Tải bản đầy đủ (.doc) (221 trang)

Giáo Trình Giáo Dục Dân Số - Sức Khoẻ Sinh Sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (806.78 KB, 221 trang )

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC DÂN SỐ - SỨC KHOẺ SINH SẢN
GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC DÂN SỐ - SỨC KHOẺ SINH SẢN
(Dành cho sinh viên ngành Tâm lý - Giáo dục các trường đại học sư phạm)
PGS.TS. TRẦN QUỐC THÀNH (Chủ biên)
TS.NGUYỄN THỊ MÙI
ThS. LÊ THỊ HỒNG AN

LỜI GIỚI THIỆU
Giáo dục dân số đã được đưa vào giảng dạy ở khoa Tâm lý - Giáo dục,
trường Đại học sư phạm Hà Nội với tư cách là một học phần độc lập từ nhiều
năm nay. Với thời lượng 2 đơn vị học trình, những kiến thức cơ bản về giáo
dục dân số đã được cung cấp cho sinh viên. Tuy nhiên, còn nhiều kiến thức
về sức khoẻ sinh sản chưa được đưa vào giáo trình này. Vì thế, chúng tôi đã
đề nghị tăng thời lượng cho giáo trình này lên 3 đơn vị học trình (45 tiết và đổi
tên thành Giáo trình Giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản.
Giáo trình Giáo dục dân số - sức khoẻ sinh sản được viết trên cơ sở kê
thừa Giáo trình Giáo dục dân soạn có của khoa Tâm lý - Giáo dục. Trong đó
có bổ sung thêm các kiến thức về sức khoẻ sinh sản và đặc biệt là các kiến
thức về sức khoẻ sinh sản vị thanh niên.
Được sự giúp đỡ của, Quỹ dân số Liên hợp quốc và Quỹ dân số thế
giới, các tác giả đã cố gắng biên soạn giáo trình theo hướng vừa kế thừa,
chắt lọc các kiến thức cơ bản đã được đề cập vừa cập nhật những kiến thức
hiện đại và cách tiếp cận hiện nay về các nội dung giáo dục dân số - sức khoẻ
sinh sản. Vì thê giáo trình sẽ vừa là một tài liệu để giảng dạy vừa là một tài
liệu tham khảo bổ ích cho giảng viên và sinh viên chuyên khoa Tâm lý - Giáo
dục các trường đại học sư phạm. Học xong giáo trình này sinh viên sẽ đạt
được:


- Về kiến thức: Nắm vững các nội dung cơ bản về giáo dục dân số- sức


khoẻ sinh sản và sức khỏe sinh sản vị thành niên; vấn đề tình bạn tuổi thiếu
niên và tình bạn, tình yêu tuổi đầu thanh niên; vấn đề tình dục an toàn, các
phương pháp phòng tránh thai để có thể tự giáo dục mình và có kiến thức sau
này giáo dục học sinh, sinh viên.
- Về thái độ: Có thái độ đúng mức, không e dè đối với việc tiếp nhận
các kiến thức về sức khỏe sinh sản; có ý thức vận dụng những hiểu biết về
sức khoẻ sinh sản vào cuộc sống của bản thân.
- Về kỹ năng: Biết vận dụng những kiến thức về sức khỏe sinh sản vào
đời sống của bản thân và những người thân; biết phổ biên các kiến thức về
giáo dục dân số - sức khoẻ sinh sản cho học sinh, sinh viên và những người
xung quanh; biết ứng xử đúng mực trong tình bạn và tình yêu.
Giáo trình gồm 5 chương. Chương 1, chương 2 và chương 3 kế thừa
các nội dung giáo dục dân số của các giáo trình đã có. Chương 4 và chương
5 là những kiến thức về sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ sinh sản vị thành
niên. Đây là những nội dung mới được đưa vào giảng dạy cho sinh viên.
Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Quỹ dân số Liên hợp
quốc và Quỹ dân số thế giới, các ý kiến đóng góp quý báu của các cán bộ
khoa học thuộc Trung tâm giáo dục dân số Huế, Trung tâm giáo dục dân số
Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh, các chuyên gia trong và ngoài
ngành giáo dục đã giúp chúng tôi hoàn thành giáo trình.
Tập thể tác giả đã cố gắng rất nhiều trong nghiên cứu và biên soạn,
song khó tránh khỏi những sai sót. Chúng tôi mong nhận được những ý kiến
đóng góp của bạn đọc gần xa để giáo trình ngày càng hoàn thiện.
Tập thể tác giả

BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT
GDDS

Giáo dục dân số



GDĐSGĐ
HDI

Giáo dục đời sống gia đình
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index)

SKSS Sức khỏe sinh sản
SKSS VTN

Sức khỏe sinh sản vị thành niên

UNESCO Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc
(United Nation Educational, Scientific and Cultural Organization)
UNFPA

Quỹ Dân số Liên hợp quốc (United Nation Population Fund)

WPF Quỹ dân số thế giới (Word Population Foundation)

Chương I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC DÂN SỐ
1. Lịch sử giáo dục dân số
Giáo dục dân số là một lĩnh vực khoa học giáo dục mới ra đời phát triển
nhằm đáp ứng những yêu cầu cấp bách do thực tiễn của xã hội đặt ra.
Lúc đầu, GDDS góp phần giải quyết tình hình suy giảm dân số ở nhiều
nước công nghiệp phát triển, nhất là ở khu vực Bắc Âu, sau đó GDDS được
triển khai mạnh mẽ, đặc biệt ở khu vực châu Phi và Châu Á - Thái Bình
Dương, với mục đích ngăn chặn sự "lạm phát" về tốc độ gia tăng dân số.
Năm 1941, bà Alava Myrdal (Hoa Kỳ) đã đề cập đến sự cần thiết của
GDDS đối với học sinh trong nhà trường chính quy, với người lớn trong hệ

thống giáo dục không chính quy. Tư tưởng này được sự hưởng ứng và cụ thể
hoá của nhiều người như Frank Lorimer và Frederich Osbom vào năm 1943.
Các ông đã kiến nghị vấn đề dân số cần phải được đưa vào phổ thông trung
học.
Năm 1962, các ông S. Thom son, M. Hauser đã đề xuất khái niệm
"Bùng nổ dân số" và nêu rõ biến động dân số có liên quan đến phúc lợi của
con người.


Vào năm 1964, tại Đại học Côlômbia, giáo sư Sloan Wayland biên soạn
tài liệu "Giảng dạy các động lực dân số", "các giai đoạn mãn sinh sản" phục
vụ cho giáo dục dân số.
Địa vị của giáo dục dân số trở nên vững chắc hơn khi được sự chú ý
của các tổ chức quốc tế quan trọng. Hội nghị dân số thế giới do Liên hợp
quốc hợp tác với UNESCO được tổ chức tại Rô ma (Italia) từ 30 tháng 8 đến
ngày 10 tháng 9 năm 1954 với sự tham gia của 600 đại biểu, từ 70 nước khác
nhau. Hội nghị thảo luận các vấn đề dân số chủ yếu với sự phát triển kinh tế xã hội, đưa ra chương trình hành động đẩy mạnh hoạt động GDDS.
Năm 1966 tuyên ngôn của Liên hợp quốc về dân số ra đời đã được 12
nước đón nhận ngay. Từ đó, các vấn đề liên quan tới dân số hiển nhiên mang
tính toàn cầu.
Năm 1968, Đại hội đồng Liên hợp quốc khẳng định mục tiêu hoạt động
trong lĩnh vực dân số là: Làm cho mọi người nhận thức sâu sắc hơn về trách
nhiệm hệ trọng của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia và cả cộng đồng quốc tế trong
sự gia tăng dân số.
Năm 1970, UNESCO có kế hoạch giúp đỡ các nước thành viên xây
dựng chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình.
Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương có tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên
khá cao nên đã trở thành mảnh đất cho GDDS phát triển mạnh mẽ. Hội nghị
tập huấn khu vực của UNESCO về GDDS, GDĐSGĐ tại Băng Cốc (Thái Lan)
năm 1970 được 13 nước Châu Á tham gia. Hội nghị đã xác định mục tiêu, nội

dung GDDS để đưa vào chương trình giảng dạy, học tập ở các trường phổ
thông.
Nhiều hội nghị tư vấn khu vực (năm 1978, 1982, 1984… ) đã định hình:
- Quy mô gia đình hợp lý
- Tuổi kết hôn hợp lý.
- Tư cách, trách nhiệm làm cha mẹ


- Dân số - môi trường - tài nguyên
- Các giá trị liên quan đến vấn đề dân số
Năm 1986 Hội nghị tư vấn của UNESCO về GDDS khu vực Châu Á
Thái Bình Dương đưa thêm 4 chủ điểm sau:
+ Giáo dục đời sống gia đình
+ Giáo dục giới tính
+ Giáo đục tuổi già
+ Giáo dục đô thị hoá
Năm 1988: 25 nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã thực
hiện GDDS và coi như một bộ phận hữu cơ trong chính sách dân số của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Năm 1994, Hội nghị dân số thế giới lần 4
tại Cairô (Ai Cập) với sự tham gia của 179 nước, đã đề cập đến việc triển khai
giáo dục dân số ở các quốc gia trên toàn thế giới.
Con đường hình thành, triển khai GDDS không phải luôn bằng phẳng,
mà cũng vấp phải sự phản kháng nhất định trước các phong tục, tập quán từ
bao đời để lại. Tuy vậy, điều đó không thể ngăn cản được hướng đi tất yếu,
một nhu cầu trong đời sống xã hội đặt ra cho toàn nhân loại phải giải quyết
"Giáo dục dân số".
Ở Việt Nam, quá trình triển khai GDDS trải qua nhiều giai đoạn:
+ Giai đoạn chuẩn bị: 1982 - 1983
Sau khi Hội đồng Chính phủ thông qua kiến nghị của phái đoàn Liên
hợp quốc ( 1 98 1 ) về đưa GDDS vào trường học, chúng ta đã nghiên cứu

kinh nghiệm ở các nước. mở hội nghị định hướng công tác GDDS cho cán bộ
chủ chốt ở cấp Bộ và các tỉnh thí điểm. Năm 1983, xây dựng chương trình
GDDS cho 4 ngành học: mẫu giáo, phổ thông, bổ túc, sư phạm và xây dựng
kế hoạch thí điểm.


+ Giai đoạn thí điểm GDDS (chu kỳ 1984 - 1987) tiến hành thí điểm tại
5 tỉnh, thành: Hà Nội, Thái Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Long An, TP Hồ Chí
Minh.
+ Giai đoạn triển khai ở 17 tỉnh trọng điểm và mở rộng dần trong cả
nước (1988 đến nay). GDDS trải qua một quá trình phát triển ở Việt Nam,
nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và toàn thể cộng đồng.
+ Đến năm 1997, GDDS đã hoà nhập vào hệ thống giáo dục quốc gia,
trở thành nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Ngày 26/12/1977 trở thành Ngày
dân số Việt Nam.
2. Khái niệm, bản chất của giáo dục dân số
Giáo dục dân số (là thuật ngữ mà tổ chức UNESCO sử dụng) chỉ một
chương trình giáo dục giúp người học hiểu được mối quan hệ qua lại giữa
động lực dân số và các nhân tố khác của chất lượng cuộc sống. Từ đó, học
viên có được những quyết định hợp lý, có trách nhiệm và những hành vi đúng
đắn về các lĩnh vực dân số nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của bản
thân, gia đình, quốc gia, cộng đồng.
Có rất nhiều định nghĩa về GDDS tuỳ thuộc vào nền văn hoá, các nhóm
đối tượng giáo dục. Song, dù có khác nhau ít nhiều về quan niệm, cần phải
khẳng định rằng GDDS là một hệ thống tri thức liên ngành, dựa trên những
thành tựu của nhiều ngành khoa học, kỹ thuật hiện đại. Vì vậy, GDDS mang
đặc điểm của một lĩnh vực khoa học và giáo dục tích hợp, nghĩa là có sự
chọn lọc, lồng ghép tri thức liên ngành, mà đích cuối cùng của GDDS phải đạt
được là nâng cao chất lượng cuộc sống ở mức độ vi mô và vĩ mô.
* Một số khái niệm, thuật ngữ có liên quan trong giáo dục dân số

1. Dân số: là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực vùng
địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.
2. Quy mô dân số: là số người sống trong một quốc gia khu vực vùng
địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại một thời điểm xác định.


3. Chất lượng dân số: là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ
và tinh thần của toàn bộ dân số.
4. Kế hoạch hoá gia đình: là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá
nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh
con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con
có trách nhiệm phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình.
5. Sức khoẻ sinh sản: là sự thể hiện các trạng thái về thể chất, tinh thần
và xã hội liên quan đến hoạt động và chức năng sinh sản của mỗi người.
6. Môi trường: bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và sinh vật.
7. Hoạt động bảo vệ môi trường: là hoạt động giữ cho môi trường trong
lành, sạch, đẹp, phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường, ứng
phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải thiện
môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; bảo
vệ đa dạng sinh học.
8. Phát triển bền vững: là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế
hệ tương lai, trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế,
bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường.
9. Đánh giá môi trường chiến lược: là việc phân tích, dự báo các tác
động đến môi trường của dự án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển bền vững.
10. Giáo dục đời sống gia đình: là chương trình giáo dục đặc biệt nhằm

chuẩn bị cho người học về hôn nhân, sinh sản, tư cách làm cha mẹ và cách
ứng xử trong gia đình, xây dựng cuộc sống hạnh phúc.
11. Giáo dục giới tính: là chương trình giáo dục dân số đề cập tới các
vấn đề giới tính, nhằm giúp người học hiểu biết và hình thành thái độ, hành vi
ứng xử giới tính đúng đắn, văn minh.


12. Chỉ số phát triển con người (HDI): là số liệu tổng hợp đề đánh giá
mức độ phát triển con người, được xác định qua tuổi thọ trung bình, trình độ
giáo dục và thu nhập bình quân đầu người.
13. Mức sinh thay thế: là mức sinh tính bình quân trong toàn xã hội mỗi cặp vợ chồng có hai con.
14. Dịch vụ dân số: là các hoạt động phục vụ công tác dân số bao gồm
cung cấp thông tin, tuyên truyền, giáo dục, vận động, hướng dẫn. tư vấn về
dân số, cung cấp biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia
đình, nâng cao chất lượng dân số và các hoạt động khác theo quy định của
pháp luật
* Bản chất của giáo dục dân số
+ Là vấn đề giá trị dân số, xã hội và đòi hỏi sự thay đổi hoặc định
hướng lại thái độ đối với vấn đề này, từ đó có hành vi dân số đúng đắn.
+ Có nhiều mâu thuẫn trong nhiều phương diện khác nhau như mâu
thuẫn giữa nội dung GDDS và phương pháp tác động, mâu thuẫn giữa yêu
cầu, mục đích và phương hướng thực thi… đòi hỏi phải được giải quyết.
+ Mang tính chất tích hợp và liên môn trong nội dung GDDS
+ Là một lĩnh vực đòi hỏi phải tiến hành trường kỳ, đề cập đến các vấn
đề và các mối quan tâm có liên quan đến dân số mới nảy sinh như: vai trò
của giới, địa vị của phụ nữ, chức năng, địa vị của người cao tuổi, phòng
chống các bệnh lây truyền qua đường 1 tình dục và xác định các giá trị, nội
dung vấn đề sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ sinh sản vị thành niên.
3. Mục tiêu của giáo dục dân số
* Mục tiêu chung của GDDS

- Giúp người học nhận thức, hiểu biết về: tình hình dân số; các khái
niệm dân số học cơ bản; các quá trình biến đổi dân số; các yếu tố quyết định
sự biến đổi dân số; mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi dân số và các khía
cạnh khác nhau của chất lượng cuộc sống ở cấp vi mô và vĩ mô; bùng nổ tiêu


thụ và chất lượng cuộc sống. Sự sinh sản của con người và hạnh phúc gia
đình; các chính sách kế hoạch và chương trình dân số.
- Phát triển năng lực, đánh giá được mối quan hệ giữa chất lượng cuộc
sống với sự biến đổi dân số; việc tiêu thụ các nguồn tài nguyên hiện tại, trong
tương lai đối với mỗi cá nhân, cộng đồng, quốc gia và thế giới.
- Người học có thái độ tích cực xây dựng các giá trị và kỹ năng để có
những quyết định, những hành vi có trách nhiệm với các vấn đề dân số và cải
thiện chất lượng cuộc sống.
* Mục tiêu GDDS ở Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỉ XXI
-Cung cấp tri thức về dân số học
+ Giúp người học nhận thức rõ sự cần thiết và khả năng thực tế của
con người có thể điều khiển, điều chỉnh hoạt động sinh sản của mình, tạo ra
sự cân đối giữa dân số với các nguồn tài nguyên và nhịp độ phát triển sản
xuất.
+ Định hướng lại những giá trị đạo đức, quan niệm truyền thống không
còn phù hợp về hôn nhân và gia đình.
- Giáo dục thái độ, hành vi đúng đắn về dân số trước sự gia tăng dân
số, phân bố dân cư và lao động hiện nay.
-Bồi dưỡng khả năng kế hoạch hoá gia đình, tổ chức, nâng cao chất
lượng cuộc sống bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. Đồng thời là người
tích cực đóng góp cho việc tuyên truyền, vận động những người xung quanh
về các nội dung GDDS.
4. Đối tượng của giáo dục dân số
- Tất cả mọi thành viên trong cộng đồng

- Đối với nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân: học sinh ở mọi
cấp học, học viên ở mọi bậc học đều trở thành đối tượng của GDDS.
Điều căn bản là phải căn cứ vào mục tiêu GDDS, nhiệm vụ, đặc điểm
tâm sinh lý lứa tuổi để chúng ta lồng ghép, tích hợp nội dung GDDS cho phù


hợp và có hiệu quả ở mỗi trường học, mỗi vùng, mỗi quốc gia một cách linh
hoạt, sáng tạo, đem lại hiệu quả tối ưu.
5. Nội dung giáo dục dân số
Nội dung GDDS được cấu thành từ 5 vấn đề chủ yếu: dân số học; các
yếu tố quyết định thay đổi dân số; hậu quả của sự thay đổi dân số; giới tính
và sinh sản; lập kế hoạch cho tương lai về phát triển dân số vì chất lượng
cuộc sống.
* Những nội dung của GDDS
a. Dân số và chất lượng cuộc sống
Nội dung dân số và chất lượng cuộc sống có 5 chủ điểm:
1. Ảnh hưởng của gia tăng dân số đến mức sống chung của xã hội, của
đất nước; các kiến thức cơ sở về dân số học; các quan hệ giữa tái sản xuất
con người và sản xuất vật chất; dân số với việc khai thác tài nguyên, bảo vệ
môi trường.
2. Dân số và một số vấn đề chính sách xã hội như: việc làm, giải phóng
phụ nữ, giáo dục tuổi già.
3. Gia tăng dân số và phân bố dân cư, lao động.
4. Vấn đề đô thị hoá.
5. Công tác tư tưởng - văn hoá và dân số kế hoạch hoá già đình với
phong tục tập quán, tâm lý xã hội.
b. Dân số và chất lượng cuộc sống gia đình với các chủ điểm
1. Tuổi kết hôn hợp lý
2. Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống gia đình
3. Tư cách, trách nhiệm làm cha mẹ; xây dựng hạnh phúc gia đình

4. Giáo dục giới tính (ở từng lứa tuổi; những hành vi văn hoá trong
quan hệ nam nữ; các bệnh lây truyền qua đường tình dục), giáo dục sức khoẻ
sinh sản vị thành niên.


6. Phương thức tổ chức và phương pháp giáo dục dân số
Quá trình giáo dục dân số trải qua các bước:
Cung cap kien
thuc, thong tin
va hien cac
kien thuc thong
tin do

Suy xet, danh
gia cac hien
tuong

Quyet dinh
thai do

Hanh dong
theo quyet
dinh o

Từ các bước và đặc điểm của GDDS, hàng loạt phương thức tiếp cận
có thể áp dụng để đưa vào chương trình giáo dục của nhà trường phổ thông
và hệ thống giáo dục quốc dân. Phương thức tổ chức công tác GDDS như:
- Lồng ghép

Vào chương trình môn học không đổi

Chỉ bổ sung các ví dụ có liên quan đến nội dung GDSS ở
các phần trong môn học

- Tích hợp

Qua cấu trúc chương trình các môn học thay đổi phù hợp
với việc đưa GDDS vào chương trình
Nội dung GDDS trở thành một bộ phận kiến thức không thể
thiếu

- Bộ phận
riêng
Phương pháp dạy học hiện tại trong khi tiến hành GDDS được sử dụng
như:
- Dạy học lấy giáo viên làm trung tâm (sẽ dẫn đến kết quả dự kiến: trình
độ phát triển chủ yếu của học sinh là ghi nhớ thông tin, sự kiện; phụ thuộc
vào tài liệu; chấp nhận các giá trị truyền thống).
- Dạy học lấy học sinh làm trung tâm (kết quả sẽ là: học sinh tự tin; phát
triển hơn trong các lĩnh vực nhận thức, tình cảm và hành vi; có tinh thần phê
phán; biết xác định các giá trị). Các phương pháp cụ thể được xác định và tận
dụng như:


+ Phương pháp tìm tòi dùng cho việc học tập mang tính quy nạp, giải
quyết khám phá vấn đề, đòi hỏi nghĩ cân nhắc, lập luận và phát triển năng
lực, thái độ, kỹ năng qua thu thập chứng cứ, sắp xếp chứng cứ và phân tích
chứng cứ.
+ Phương pháp đóng kịch.
+ Phương pháp xác định giá trị (các quan niệm, chuẩn mực đạo đức xã
hội).

+ Phương pháp hoạt động: trò chơi, thảo luận, nghiên cứu tình huống.
Việc sử dụng các phương pháp này có nhuần nhuyễn, có hiệu quả hay
không phụ thuộc vào nghệ thuật sư phạm của người dạy.
Nếu đưa GDDS thành môn phân lập thì có thể áp dụng hàng loạt hình
thức sau:
- Khoá học nhỏ, ngắn hạn theo ngày
- Môn học tự chọn, không bắt buộc
- Môn học bắt buộc: ở cấp Cao đẳng và Đại học, GDDS có thể trở
thành môn học bắt buộc. Nhất là các trường Sư phạm đào tạo giáo viên các
cấp, sinh viên cần có kiến thức về GDDS để còn giáo dục cho học sinh sau
này.
7. Các khoa học có liên quan với giáo dục dân số
Các khoa học có kiến thức về dân số được coi là kiến thức cơ sở của
GDDS như: Dân số học, Sinh học, Y học, Địa lý học, Luật học, Tâm lý học,
Giáo dục học, Sử học, Sinh thái học, Kinh tế học, Toán học thống kê, v.v…
Giáo dục dân số chứa đựng trong các môn học: Địa lý, Lịch sử, Sinh
học, Giáo dục công dân, Tin, Toán, các môn tự nhiên và xã hội khác.
8. Giáo dục dân số trong nhà trường phổ thông nước ta
8.1. Nội dung giáo dục dân số trong nhà trường phổ thông


- Cơ sở khoa học: học sinh có đủ khả năng hiểu rõ mối quan hệ giữa
dân số - môi trường - chất lượng cuộc sống.
- Nội dung GDDS:
Dan so

Moi truong

Chat luong cuoc song


- Mục tiêu giáo dục dân số:
- Nhận thức hiểu biết

- Quy mô gia đình hợp lý

- Thái độ đúng

- Phát triển dân số hợp lý

- Hành vi thích hợp

- Phân bố dân cư, lao động hợp lý

- Về mặt thực tiễn, Việt Nam có thể đưa các chủ điểm GDDS của khu
vực vào nước ta:
1. Quy mô gia đình và chất lượng cuộc sống
2. Tuổi kết hôn hợp lý
3. Tư cách, trách nhiệm làm cha mẹ
4. Xác định lại những giá trị liên quan đến dân số và chất lượng cuộc
sống
5. Mối quan hệ giữa dân số - môi trường và chất lượng cuộc sống
6. Giáo dục đời sống gia đình
7. Giáo dục giới tính
8. Giáo dục tuổi già
9. Giáo dục đô thị hoá


Những chủ điểm trên cấu thành nội dung GDDS trong nhà trường phổ
thông ở nước ta và được tiến hành một cách linh hoạt qua từng giai đoạn
phát triển của GDDS, đem lại hiệu quả góp phần hạ tỉ lệ tăng dân số ở Việt

Nam năm 1989 là 2,13% xuống còn 1,7% vào năm 1999 và 1,3% vào năm
2005.
- Những năm đầu thập kỷ 80, Bộ Giáo dục đã tiến hành thí điểm đưa
các nội dung GDDS vào một số môn học ở trường phổ thông, trong khuôn
khổ hoạt động của các dự án do quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) tài trợ.
- Năm 1994, bước đầu thể chế hoá công tác giáo dục dân số các nội
dung GDDS được tiếp tục tăng cường giới thiệu trong các trường phổ thông,
bằng cách tích hợp và lồng ghép nội dung GDDS vào một số môn học thuộc
chương trình giáo dục phổ thông chính quy.
- Năm 1998, GDDS được tăng cường hơn nữa trong khuôn khổ hoạt
động của dự án VIE/97/P13 do UNFPA tài trợ cho Bộ Giáo dục - Đào tạo ở
chu kỳ 5. Thời điểm này, các nội dung GDDS vẫn được tiếp tục giới thiệu
trong chương trình dạy học của nhà trường phổ thông, nhưng ưu tiên nhấn
mạnh tới các nội dung giáo dục SKSSVTN. Nội dung giáo dục SKSSVTN
được lồng ghép trong các môn Địa lý, Sinh vật, Giáo dục công dân.
Đầu thế kỷ XXI, GDDS được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới.
trong hệ thống giáo dục chính quy và không chính quy. Các nội dung thường
tập trung vào khía cạnh sinh học liên quan đến cấu tạo cơ thể con người, hệ
thống sinh sản, những thay đổi trong tuổi dậy thì; ít đề cập tới các khía cạnh
xã hội và hành vi trên quan đến các mối quan hệ khác giới, việc tránh thai,
các kỹ năng sống như ra quyết định, giải quyết các vấn đề, xác định các giá
trị, sự thuyết phục trong quan hệ tình dục trước hôn nhân. Đây là những vấn
đề cần thiết đề chuẩn bị cho thanh thiếu niên đương đầu với những vấn đề
đặt ra trong cuộc sống liên quan đến sức khoẻ sinh sản của họ.
Vì vậy GDDS và giáo dục sức khoẻ sinh sản phải được thế hệ trẻ nhận
thức toàn diện hơn nữa thông qua quá trình giáo dục chính quy và không
chính quy.


8.2. Những điều cần lưu ý khi đưa GDDS vào nhà trường

Trước hết, nên quan niệm GDDS cho thế hệ trẻ là một công tác nhằm
tác động vào toàn bộ tâm lý của họ chứ không chỉ giáo dục ý thức trong lĩnh
vực này. Vì hoạt động của con người được điều khiển bởi toàn bộ đời sống
tâm lý, trong đó ý thức chỉ là một bộ phân "cao nhất" của tâm lý người, nhưng
chưa phải là tất cả. Ngoài ra còn rất nhiều thành tố khác như hiểu biết, tâm
trạng, hứng thú, niềm tin, ý chí… tuy bị chi phối bởi ý thức nhưng đôi khi lại
giữ một vị trí trực tiếp hơn trong nhiều hoạt động của con người đối với vấn
đề dân số.
Trong công tác GDDS cho thế hệ trẻ, muốn tác động vào tâm lý thì phải
nghiên cứu để nắm bắt được tâm lý cá nhân. tâm lý xã hội của họ. Nếu không
dựa vào những nghiên cứu cụ thể về tâm lý học xã hội và xã hội học, cũng
như một số ngành khoa học tự nhiên, xã hội khác cổ liên quan để tiến hành
GDDS thích hợp thì sẽ khó tránh khỏi căn bệnh "kinh nghiệm chủ nghĩa". Hậu
quả của nó có thể là GDDS sẽ mang tính chất bị động đối phó, chạy theo giải
quyết vụ việc, mang tính chất phong trào. Vì lẽ đó mà ở nhiều quốc gia đã
thành lập Viện khoa học chuyên nghiên cứu về thanh niên để tham mưu cho
những chính sách mang tính chiến lược, đòi hỏi những dự đoán khoa học
như chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình và những quyết định khác
trong lĩnh vực GDDS và SKSS.
Các tài liệu nước ngoài và ở nước ta đã nêu lên khá nhiều đặc điểm
của thế hệ trẻ hiện nay. ở đây chỉ dẫn ra và nhấn mạnh những nét quan trọng
có liên quan đến GDDS cho thế hệ trẻ Những đặc điểm đó là: sự năng động,
nhạy bén, ham đổi mới, thích các sinh hoạt sôi nổi và chú ý nhiều đến hình
thức tổ chức. Cho nên trong GDDS ở nhà trường phải chú ý cải tiến nội dung
và hình thức chuyển tải nội dung ấy. Muốn GDDS đem lại hiệu quả thì cần
phải dựa vào những đặc điểm tâm lý - xã hội của người học để tấn phương
pháp GDDS phù hợp.
Trong GDDS, việc gây hứng thú cho người học không phải là mục đích
cuối cùng nhưng lại có ý nghĩa hết sức lớn lao đối với hiệu quả giáo dục các



nội dung GDDS cho học sinh, sinh viên. Khi những lời giảng của người thầy
không được người học tiếp thu một cách hào hứng thì bao nhiêu ý đồ tốt đẹp
trong nội dung bài giảng GDDS sẽ trở thành vô nghĩa. Quan niệm cho rằng
giảng dạy giáo trình GDDS không. cần chú ý kích thích hứng thú cho người
học là hoàn toàn sai và làm phương hại đến hiệu quả của GDDS.
Muốn kích thích được hứng thú học tập của người học khi tiếp nhận
các nội dung GDDS, phải giải quyết được những thắc mắc của họ về một lý
luận cũng như về mặt thực tiễn. Xung quanh mỗi người chúng ta có rất nhiều
hiện tượng liên quan đến vấn đề dân số và chất lượng cuộc sống, song chỉ vì
không có phân tích cụ thể nên ta không để ý đến tình tiết của các hiện tượng
đó. Quan tâm đến những vấn đề này, bài giảng GDDS sẽ có sức hấp dẫn
hơn. Giải quyết thấu đảo những vấn đề về lý luận và thực tiễn sẽ góp phần
làm sáng tỏ cho người học mọi góc cạnh về dân số, SKSS. Cần tránh hai
khuynh hướng sau đây: Một là, đi sâu vào những lý luận dông dài với cách
trình bày nặng nề, trùng lặp, không thấy được khả năng vận dụng vào thực
tiễn và cũng có thể chính người trình bày chưa nắm hết cái “thần” của vấn đề.
Hai là sa vào những minh họa, những dẫn chứng trong thực tế mà không chắt
lọc được cốt lõi của vấn đề để trên cơ sở đó mà đi sâu diễn giải một quy luật
nào đó trong nội dưng GDDS.
Mặt khác, để tăng thêm độ sâu sắc, nhuận nhuyễn của mỗi bài giảng
trong chương trình GĐDS, ta có thể tận dụng cá danh ngôn lịch sử, văn hoá,
giáo dục… Nói cách khác, trong giảng dạy giáo trình GDDS phải nắm được bí
quyết: nói ít mà sâu hơn nói nhiều mà dàn trải, bài giảng chỉ gợi mở để người
học nghĩ tiếp chứ không bao giờ nói hết; sự cô đọng, khái quát sẽ đem lại độ
sâu sắc của bài giảng hơn là nói nhiều mà không chắt lọc.
Muốn kích thích hứng thú học tập phải đảm bảo gắn nội dung GDDS
với thực tiễn xã hội, đặc biệt là thực tiễn địa phương. Kiến thức trong lĩnh vực
GDDS có thể dừng được đến đâu trong cuộc sống đó là điều những người
học (đặc biệt là người học ở tuổi trưởng thành) rất quan tâm. Người học chỉ

có thể cảm thấy hào hứng khi nội dung GDDS đáp ứng được yêu cầu đang


đặt ra trong cuộc sống của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội. Ai cũng
dễ nhận ra dạy những vấn đề GDDS cho người đã trưởng thành hứng thú
hơn dạy cho học trò tuổi nhỏ. Vì một lẽ rất đơn giản: người trưởng thành đã
hoặc sắp xây dựng gia đình, họ thấy cần thiết được trang bị kiến thức về dân
số học về kế hoạch hoá gia đình. Có gắn nội dung GDDS với thực tiễn cuộc
sống thì người học mới tin vào tính chất ứng dụng được của lý luận GDDS.
Ngược lại, thực tiễn có tác dụng củng cố và nâng cao từ thức thuộc lĩnh vực
GDDS. Môn học sẽ trở nên hứng thú nếu người học lý giải được những vấn
đề nảy sinh của cá nhân, của gia đình… Trong việc giảng dạy GDDS muốn
kích thích hứng thú cho người học, cần tìm cách động viên người học lớn tuổi
tái hiện các thể nghiệm của bản thân và gia đình. Nếu người dạy biết khai
thác kinh nghiệm của cá nhân gia đình, địa phương và dân tộc sẽ làm cho bài
giảng GDDS sinh động. Nếu người học tái hiện những hiện tượng xung
quanh vấn đề dân số và chất lượng cuộc sống của cá nhân gia đình, làng
xóm, địa phương mình bằng cách kề ra rồi phân tích thì càng quý. Nhưng nếu
vì lý do nào đó, người học thấm thía các nội dung song chưa dám hoặc chưa
tiện thổ lộ cho ai thì cũng có thể chấp nhận được. Hứng thú học tập GDDS sẽ
dần hình thành và phát triển.
GDDS là một lĩnh vực mới được đưa vào nhà trường, vì thế kinh
nghiệm và nghệ thuật giảng dạy GDDS còn ít, cần được quan tâm, nghiên
cứu và tìm tòi kinh nghiệm.

HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY CHƯƠNG I
Chương 1 có thời lượng ngắn nên không chia thành bài mà toàn
chương là một bài.
Mục tiêu cần đạt:
- Sinh viên hiểu rõ khái niệm, bản chất, nội dung, mục tiêu và phương

thức giáo dục dân số; lịch sử giáo dục dân số.


- Nắm được các khoa học có liên quan và nội dung giáo dục dân số
trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam.
- Có thái độ hợp tác trong các hoạt động giáo dục dân số.
- Tích cực tham gia truyền thông giáo dục dân số và tự mình thực hiện
tốt các nội dung giáo dục dân số.
Phương pháp giảng dạy:
- Phần này chủ yếu là các kiến thức lý luận nên chủ yếu sử dụng thuyết
trình theo phương thức quy nạp hoặc phương pháp nêu vấn đề.
- Có thể kết hợp với thảo luận chung trên lớp đi đến thống nhất các nội
dung cơ bản của chương I để định hướng cho những chương tiếp theo.
- Khi dạy chương 1, cần làm rõ các kiến thức về: Lịch sử ra đời, phát
triển GDDS trên thế giới và ở Việt Nam; Làm sáng tỏ các khái niệm cơ bản về
GDDS, bản chất của GDDS, Những mục đích, mục tiêu và đối tượng của
GDDS; Những nội dung cơ bản và các chủ điểm đặt ra trong quá trình tiến
hành GDDS; Phương thức tổ chức và phương pháp tiến hành trong hoạt
động GDDS của thế giới và Việt Nam; Thực tiễn triển khai GDDS trong hệ
thống giáo dục phổ thông ở Việt Nam.
Đây là những nội dung cơ bản sinh viên cần phải nắm vững và hiểu
biết để vận dụng trong hoạt động sư phạm sau khi ra trường.

CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 1
Câu 1. Trình bày lịch sử phát triển của giáo dục dân số thế giới, giáo
dục dân số ở Việt Nam?
Câu 2. Nêu rõ khái niệm: giáo dục dân số và các khái niệm dân số; quy
mô dân số; chất lượng dân số; kế hoạch hoá gia đình; giáo dục giới tính; giáo
dục gia đình; mức sinh thay thế phát triển bền vững; chỉ số phát triển con
người (HDI - Human Development Index)?

Câu 3. Chỉ rõ bản chất của giáo dục dân số?


Câu 4. Nêu đối tượng của GDDS trên thế giới và ở Việt Nam?
Câu 5. Trình bày mục tiêu, nội dung, phương thức tổ chức và các
phương pháp tiến hành GDDS?
Câu 6. Chỉ rõ các khoa học có liên quan và các bước tiến hành trong
quá trình GDDS?
Câu 7. Giáo dục dân số trong hệ thống giáo dục nhà trường phổ thông
Việt Nam?

Chương II. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA GIÁO DỤC DÂN SỐ
I. CƠ SỞ DÂN SỐ HỌC
Dân số là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng
địa lý, vùng kinh tế hoặc một đơn vị hành chính, với quy mô dân số tại một
thời điểm nhất định.
Thuật ngữ dân số không chỉ hàm chứa số dân mà còn phản ánh chất
lượng của dân số như kết cấu, sự phân bố, trình độ văn hoá…
Dân số học là khoa học nghiên cứu các hiện tượng, quá trình, quy luật
về dân số, giúp chúng ta có cơ sở khoa học để tiến hành giáo dục dân số.
1. Các học thuyết cơ bản và tính quy luật phát triển dân số
1.1. Các học thuyết cơ bản về dân số
Thế giới vật chất bao gồm ba hệ thống cơ bản: hệ thống tự nhiên vô
cơ. hệ thống tự nhiên hữu cơ và xã hội loài người.
Xã hội loài người là bộ phận đặc thù về chất của tự nhiên. Con người
vừa là chủ thể vừa là nhân tố chủ yếu của hệ sinh thái trái đất, vừa là nguồn
gốc của mọi cơ cấu kinh tế, xã hội và tạo ra tất cả những giá trị vật chất lẫn
tinh thần của xã hội. Vì vậy đây là vấn đề luôn dược lịch sử minh chứng, dõi
theo và các nhà nghiên cứu quan tâm. Để hiểu được các quan điểm cơ bản
về dân số, cần nghiên cứu các học thuyết quan trọng về dân số: thuyết



Maltuýt (Malthus) và tân Maltuýt (Malthus mới); thuyết "Quá độ dân số; học
thuyết Mác - Lênin về dân số.
1.1.1. Thuyết Maltuýt (Malthus) và Tân Maltuýt (New Malthus)
1.1.1.1. Thuyết Maltuýt
Nói đến gia tăng dân số, không thể không nhắc đến một học thuyết nổi
tiếng của Maltuýt và ảnh hưởng sâu rộng của nó trong việc giải thích quá trình
phát triển dân số.
T.R. Maltuýt (Thomas Robert Malthus 1766-1834) là mục sư, nhà kinh
tế học người Anh, người cha đẻ của học thuyết mang tên mình. Trong tác
phẩm "Bàn về dân số" xuất bản năm 1798, Maltuýt đã đề cập tới nạn "nhân
mãn" nên người ta còn gọi học thuyết của ông là "thuyết nhân mãn".
Tóm tắt nội dung cơ bản thuyết Maltuýt (thuyết nhân mãn):
- Dân số tăng theo cấp số nhân (2, 4, 8, 16…) còn lương thực, thực
phẩm, phương tiện sinh hoạt tăng theo cấp số cộng (1, 2, 3, 4, 5).
- Gia tăng dân số diễn ra với nhịp độ không thay đổi, còn sự gia tăng
của cải vật chất là có giới hạn do những đều kiện như diện tích, năng suất…
khó có thể vượt qua.
- Dân số trên trái đất phát triển nhanh hơn khả năng nuôi sống nó. Vì
thế đói khổ, đạo đức xuống cấp, tội ác phát triển là tất yếu.
Theo T. Maltuýt những giải pháp cho sự gia tăng dân số là các “hạn
chế mạnh” và chính các tai họa có tác dụng hạn chế số dân tăng một cách có
hiệu quả. Theo ông người nghèo - người lao động đã sinh đẻ bừa bãi và họ là
nguyên nhân gây ra "nhân mãn", làm cho xã hội đói khổ. Chiến tranh, dịch
bệnh, đói rét… sinh ra là tất yếu để hạn chế sự gia tăng dân số.
Trong tác phẩm "Bàn về dân số" ông đưa ra giải pháp: ”Chúng ta phải
triệt để tạo điều kiện cho các tác động của tự nhiên gây ra cái chết. Chúng ta
khuyến khích một cách thật lòng những lực lượng tàn phá khác của tự nhiên
mà chính chúng ta phải làm cho nó xảy ra. Thay cho việc giáo dục người



nghèo cần phải giữ vệ sinh, con người phải khuyến khích tập quán ngược lại.
Cần phải xây dựng trong thành phố những con đường chật hẹp, làm cho nhà
ở chen chúc những người là người và giúp cho dịch bệnh tái diễn nhiều lần;
Cần phải xây dựng các làng mạc, các khu nước tù ao đọng, đặc biệt là cho
nhân dân định cư ở ven các đầm lầy, nơi có hại cho sức khoẻ. Nhưng trước
hết, chúng ta phải lên án việc dùng các loại thuốc có hiệu quả để chữa bệnh
chết người giống như lên án người tốt nhưng đi lầm đường đã sáng chế ra
các phương pháp để bài trừ dịch bệnh, tưởng rằng như thế là phục vụ cho
quyền lợi của nhân loại…”
Maltuýt là người có công trong việc nghiên cứu vấn đề dân số đã cố
gắng tìm ra những quy luật nào đó và lên tiếng báo động cho nhân loại về
nguy cơ của sự gia tăng dân số nhanh như lịch sử đã chứng minh (đầu Công
nguyên dân số thế giới khoảng 200 - 250 triệu người, năm 1605 đã lên đến
trên 500 triệu người). Về thực chất, thuyết của Maltuýt không phải là việc đặt
giới hạn cho số lượng người trên trái đất mà là việc giải thích sai lầm động lực
dân số, cắt nghĩa không đúng những hậu quả xã hội do sự gia tăng dân số
gây ra. Việc đề ra các giải pháp sai lầm nhằm hạn chế nhịp độ tăng dân số là
không thể chấp nhận được. Có thể do những hạn chế về lịch sử, xuất phát từ
chỗ cho rằng quy luật dân số là quy luật tự nhiên, vĩnh viễn, Mantuýt đã lý giải
sai lệch vấn đề dân số tăng nhanh cũng như nêu các giải pháp thiếu tính
nhân đạo đối với con người.
1.1.1.2. Thuyết Tân Maltuýt
Những người kế tục học thuyết của T.R Maltuýt đã đưa ra các thuyết
nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình còn gọi chung với cái tên: các thuyết
Tân Maltuýt (New Maltuýt). Các thuyết này hình thành chủ yếu vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX.
Một số thuyết cực kỳ phản động, là chỗ dựa tinh thần cho bọn đế quốc
phát động các cuộc chiến tranh. Ví dụ điển hình là Hitler với luận điểm: dân

Đức đông, là người đáng để tồn tại, phải mở rộng "không gian sinh tồn" cho


dân tộc thượng đẳng ấy sống. Đó là cái cớ, là nguyên nhân gây ra chiến tranh
thế giới thứ hai dẫn đến cái chết của trên 53 triệu người.
1.1.2. Thuyết “Quá độ dân số”
Thuyết quá độ dân số (QĐDS) là thuyết nghiên cứu sự biến đổi dân số
qua các thời kỳ lịch sử và những đặc trưng cơ bản của động lực dân số.
Thuyết này hướng sự nghiên cứu và lý giải vấn đề dân số thông qua việc xem
xét mức sinh, mức tử qua từng giai đoạn, căn cứ vào số liệu dân số ở các
nước Tây Âu vào thời kỳ cách mạng công nghiệp để hình thành một quy luật
dân số.
Quá độ dân số là quan niệm được sử dụng rộng rất để lý giải sự thay
đổi các kiểu sản xuất dân cư trên thế giới. Người đầu tiên đưa ra quan niệm
này là nhà dân số học người Pháp A. Ladry. Ông đưa ra thuật ngữ "cách
mạng dân số" vào những năm 1909 - 1934. Tư tưởng này được
F.W.Notestein (nhà dân số học Hoa Kỳ) kế tục và trình bày cụ thể hơn vào
năm 1945.
Nội dung chủ yếu của thuyết QĐDS được thể hiện ở chỗ cho rằng việc
gia tăng dân số thế giới là kết quả những thay đồi về mức sinh, mức tử diễn
ra theo thời gian khác nhau.
Biểu đồ 2.l: Các giai đoạn quá độ dân số
Ti le sinh tu
Ti suat sinh
Cao

Trung binh
Ti suat tu
Thap
I


II

III

IV

Thoi gian


Căn cứ vào sự thay đổi này, thuyết QĐDS phân làm 4 giai đoạn:
1- Từ 1750 - 1800: Tỷ lệ sinh và đ lệ tử đều cao, gia tăng tự nhiên
khoảng 0,5% một năm.
2- Từ 1800 - 1875: Tỷ lệ sinh tiếp tục cao, tỉ lệ tử giảm đần, dẫn tới tỉ lệ
gia tăng dân số rất cao.
3- Từ 1875 - 1950: Tỷ lệ sinh giảm, tỉ lệ tử tiếp tục giảm xuống mức
thấp nhất, do đó giai đoạn này tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên bắt đầu giảm dần.
4- Từ 1950 - 1975: Tỷ lệ sinh và tỉ lệ tử đều thấp, dân số tăng chậm,
dần di lới ổn định.
Giai đoạn 2 và 3 dược gọi là giai đoạn trung gian. Tuy nhiên quá độ dân
số ở nhiều nước không hoàn toàn giống như trên.
Từ việc nghiên cứu tương quan giữa mức sinh và mức tử, thuyết quá
độ dân số đã rút ra quy luật phát triển dân số. Mô hình này được gọi là mô
hình dân số kinh điển. Căn cứ vào mô hình bốn giai đoạn nêu trên có thể thấy
được sự phát triển dân số của thế giới nói chung và của mỗi nước hay nhóm
nước nói riêng đang ở giai đoạn nào.
Nhiều nhà nghiên cứu đã kế thừa, bổ sung và hoàn thiện mô hình quá
độ dân số kinh điển cho phù hợp với điều kiện nghiên cứu cụ thể cho chính
xác hơn. Trên mô hình tỉ suất sinh thổ được thay thế bằng tổng tỉ suất sinh,
còn tỉ suất tử thô được thay thế bằng tuổi thọ trung bình.

Nếu căn cứ vào thuyết QĐDS người ta chỉ có thể biết được dân số của
một lãnh thổ ở kiểu tái sản xuất dân cư nào với những đặc trưng gì. Còn vai
trò của xã hội ra sao lại chưa được xem xét một cách toàn diện. Vì vậy, thuyết
QĐDS mới chỉ nêu được bản chất của quá trình dân số, chưa tìm ra các tác
động để kiểm soát và đặc biệt chưa chú ý đến vai trò của các nhân tố kinh tế xã hội đối với vấn đề dân số.


1.1.3. Học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân số
Trong các tác phẩm kinh điển về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
Mác, Ăngghen, Lênin đã đề cập đến nhiều vấn đề dân số. Nội dung cơ bản
của học thuyết này có thể tóm tắt ở những điểm chính:
- Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có quy luật dân số tương ứng với nó. Trải
qua thực tế lịch sử xã hội loài người đã cho thấy rõ: phương thức sản xuất
nào cũng có quy luật phát triển dân số tương ứng. Đây là một trong những
luận điểm quan trọng hàng đầu của học thuyết Mác- Lênin về dân số.
- Sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư, suy cho cùng, là nhân tố
quyết định phát triển của xã hội loài người. ”Nền sản xuất xã hội” bao gồm hai
hợp phần có mối liên hệ biện chứng trong một thể thống nhất.
+ Sản xuất vật chất (bao gồm sản xuất tư liệu sinh hoạt, sản phẩm tiêu
dùng, nhà ở…).
+ Tái sản xuất con người (là việc sinh sản để duy trì, phát triển nòi
giống).
Khi nói đến "Nền sản xuất xã hội" là một quá trình mang bản chất kép
(tính hai mặt) luôn tác động đến nhau trong quá trình tồn tại và phát triển; mỗi
mặt có vị trí, chức năng nhất định.
Mối quan hệ của "Nền sản xuất xã hội" thể hiện: sản xuất vật chất quyết
định trực tiếp sự tồn tại của xã hội nói chung, của từng con người cụ thể nói
riêng và là cơ sở cho việc tái sản xuất con người. Đến lượt mình, tái sản xuất
con người lại đóng vị tự tiền đề của tái sản xuất vật chất, bởi không có con
người thì không thể có bất kỳ hình thức sản xuất nào.

Chỉ khi nào phát triển tái sản xuất con người ở mức hợp lý, nghĩa là số
dân và nhịp độ gia tăng dân số phù hợp với nền sản xuất vật chất thì xã hội
mới phát triển mạnh chất lượng cuộc sống con người mới được nâng cao.
- Căn cứ vào các điều kiện cụ thể về tự nhiên, xã hội, kinh tế mỗi quốc
gia phải có trách nhiệm xác định số dân tối ưu để một mặt đảm bảo cho sự


thịnh vượng của đất nước, mặt khác, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi
cá nhân.
- Con người có đủ khả năng để điều khiển các quá trình dân số theo
mong muốn của mình. Đúng như F.Ăngghen nhận định: đến một lúc nào đó,
xã hội phải điều chỉnh mức sinh đẻ của con người. Để giải quyết vấn đề này
trước hết cần phải xác định tốc độ phát triển dân số thích hợp cũng như số
dân, kết cấu dân số tại các vùng cho phù hợp với đặc điểm lãnh thổ, đưa ra
một phương thức tốt nhất tác động đến quá trình tái sản xuất dân cư.
Thông qua chính sách dân số của mỗi quốc gia, con người dã và đang
điều khiển việc tái sản xuất dân cư. Nhưng đây là quá trình lâu dài, khó khăn
phức tạp, chỉ có sự sáng suốt, bền bỉ, con người mới thực hiện được.
1.2. Đặc điểm và tính quy luật của sự phát triển dân số
1.2.1. Đặc điểm của quá trình tái sản xuất con người
- Tái sản xuất dân cư thực chất là quá trình tạo ra các sinh mệnh mới
đề duy trì sự phát triển lâu bền của xã hội. Ngay từ khi mới là phôi thai, nó đã
cần phải có những điều kiện vật chất nhất định để đảm bảo sự tồn tại, phát
triển không ngừng. Nhất là khi ra đời, quá trình tồn tại với tư cách là một con
người, một thành viên của gia đình thì cơ sở vật chất đó càng cần thiết.
Không đủ phương tiện sống tối thiểu, bản thân sự sống của từng cá nhân
luôn bị đe doạ.
- Tái sản xuất con người là một quá trình liên tục, kế tiếp nhau từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Đời sống mỗi con người thường chia làm 3 giai đoạn:
trước tuổi trưởng thành; trưởng thành; sau tuổi trưởng thành. Giai đoạn đầu

khoảng trên dưới 20 năm, là thời gian cần thiết để đổi mới một thế hệ. Nếu
tuổi thọ trung bình càng cao thì khả năng tái sản xuất con người ở mỗi người
sẽ dài hơn.
- Tái sản xuất con người là một quá trình có sức ì rất lớn. Nghĩa là
không thể một sớm một chiều có thể thay thế ngay kiểu tái sản xuất dân cư
này bằng kiểu khác. Khi tốc độ dân số tăng quá chậm (hoặc quá nhanh) dù có


×