTW về đổi mới cơ chế quản lí kinh tế nông
nghiệp. Quyết định cơ bản của Đảng về quản lý nông nghiệp là coi HTX như
đơn vị kinh tế tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ; nhận
khoán với HTX. Bộ Chính trị đã chỉ rõ đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp
nhằm khắc phục các nhược điểm sai lầm trong các chính sách lớn đối với
nông nghiệp. Nghị quyết X của Bộ chính trị sắp xếp và tổ chức lại sản xuất
22
nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng hợp,
gắn trồng trọt với chăn nuôi; gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp
chế biến và các ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
Đây chính là bước đột phá mở đầu cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và phát triển nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Hội nghị lần thứ 6 của BCH Trung ương khóa VI năm 1993 đã tiếp tục
khẳng định những chuyển biến quan trọng trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp
từ thực hiện nghị quyết X của Bộ Chính trị đồng thời làm rõ thêm tư tưởng
đổi mới thể hiện qua những quan điểm lớn sau:
1. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do người lao động tự góp vốn, góp
sức và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ
thuật, mức độ tập thể hóa là hợp tác xã.
2. Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là các đơn vị kinh tế hợp tác với
nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
3. Gia đình xã viên đã trở thành đơn vị sản xuất kinh tế tự chủ ngoài
việc nhận khoán sử dụng đất thực hiện các hợp đồng với hợp tác xã còn chủ
động phát triển sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích các
xã viên làm giàu đồng thời có chính sách biện pháp cụ thể giúp các hộ nghèo
có thêm điều kiện để vươn lên làm ăn tốt.(25 tr56)
Những chủ trương và chính sách của hội nghị là bước đệm tạo điều
kiện cho kinh tế nông nghiệp phát triển thuận lợi, các hộ xã viên chủ động
trong việc phát triển nông nghiệp.
Từ khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra nội dung
cơ bản của CNH, HĐH là: “Phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn
với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông
nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” (27 tr34- 35).
Trong đó coi phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến, thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học
23
hóa. Để đi vào thực tế năm 2001 Ban kinh tế trung ương cùng với Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn các Bộ, ngành và địa phương đã bắt đầu triển
khai xây dựng mô hình điểm: Phát triển nông thôn theo hướng CNH, HĐH
hợp tác hóa dân chủ tại các vùng nông thôn. Chương trình được triển khai 14
xã điểm của Bộ Nông nghiệp và 200 xã điểm ở các địa phương. Chương trình
nông thôn cấp xã bao gồm những nội dung cơ bản phát triển kinh tế hàng hóa
với một cơ chế phù hợp khai thác được những thế lợi của địa phương có thị
trường tiêu thụ; phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp. Chương trình xây dựng
những mô hình NTM thí điểm đã đạt được những thành quả quan trọng trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội và đời sống dân sinh.
Tiếp đến trong Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX tại Hà Nội từ ngày 18/02 đến 02 tháng 3 năm 2003 cũng đã xác định
rõ những quan điểm, mục tiêu và những nội dung cần thiết trong xây dựng
CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Về mục tiêu Nghị quyết chỉ rõ: “Mục tiêu tổng quát và lâu dài của
công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là xây dựng một nền
nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả vè bền vững, có năng suất, chất
lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến, đạp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, xây dựng
nông thôn ngày càng giàu đẹp, dân chủ công bằng văn minh, có cơ cấu kinh
tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp , kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phát
triển ngày càng hiện đại” (29 tr94 - 95).
Về nội dung tổng quát Nghị quyết Trung Ương Năm đưa ra 2 nội dung
tổng quát đó là công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn mà
theo đó nội dung được thể hiện như sau:
CNH nông nghiệp được coi là một quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với công nghiệp chế biến và
24
thị trường; thực hiện cơ khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu của
khoa học kĩ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp
nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng hiệu quả cạnh tranh của nông
sản hàng hóa trên thị trường.
HĐH nông thôn được Nghị quyết xác định: “Là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và
lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và
lao động nông nghiệp” (27 tr96 - 97).
Trong giai đoạn 2001 – 2005 Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đến xây
dựng và phát triển nông thôn theo hướng CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn
đã đạt những thành tựu hết sức quan trọng. Chiến lược phát triển toàn diện về
tăng trưởng xóa đói giảm nghèo đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm
2002 hiện nay trên 77% dân cư sống ở vùng nông thôn, 70% thu nhập và đời
sống của nông dân dựa vào nông nghiệp, 90% người nghèo đang sinh sống ở
nông thôn. Nhiều địa phương trên cả nước chưa có nơi nào hoàn thành được
việc xây dựng NTM với tất cả các mục tiêu và chủ trương mà các Nghị quyết
đề ra. Chính vì vậy nhiệm vụ xây dựng NTM là nhiệm vụ chiến lược lâu dài,
khó khăn rất cần sự ủng hộ và chỉ đạo sát sao của các cấp chính quyền cộng
thêm sự đồng tâm hiệp lực của toàn thể nhân dân trong cả nước trong những
bước đi dần dần. Nhận thức được vấn đề đầu tiên của việc xây dựng NTM là
việc CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn bởi vậy sau hơn 20 năm đổi mới
Đảng đã tiến hành họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (4/2006) của Đảng
tại Hà Nội đã khẳng định phát triển nông nghiệp nông thôn là lựa chọn bước đi
đúng đắn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đồng thời chủ
trương đẩy mạnh hơn việc quan tâm xây dựng vấn đề nông nghiệp, nông dân
và nông thôn. Đại hội đề ra mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm
2006 - 2010 như sau: “Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động
25