MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đảng cộng sản lãnh đạo quân đội là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Đó là nhân tố quyết định sự trưởng thành,
chiến đấu và chiến thắng của quân đội cách mạng.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, tùy thuộc vào yêu cầu, tình hình
nhiệm vụ của cách mạng và tình hình mọi mặt của đất nước, của quân đội, sự biến
động của tình hình quốc tế và khu vực trong từng thời kỳ, ĐCSVN đều luôn có
những giải pháp đúng đắn và kịp thời để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội. Chính vì vậy, từ ngày thành lập đến nay, sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội luôn được giữ vững, đảm bảo
cho quân đội ta hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Trong giai đoạn mới của cách mạng - giai đoạn đẩy mạnh thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược : xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN trong bối cảnh đất nước đang
tiến hành sự nghiệp CNH,HĐH và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với những
thời cơ và thách thức đan xen phức tạp; chủ nghĩa đế quốc tiếp tục thực hiện âm
mưu chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, kết hợp “diễn
biến hòa bình” với bạo loạn lật đổ và khi cần có thể tiến hành xâm lược vũ trang
hòng xóa bỏ CNXH trên đất nước ta. Bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, chúng
đang ráo riết thực hiện mưu đồ xoá bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với xã hội
và quân đội, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội ta. Mặt khác, những biến đổi
nhiều mặt về kinh tế - xã hội của đất nước trong giai đoạn đẩy mạnh CNH,HĐH và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động nhiều mặt đến hoạt động của quân
đội, đặt ra nhiều yêu cầu mới về sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Bên cạnh
đó, trong thực tế cũng đã xuất hiện những suy nghĩ và hành động xem nhẹ vai trò
lãnh đạo của Đảng, chưa thực sự coi trọng việc hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn
mới của cách mạng.
Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về
ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường
hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong giai đoạn mới của cách mạng
vẫn là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Mục tiêu: trên cơ sở phân tích, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN, những yêu cầu mới về sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội để đề xuất một số giải pháp chủ yếu, nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội trong giai đoạn mới của cách mạng.
* Nhiệm vụ: để thực hiện mục tiêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa, làm rõ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với
QĐNDVN như là một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của
giai cấp công nhân.
- Làm sáng tỏ khái niệm ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN và khái quát từ thực
tiễn cách mạng Việt Nam một số bài học kinh nghiệm về ĐCSVN lãnh đạo
QĐNDVN.
- Luận giải những yếu tố tác động và yêu cầu về sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội trong giai đoạn mới của cách mạng.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội trong giai đoạn mới của cách mạng.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo QĐNDVN trong giai đoạn mới của cách
mạng.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Là đề tài thứ nhất trong chương trình KXB. 01.03 về ‘‘ĐCSVN lãnh đạo
QĐNDVN trong giai đoạn cách mạng mới’’, đề tài này chỉ tập trung luận giải một
số vấn đề cơ bản nhất về lý luận và thực tiễn ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN với
thời gian dự báo đến năm 2020.
* Phạm vi khảo sát: nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát thực tiễn ở một số
quân đoàn, quân chủng, binh chủng, quân khu, nhà trường quân đội. Các số liệu
phục vụ cho đề tài được giới hạn chủ yếu từ năm 1996 đến nay. Đối tượng được tiến
hành khảo sát bằng phiếu trưng cầu ý kiến bao gồm cả sỹ quan, hạ sỹ quan, chiến sỹ,
học viên trường sỹ quan và trường quân sự tỉnh.
3. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu:
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về chính đảng cách
mạng của giai cấp công nhân, về quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản, học thuyết
về chiến tranh và quân đội, lý luận bảo vệ Tổ quốc XHCN; tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng ta về xây dựng Đảng, về xây dựng quân đội cách mạng, về
bảo vệ Tổ quốc XHCN.
- Đề tài dựa trên thực tiễn hoạt động lãnh đạo của ĐCSVN đối với QĐNDVN
gần 60 năm qua được thể hiện trong các Văn kiện Đảng, tài liệu tổng kết của
BCHTW, ĐUQSTW, TCCT ; đồng thời chú trọng những kết quả khảo sát từ thực
tế ở một số đơn vị mà nhóm nghiên cứu đã tới khảo sát.
- Dựa trên phương pháp luận triết học Mác - Lê nin, đề tài sử dụng có chọn
lọc những phương pháp nghiên cứu của các khoa học xã hội và nhân văn, trong đó
đặc biệt chú trọng các phương pháp: phân tích - tổng hợp, lôgíc - lịch sử, tổng kết
thực tiễn, điều tra khảo sát, so sánh và phương pháp chuyên gia ; đồng thời có sử
dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình tổng kết về công tác xây dựng
Đảng, CTĐ,CTCT đã được công bố, các báo cáo của các đơn vị về những vấn đề
liên quan đến nội dung của đề tài.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Nằm trong chương trình nghiên cứu cấp Bộ gồm 9 đề tài, kết quả nghiên cứu
của đề tài này sẽ làm cơ sở lý luận chung cho toàn bộ chương trình nghiên cứu;
góp phần làm sáng tỏ, phong phú thêm những vấn đề lý luận cơ bản về ĐCSVN
lãnh đạo QĐNDVN; đồng thời góp phần cung cấp những luận cứ khoa học giúp
cho BCHTW, BCT, BBT, ĐUQSTW, BQP, TCCT xác định những giải pháp cụ
thể nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với QĐNDVN đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong
giảng dạy, học tập môn xây dựng Đảng, CTĐ,CTCT và công tác nghiên cứu khoa
học ở các cơ quan, đơn vị, Viện nghiên cứu và nhà trường quân đội.
5. Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm mở đầu, 3 chương ( 8 tiết ), kết luận, danh
mục tài liệu đã sử dụng, các công trình đề tài đã công bố và tập phụ lục.
Chương 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM - QUAN NIỆM VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
1.1. Quan niệm về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt
Nam.
1.1.1. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công
nhân.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin đã khẳng định : quân đội là một hiện tượng lịch sử,
ra đời do nhu cầu của các cuộc đấu tranh giai cấp, gắn liền với sự xuất hiện của
nhà nước, bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định. Ph.Ăngghen
viết rằng: "Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức do nhà nước xây
dựng nên để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến tranh phòng ngự " 1.
Thực tiễn lịch sử của các xã hội có giai cấp đối kháng đều cho thấy, cả nhà nước
và quân đội, ngay từ lúc mới ra đời đã thấm đượm bản chất chính trị của giai cấp
đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Không có và không thể có quân đội phi giai cấp,
đứng ngoài chính trị. Mọi sự tuyên truyền về thứ ‘‘quân đội phi chính trị’’ chỉ là
một sự lừa dối. Bản thân các giai cấp cầm quyền bao giờ cũng sử dụng quân đội
như là một lực lượng chính trị để bảo vệ quyền lợi của mình. Lịch sử đã cho thấy
sự tồn tại quân đội của các giai cấp khác nhau. Đó là quân đội của giai cấp chủ nô,
quân đội của giai cấp phong kiến, quân đội của giai cấp tư sản - những quân đội
của các giai cấp bóc lột. Từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, một
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân đã ra đời - quân đội vô sản (quân đội
XHCN).
Lịch sử cận, hiện đại cho thấy, với sự ra đời của các chính đảng, các cuộc đấu
tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc thường được tiến hành dưới ngọn cờ của các
chính đảng và các chính đảng này đều tìm cách nắm lấy quân đội để phục vụ cho
lợi ích giai cấp của chính đảng mình. Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ giữa
quân đội và chính trị.
Ngày nay, mặc dù các học giả tư sản vẫn rêu rao rằng, "quân đội đứng ngoài
chính trị, trung lập về chính trị", nhưng ngay trong xã hội tư bản với thể thức đa
nguyên chính trị, các đảng phái vẫn luôn tìm cách chi phối, nắm quân đội và trên
thực tế, quân đội của các nhà nước tư sản luôn mang bản chất của giai cấp tư sản,
phục vụ cho lợi ích của giai cấp và nhà nước tư sản.
Về vấn đề này, ngay từ năm 1906, khi bàn về thái độ của các đảng tư sản và
chính phủ Nga hoàng đối với quân đội Nga hoàng, V.I.Lê nin đã viết: "Cả đảng
Dân chủ - lập hiến lẫn chính phủ đều theo đuổi những lợi ích riêng trong vấn đề
quân đội. Bọn sát nhân cần đến quân đội làm công cụ tàn sát. Bọn tư sản tự do chủ
nghĩa cần đến quân đội để bảo vệ nền quân chủ tư sản khỏi bị những sự xâm phạm
và yêu sách "quá đáng" của nông dân và đặc biệt là của công nhân. Cái giáo lý tầm
thường, giả nhân, giả nghĩa và dối trá cho rằng "quân đội phải đứng ngoài chính
trị" thì đặc biệt thuận lợi để che giấu những nguyện vọng thật sự của giai cấp tư
sản về phương diện này" 1 .
Hiện nay, quân đội của các nước tư bản vẫn đang đóng vai trò to lớn trong đời
sống chính trị xã hội của các nước này. Các đảng tư sản cầm quyền đều ra sức
chăm lo xây dựng quân đội với mục đích là làm cho nó luôn luôn trung thành và là
công cụ bạo lực tin cậy, có đủ sức mạnh để bảo vệ nhà nước tư sản, chế độ TBCN,
có sức mạnh răn đe trong giải quyết quan hệ đối ngoại. Mỗi đảng tư sản cầm quyền
đều chọn cho mình một cách để nắm quân đội, nhưng đều tập trung ở chỗ: bằng
đường lối của đảng cầm quyền; bằng luật pháp của nhà nước; bằng sự tác động về
vật chất, về tinh thần, tâm lý; bằng chính sách đãi ngộ đối với quân nhân và gia
đình quân nhân; đặc biệt là nắm chắc lấy đội ngũ sĩ quan trong quân đội. Theo đó,
quân đội tư sản không những không đứng ngoài chính trị, mà trong nhiều trường
hợp lại còn lún sâu vào thứ chính trị phản động của nhà nước tư sản.
Khác về bản chất so với quân đội của các giai cấp bóc lột, quân đội vô sản là
quân đội kiểu mới ra đời từ nhu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản của quần chúng nhân dân lao động bị áp bức,
bóc lột chống lại giai cấp bóc lột, chống lại ách thực dân, đế quốc để phấn đấu xây
dựng một chế độ xã hội mới: xã hội XHCN do nhân dân lao động làm chủ. Mặc
dầu sự ra đời của quân đội vô sản ở các nước diễn ra có khác nhau, song đều là
quân đội kiểu mới, quân đội cách mạng với những đặc trưng khác hẳn về chất so
với quân đội kiểu cũ của giai cấp bóc lột. Đó là quân đội nhân dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của ĐCS, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng dựa trên lực lượng
chính trị của quần chúng nhân dân, của khối liên minh công - nông, chiến đấu vì
lợi ích của nhân dân lao động. Quân đội đó có chế độ CTĐ,CTCT, có tổ chức cơ
quan chính trị và cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị trong quân đội. Sự
ra đời của quân đội vô sản đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử, lần đầu tiên có
một quân đội đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của quần chúng nhân dân, bảo vệ cuộc
sống lao động hoà bình của nhân dân trước sự chống phá của kẻ thù bên trong và
bên ngoài. Sự khác nhau căn bản về bản chất, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của
quân đội cách mạng so với quân đội của giai cấp bóc lột đã đòi hỏi sự lãnh đạo của
ĐCS phải luôn được tăng cường .
Thực tiễn lịch sử quân đội các nước XHCN trong thế kỷ XX và gần đây đều
cho thấy: chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS, quân đội mới giữ vững được bản
chất giai cấp công nhân; mới xác định rõ được mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì
CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân; từ đó mà luôn tuyệt đối trung thành với Đảng,
Nhà nước, nhân dân, với chế độ XHCN, không ngừng tăng cường được sức mạnh
chiến đấu của mình. Nhưng một khi ĐCS có những sai lầm trong xác định đường
lối cách mạng, đường lối xây dựng quân đội, xem nhẹ vai trò của CTĐ,CTCT,
thiếu quan tâm củng cố sự lãnh đạo, hoặc từ bỏ sự lãnh đạo của mình đối với quân
đội, thì quân đội sẽ nhanh chóng biến chất, mất phương hướng chiến đấu, bị kẻ thù
vô hiệu hoá để không còn là lực lượng chính trị trung thành, công cụ bạo lực của
Đảng, nhà nước XHCN trong bảo vệ thành quả của cách mạng, của chế độ XHCN
nữa. Sự biến chất của quân đội Xô viết và quân đội các nước XHCN ở Đông âu
trong thập niên 90 của thế kỷ trước đã cho thấy rõ điều đó.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ phong trào đấu tranh chính trị của
quần chúng dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Nó là quân đội kiểu mới, mang bản
chất giai cấp công nhân. Ngay từ những đội vũ trang nhỏ bé đầu tiên, mô hình tổ
chức của nó đã thể hiện sự quán triệt và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lê nin về quân đội kiểu mới. Các đội tự vệ đỏ trong cao trào
Xô viết Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931 đã có những đảng viên cộng sản trực tiếp lãnh
đạo. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân với 34 chiến sỹ, tiền thân của
QĐNDVN ngày nay, lúc mới thành lập cũng đã đi theo mô hình tổ chức có chi bộ
đảng lãnh đạo, có một cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị bên cạnh
người đội trưởng. Thực tiễn lịch sử gần 60 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng
thành của quân đội ta cho thấy, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
ĐCS là nhân tố quyết định đảm bảo cho quân đội ta giữ vững bản chất giai cấp
công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, có đủ sức mạnh để hoàn thành thắng lợi
mọi nhiệm vụ. Mặc dù trong gần 60 năm đó, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội có nhiều lần thay đổi, nhưng tư tưởng ‘‘Đội phải lấy chi bộ đảng làm hạt
nhân lãnh đạo’’ được xác định từ ngày thành lập vẫn không thay đổi. Sự kiện các
sư đoàn Cộng hoà Vệ binh ở Nam bộ vào cuối năm 1945 đã nhanh chóng phân hoá
và tan rã do việc tổ chức không theo nguyên tắc Đảng thống nhất tổ chức và lãnh
đạo LLVT đã chứng minh rất rõ rằng: lực lượng vũ trang muốn thực sự là của
nhân dân thì nhất thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; xa rời sự lãnh đạo
của Đảng, các LLVT sẽ trở thành đội quân ô hợp, không thể tồn tại và phát
triển được(1). Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: cuộc đấu
tranh cách mạng trường kỳ, gian khổ và vô cùng anh dũng đã rèn luyện và dạy cho
nhân dân Việt Nam nhiều bài học lớn, mà một trong những bài học đó là: “Phải
xây dựng và lãnh đạo vững chắc lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân, bảo
đảm đánh thắng bất cứ kẻ thù nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào"(2). Nhờ có sự lãnh
đạo của Đảng, quân đội ta mới thực sự là quân đội cách mạng, của dân, do dân, vì
dân, luôn "… trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập,
tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn
nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng"(3). Lời tuyên dương đó của Chủ
tịch Hồ Chí Minh vừa phản ánh bản chất, vừa là truyền thống vẻ vang của quân đội
ta.
Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân đội ta
luôn giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, vì
cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân, hoàn thành tốt chức năng chiến đấu,
công tác và lao động sản xuất. Ở đâu khó khăn, gian khổ nhất là ở đó có quân đội.
Do vậy mà hình tượng "Bộ đội Cụ Hồ" đã trở thành biểu tượng của quân đội ta,
phản ánh bản chất, truyền thống của một quân đội cách mạng. Trong suốt quá trình
lịch sử từ ngày thành lập tới nay, quân đội ta luôn là lực lượng chính trị tuyệt đối trung
thành, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một nguyên tắc bất di, bất dịch
nhằm đảm bảo sức mạnh chiến đấu của quân đội. Do đó, kẻ thù luôn tìm mọi
cách chia rẽ Đảng với quân đội, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng,
đối lập quân đội với Đảng, với nhân dân. Hiện nay, chủ nghĩa đế quốc, đứng
đầu là Mỹ vẫn không từ bỏ mưu đồ xoá bỏ CNXH trên đất nước ta. Chúng đang
đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình" kết hợp với gây bạo loạn lật đổ và
khi có thời cơ sẽ phát động chiến tranh xâm lược. Chúng đang ráo riết thực
hiện âm mưu "phi chính trị hoá" quân đội ta, hòng làm cho quân đội ta xa rời
bản chất giai cấp công nhân, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, biến chất
về chính trị, suy giảm sức mạnh chiến đấu, để từ đó chúng dễ bề xoá bỏ những
thành quả của công cuộc xây dựng CNXH trên đất nước ta. Vì vậy, hiện nay
cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng đã khẳng định: "Thường xuyên tăng cường sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân
dân, đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh"(1).
Tóm lại, từ những vấn đề chung nhất về bản chất chính trị - xã hội của
quân đội trong xã hội có giai cấp đối kháng, từ thực tiễn lịch sử của quân đội
các nước XHCN trên thế giới và từ thực tiễn của cách mạngViệt Nam, có thể
khẳng định rằng: ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN là sự vận dụng đúng đắn và
sáng tạo nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân. Đó là nhân tố quyết định đảm bảo cho quân
đội ta giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu
sắc, luôn là lực lượng chính trị trung thành, công cụ bạo lực sắc bén của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam XHCN. Đó đã là một tất yếu lịch sử và Đảng ta có đầy đủ bản lĩnh, năng
lực, kinh nghiệm để tiếp tục lãnh đạo QĐNDVN trong giai đoạn mới của cách
mạng.
1.1.2. Khái niệm ‘‘Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Quân đội nhân dân
Việt Nam’’.
‘‘Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo QĐNDVN’’ là một khái niệm được sử dụng
phổ biến trong thực tiễn, nhưng không phải lúc nào cũng được lý giải một cách
tường minh. Điều đó dễ dẫn đến những sai lầm trong việc tìm kiếm các giải pháp
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường sự quản lý của Nhà nước nhằm
mục đích chung là làm cho quân đội ta vững mạnh toàn diện, đủ sức hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Do vậy, làm rõ
khái niệm ‘‘ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN’’ có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc để xác định mối quan hệ giữa Đảng với quân đội, quân đội với Nhà nước và
các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị; nội dung, phương thức, cơ chế
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; phân biệt sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý
của Nhà nước đối với quân đội; xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của
Đảng trong lãnh đạo quân đội, khắc phục hiện tượng chồng chéo chức năng, nhiệm
vụ, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan Đảng và cơ quan quản lý Nhà nước ở
tầm vĩ mô, Đảng uỷ và chính quyền các cấp ở tầm vi mô trong lãnh đạo, quản lý,
chăm lo xây dựng quân đội. Mặt khác, đây cũng là cơ sở để đấu tranh chống lại
mọi thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội ta của các thế lực thù địch .
Thuật ngữ lãnh đạo đã được các từ điển tiếng Việt định nghĩa " là dẫn dắt, tổ
chức phong trào theo một đường lối cụ thể"1, hoặc "là đề ra chủ trương, đường lối
và tổ chức thực hiện" 2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ qúa độ lên
CNXH đã xác định: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định
hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên truyền, thuyết
phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên” 1.
Điều 41 Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (thông qua tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX) chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo nhà nước và đoàn thể chính trị - xã hội
bằng Cương lĩnh chính trị, chiến lược, chính sách, chủ trương; bằng công tác tư
tưởng, tổ chức, cán bộ và kiểm tra, giám sát việc thực hiện” 2. Trong tác phẩm
‘‘Sửa đổi lối làm việc’’, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã viết rằng : ‘‘Lãnh đạo
đúng có nghĩa là :1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng… 2. Phải tổ
chức sự thi hành cho đúng… 3. Phải tổ chức sự kiểm soát… 3 Như vậy, nội hàm
của thuật ngữ ‘‘lãnh đạo'’ thường có ba nội dung cơ bản là: xác định phương
hướng chính trị, đường lối chính trị; vận động, thuyết phục quần chúng tổ chức
thực hiện đường lối chính trị nói trên; tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện
đường lối chính trị đó.
Quân đội là một tổ chức quân sự gắn liền với đấu tranh vũ trang, liên quan
trực tiếp đến sự mất, còn của chế độ chính trị nên có nhiều nét đặc thù về tổ chức
so với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Do đó, Đảng lãnh đạo quân đội cũng
không thể thông thường như lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội khác. Từ thực
tiễn Đảng lãnh đạo và xây dựng QĐNDVN gần 60 năm qua, có thể quan
niệm: ĐCSVN lãnh đạo QĐNDVN là sự tác động toàn diện của Đảng về chính trị,
tư tưởng và tổ chức đến quân đội thông qua Cương lĩnh chính trị và đường lối,
quan điểm, tư tưởng quân sự, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân
dân, xây dựng LLVTND, xây dựng quân đội nhân dân; thông qua công tác tư
tưởng, tổ chức, cán bộ với các nguyên tắc và phương thức tác động thích hợp để tổ
chức thực hiện, kiểm tra và giám sát việc thực hiện Cương lĩnh, đường lối, quan
điểm, tư tưởng đó nhằm đảm bảo cho quân đội luôn trung thành tuyệt đối với
Đảng, Nhà nước và nhân dân, đủ sức mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ trong bất kỳ
tình huống nào.
Như vậy, ĐCSVN là chủ thể lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam. Trên cơ sở
Điều lệ, Nghị quyết Đại hội đảng, đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược
cách mạng nói chung và về quốc phòng, quân sự nói riêng, chủ thể lãnh đạo trực
tiếp đối với quân đội được tập trung trước hết vào BCHTW, BCT, BBT. Đó là các
cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt đối với quân đội. Trong quân đội, chủ thể lãnh đạo là hệ thống tổ chức
đảng các cấp từ ĐUQSTW (với tư cách là cấp uỷ cao nhất trong quân đội) đến chi
bộ cơ sở. Thông qua hệ thống tổ chức đảng các cấp trong quân đội mà ĐCSVN,
trực tiếp là BCHTW, BCT, BBT, thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Cấp ủy đảng (tổ chức đảng) các cấp chịu trách nhiệm lãnh đạo mọi mặt đơn vị
thuộc quyền theo chức năng, phạm vi nội dung, quyền hạn quy định cho từng cấp.
Để thực hiện vai trò của chủ thể lãnh đạo, xuất phát từ tính đặc thù của các
hoạt động quân sự và vai trò đặc biệt quan trọng của quân đội - công cụ bạo lực
của Đảng và Nhà nước, để quân đội luôn trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước
và nhân dân, ĐCSVN thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi
mặt đối với QĐNDVN. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân
đội thể hiện rõ quan điểm: Đảng độc tôn lãnh đạo quân đội, không chia sẻ quyền
lãnh đạo quân đội cho bất kỳ một tổ chức, một lực lượng chính trị, một giai cấp
nào khác. Đảng trực tiếp quyết định chủ trương, đường lối; trực tiếp lãnh đạo tổ
chức thực hiện, kiểm tra và tổng kết việc thực hiện các đường lối, chủ trương đó
trong quân đội. Những chủ trương, quan điểm của Đảng về lãnh đạo, xây dựng
quân đội phải được quán triệt một cách sâu sắc trong nội bộ Đảng, Nhà nước và
các tổ chức trong hệ thống chính trị; được Nhà nước thể chế hoá thành luật, thành
chính sách và tổ chức thực hiện một cách triệt để trong thực tế. Các đoàn thể chính
trị - xã hội trong hệ thống chính trị căn cứ vào quan điểm, chủ trương của Đảng,
luật pháp, chính sách của Nhà nước để đề ra kế hoạch, chương trình hành động, kế
hoạch công tác thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ có liên quan đến quân đội. Như
vậy, không một tổ chức, một lực lượng nào có thể thay thế Đảng quyết định những
vấn đề thuộc về đường lối, chủ trương, quan điểm xây dựng quân đội. Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chứ
tuyệt nhiên không phải là lãnh đạo quân đội; đồng thời Đảng cũng không ủy quyền
lãnh đạo quân đội cho bất cứ lực lượng, tổ chức trung gian nào khác.Về phương
diện chính trị, Đảng trực tiếp xác định đường lối xây dựng quân đội.Về tư
tưởng, Đảng trực tiếp đưa hệ tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào quân đội, khẳng định đó là hệ tư tưởng thống trị trong
quân đội, đấu tranh loại bỏ ảnh hưởng của các hệ tư tưởng phi vô sản vào quân
đội. Về phương diện tổ chức, Đảng lãnh đạo quân đội bằng chính hệ thống tổ chức
của Đảng từ Trung ương đến cơ sở, bằng chính đội ngũ đảng viên, cán bộ của
Đảng công tác trên các cương vị trong các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, đoàn thể.
Những tổ chức đảng là hạt nhân lãnh đạo ở các cấp trong quân đội. Đội ngũ đảng
viên là "người lãnh đạo" trên các lĩnh vực, các mặt công tác theo sự phân công,
phân nhiệm của tổ chức đảng. Mọi sự lạm dụng quyền lực cá nhân, lợi dụng tổ
chức, dùng uy tín cá nhân để đưa ra những chủ trương lãnh đạo đối với quân đội
nói chung, ở các đơn vị cơ sở nói riêng đều vi phạm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội còn thể hiện ở chỗ:
Đảng lãnh đạo mọi mặt công tác, mọi lĩnh vực, mọi nhiệm vụ, trong mọi điều kiện,
hoàn cảnh. Sự lãnh đạo đó không tạo ra "khoảng trống", những "vùng cấm", không
"bỏ sót" bất cứ lĩnh vực, hoạt động nào của quân đội. Hiện nay, trong điều kiện
Đảng cầm quyền, vai trò quản lý của Nhà nước cần phải đề cao, nhưng phải đấu
tranh khắc phục những nhận thức cho rằng: sự lãnh đạo của Đảng chỉ nên dừng lại
ở việc định hướng về chính trị, ở những vấn đề có tính nguyên tắc, những quan
điểm lớn, còn các nội dung khác do Nhà nước quyết định. Mặt khác, cũng cần đấu
tranh với những nhận thức và việc làm can thiệp quá sâu vào mọi vấn đề không
thuộc thẩm quyền lãnh đạo, dẫn đến bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước và hệ thống chính trị, nhưng Đảng hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Một yêu cầu cao đặt ra đối với Đảng ta
hiện nay là vừa giữ vững quyền lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
quân đội; vừa phát huy cao vai trò của Nhà nước trong quản lý quân đội.
Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội không
ngoài mục đích chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức; đảm bảo cho quân đội luôn luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước
và nhân dân; luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân
tộc; có sức mạnh chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong bất cứ
tình huống nào. Mục đích đó chi phối việc xác định nội dung, phương thức và cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội gồm nhiều nội dung, nhưng tập trung
chủ yếu ở những vấn đề sau đây:
Một là, Đảng xác định đường lối, quan điểm quân sự, đường lối xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân
đội nhân dân.
Việc xác định đường lối quân sự, trong đó có đường lối xây dựng quân đội nhân
dân, giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong quá trình tổ chức sự lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội. Trong đường lối đó, Đảng xác định rõ hệ tư tưởng, bản chất của
quân đội; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân đội; các nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của quân đội trong mối quan hệ với Đảng, với Nhà nước và các tổ chức
trong hệ thống chính trị; vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quy mô biên chế, tổ
chức lực lượng của quân đội; quyền lợi, nghĩa vụ của người quân nhân cách mạng ...
Những nội dung đó sẽ được Nhà nước thể chế hoá thành các điều luật, bộ luật, pháp
lệnh, chính sách, điều lệnh, điều lệ, quy chế tổ chức và hoạt động của quân đội, của
các hệ thống tổ chức trong quân đội. Những quan điểm cơ bản của Đảng thể hiện
trong đường lối quân sự luôn được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với sự phát triển
của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, quy mô biên chế, trình độ vũ khí, trang bị của
quân đội. Chính vì vậy, nói đến tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
bao giờ cũng phải quan tâm đến việc hoàn thiện đường lối, chiến lược quân sự,
đường lối, chiến lược xây dựng quân đội nhân dân trong từng thời kỳ cách mạng.
Hai là, Đảng chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân
đội.
Chăm lo xây dựng và bồi dưỡng bản chất giai cấp cho quân đội là vấn đề cốt
lõi của xây dựng quân đội về chính trị. Bất cứ chính đảng cầm quyền nào muốn
nắm chắc quân đội, đều phải thường xuyên quan tâm vấn đề bản chất giai cấp của
quân đội, nhằm đảm bảo cho quân đội luôn trung thành với lợi ích của chính đảng
cầm quyền đã tổ chức và nuôi dưỡng nó. Ngay từ khi ra đời, quân đội ta đã là một
quân đội kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, chiến đấu vì mục tiêu, lý
tưởng của chính đảng của giai cấp công nhân. Thế nhưng, bản chất giai cấp công
nhân của quân đội ta không thể tự phát sinh ra từ việc tập hợp những công dân xuất
thân chủ yếu từ nông dân thành một tổ chức quân sự. Bản chất đó phải do ĐCSVN,
đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người sáng lập, giáo dục, rèn luyện truyền cho quân đội ta.
Nhận thức đúng đắn đặc điểm xây dựng quân đội cách mạng ở một nước tiểu
nông mà thành phần xuất thân của các đội viên chủ yếu từ nông dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng và bồi dưỡng bản
chất giai cấp công nhân cho quân đội, xem đó là cốt lõi, là cơ sở đẻ xây dựng quân
đội vững mạnh toàn diện. Vì thế, xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân
đội là vấn đề thuộc nội hàm của phạm trù Đảng lãnh đạo quân đội. Buông lỏng
việc xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân đội thực chất là buông lỏng sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Trong gần 60 năm lãnh đạo quân đội, việc
chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân của quân đội được hướng tập trung
vào chỗ đảm bảo cho quân đội ta chiến đấu theo mục tiêu cách mạng và đường lối
chính trị của ĐCSVN, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ và hành động; đảm bảo cho quân
đội được xây dựng theo những nguyên tắc tổ chức phù hợp với hệ tư tưởng, với
đường lối chính trị, quân sự và đường lối tổ chức của Đảng, của giai cấp công
nhân. Ngày nay, trước những thủ đoạn thâm độc của chiến lược ‘‘diễn biến hoà
bình’’ nhằm làm phai nhạt bản chất giai cấp công nhân của quân đội ta, thì vấn đề
tăng cường xây dựng, bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân cho cán bộ, chiến sỹ
quân đội càng phải được quan tâm hơn bao giờ hết.
Ba là, Đảng lãnh đạo quy mô tổ chức lực lượng, cơ cấu biên chế của
quân đội.
Quy mô tổng quân số, cơ cấu tổ chức, biên chế của quân đội là một nhân tố
tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội, liên quan chặt chẽ đến ngân sách quốc
phòng, Học thuyết quân sự, nghệ thuật tác chiến, yêu cầu nhiệm vụ của mỗi thời
kỳ cách mạng, khả năng đảm bảo của nền kinh tế v.v... Do vậy, vấn đề này phải do
BCT, BBT, BCHTW trực tiếp chỉ đạo, lãnh đạo. Quán triệt sâu sắc nghệ thuật tiến
hành chiến tranh nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, căn cứ vào điều
kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán
tư tưởng xây dựng LLVT ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân
tự vệ. Trong lãnh đạo tổ chức xây dựng lực lượng, Đảng chú ý lãnh đạo việc xây
dựng quân đội với quy mô tổng quân số và cơ cấu các quân chủng, binh chủng,
quân đoàn, binh đoàn cân đối, hợp lý, vừa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trước
mắt, vừa có khả năng phát triển theo hướng xây dựng quân đội cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Hiện nay, trong khi cả nước tập trung phát
triển kinh tế, song không được phép một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc
đang đòi hỏi việc xây dựng quân đội trong thời bình phải có chiến lược tổ chức lực
lượng đúng đắn, đảm bảo giải quyết hài hoà vấn đề phát triển kinh tế, nhưng quân
đội phải đủ sức mạnh răn đe, đập tan mọi âm mưu xâm lược của các thế lực thù
địch, dù chúng tiến hành bằng phương thức chiến tranh nào.
Bốn là, Đảng lãnh đạo việc xây dựng và phát triển nền khoa học và nghệ thuật
quân sự Việt Nam, làm cơ sở để chiến đấu, huấn luyện bộ đội.
Khoa học và nghệ thuật quân sự là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh
chiến đấu của quân đội ta. Trong điều kiện chúng ta còn có nhiều hạn chế về trình
độ vũ khí, trang bị, tiềm lực kinh tế và tiềm lực kinh tế quân sự, nhưng trong các
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng vẫn giành được thắng lợi to lớn trước đối phương có ưu thế hơn hẳn về vũ
khí, trang bị. Điều đó có một nguyên nhân từ sự lãnh đạo tài tình của ĐCSVN và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về nghệ thuật quân sự. Nghệ thuật quân sự đó là sự kế thừa
tinh hoa truyền thống nghệ thuật quân sự của ông, cha ta trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước; phát huy tối đa tính đặc thù của Việt Nam về địa lý, con người,
truyền thống văn hoá... và tiếp thu có chọn lọc những nhân tố hợp lý trong nghệ
thuật quân sự của thế giới. Ngày nay, để đối phó thắng lợi cuộc chiến tranh xâm
lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội đòi hỏi phải đầu tư phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự Việt
Nam, làm cơ sở để huấn luyện bộ đội và chuẩn bị các phương án tác chiến có hiệu
quả.
Năm là, Đảng lãnh đạo việc đảm bảo vũ khí, trang bị và nuôi dưỡng bộ
đội.
Vũ khí, trang bị là một nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân
đội. Việc đảm bảo vũ khí, trang bị cho quân đội là vấn đề cơ mật bởi nó liên quan
chặt chẽ đến nghệ thuật quân sự và phương thức tác chiến, đòi hỏi một nguồn tài
chính lớn lấy từ ngân quỹ quốc gia. Vì vậy, Đảng phải lãnh đạo rất chặt chẽ. Trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo rất thành công việc đảm
bảo vũ khí, trang bị cho quân đội ta. Hiện nay, trong điều kiện mới, việc đảm bảo
vũ khí, trang bị đòi hỏi các cấp uỷ đảng phải lãnh đạo chặt chẽ việc niêm cất, bảo
quản, mua sắm, sản xuất, cải tiến, phát triển các loại vũ khí, trang bị cho phù hợp
với điều kiện kinh tế của đất nước và yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, chiến đấu của
quân đội. Làm tốt điều đó là góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của quân
đội ta,
Cùng với việc lãnh đạo đảm bảo vũ khí, trang bị cho quân đội, việc lãnh đạo
công tác nuôi dưỡng bộ đội, bao gồm toàn bộ những vấn đề đảm bảo đời sống vật
chất và tinh thần của cán bộ, chiến sỹ quân đội cũng là một nội dung đặc biệt quan
trọng. "Thực túc binh cường" là kinh nghiệm của cha ông ta trong xây dựng quân
đội, củng cố nền quốc phòng. Đó cũng là qui luật chung trong lãnh đạo và xây
dựng mọi quân đội. V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng, những đội quân trung thành
nhất cũng sẽ ngay lập tức bị tiêu diệt, nếu họ không được huấn luyện và tiếp tế đầy
đủ. Chăm lo tốt đời sống vật chất và tinh thần của bộ đội là thiết thực tạo ra động
lực chính trị, tinh thần to lớn của cán bộ, chiến sỹ; đảm bảo cho bộ đội có sức khỏe
dẻo dai để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong bất cứ tình huống nào.
Thực tế đã cho thấy, trong một số năm gần đây, đời sống của cán bộ, chiến sỹ được
cải thiện, cơ sở hạ tầng của các đơn vị quân đội được đầu tư xây dựng khang trang
hơn đã góp phần quan trọng vào xây dựng động cơ, xu hướng nghề nghiệp quân
sự, giảm mạnh những hiện tượng vi phạm kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ, làm tăng
thêm sự gắn bó của họ đối với quân đội và nghề nghiệp quân sự.
Sáu là, Đảng lãnh đạo tiến hành công tác đảng, công tác chính trị trong quân
đội.
Công tác đảng, công tác chính trị là một bộ phận hợp thành hoạt động lãnh
đạo của Đảng đối với quân đội; có vai trò quan trọng trong tổ chức và tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Tiến
hành CTĐ,CTCT là điểm khác biệt có tính nguyên tắc của quân đội cách mạng
dưới sự lãnh đạo của ĐCS so với quân đội kiểu cũ của giai cấp bóc lột. Với tính
cách là một tổ chức quân sự, trong bất cứ quân đội nào (kiểu cũ hay mới), thuộc
tính cơ bản của nó vẫn là ra mệnh lệnh chỉ huy, cấp dưới phục tùng vô điều kiện
mệnh lệnh của cấp trên. Thế nhưng, trong quân đội kiểu mới của giai cấp công
nhân, nhờ có chế độ CTĐ,CTCT mà các thuộc tính cơ bản của lãnh đạo Đảng đối
với quần chúng là thuyết phục, giáo dục, đưa yếu tố tự giác vào mọi hành động của
quần chúng đã gắn kết được sự thuyết phục với ra mệnh lệnh, tạo ra chất keo kết
dính keo sơn giữa cấp trên và cấp dưới mà quân đội kiểu cũ không thể có. Nhờ đó,
quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân có ưu thế hơn hẳn về sức mạnh chính trị
- tinh thần. Vì thế, CTĐ,CTCT là một phạm trù thuộc nội hàm sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và do đó, nói đến tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là phải nói ngay đến tăng cường CTĐ,CTCT. Thực tiễn lịch sử chiến đấu
và trưởng thành của quân đội ta đã chứng minh rõ vai trò to lớn đó của CTĐ,
CTCT. Nó được xem là ‘‘mạch sống, là linh hồn’’ của quân đội ta. Mọi biểu hiện
hạ thấp vai trò của CTĐ,CTCT thực chất là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Điều đó lập tức sẽ làm cho sự lãnh đạo bị quan liêu hoá, sẽ dẫn đến những sai lầm
không thể lường trước được đối với sự nghiệp xây dựng quân đội. Bài học về sự
biến chất của quân đội các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là một thực tiễn
lịch sử chứng minh điều đó.
Để thực hiện được mục đích và nội dung lãnh đạo của mình, Đảng phải
có phương thức lãnh đạo phù hợp. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội là một bộ phận cấu thành trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã
hội, có mối quan hệ biện chứng với phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các
lĩnh vực khác, đặc biệt là với lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Do quân đội là một tổ
chức quân sự có những điểm đặc thù về tổ chức và lãnh đạo so với các tổ chức
chính trị - xã hội khác nên phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội cũng
có những nét riêng mà không áp dụng cho các lĩnh vực khác. Nhìn chung, phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội có những nội dung chính như sau:
Một là, xác định, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chiến lược, chính sách quốc
phòng, quân sự, xây dựng LLVT nhân dân, quân đội nhân dân.
Đảng lãnh đạo trước hết phải bằng đường lối, thông qua đường lối. Đó là nền
tảng, là cơ sở để định hướng hoạt động cho toàn bộ xã hội theo một mục tiêu
chung của cách mạng, là căn cứ để Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống
chính trị cụ thể hoá, xây dựng thành luật pháp, chính sách, thành qui định, kế
hoạch, chương trình hành động cách mạng. Tính đúng đắn, khoa học của đường
lối, chiến lược, chính sách của Đảng ảnh hưởng tích cực đến toàn bộ hoạt động
của xã hội. V.I. Lênin đã từng cảnh báo các ĐCS rằng: một trong những nguy
cơ lớn nhất đối với ĐCS là sai lầm về đường lối. Vì vậy, đường lối, chiến lược,
chính sách đúng đắn là yếu tố cực kỳ quan trọng đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng.
Trên cơ sở đường lối, chiến lược chung của cách mạng, Đảng xác định đường
lối, chiến lược quốc phòng, đường lối, chiến lược quân sự, đường lối, chiến lược
xây dựng LLVT nhân dân, quân đội nhân dân và tổ chức lãnh đạo thực hiện các
đường lối, chiến lược đó. Trong từng giai đoạn cách mạng, tuỳ thuộc vào sự vận
động phát triển của tình hình mà những nội dung cụ thể trong những đường lối,
chiến lược về quốc phòng, quân sự, xây dựng LLVT, xây dựng quân đội được bổ
sung, phát triển và hoàn thiện, thể hiện trong Nghị quyết của các Đại hội đại biểu
toàn quốc ; Nghị quyết của BCHTW và BCT ; Hướng dẫn, Qui định của BBT ;
Nghị quyết, Hướng dẫn của ĐUQSTW ...
Hai là, xây dựng và phát huy tốt vai trò của hệ thống tổ chức đảng từ Trung
ương đến cơ sở, các tổ chức đảng ở các cơ quan Nhà nước (đảng đoàn) liên quan
đến quốc phòng, quân đội.
Đảng lãnh đạo quân đội không chỉ bằng đường lối, mà còn thông qua hệ
thống tổ chức đảng để lãnh đạo tổ chức thực hiện thành công đường lối xây dựng
quân đội của Đảng. Bằng hệ thống tổ chức từ BCHTW, BCT, BBT, ĐUQSTW đến
tổ chức cơ sở đảng trong quân đội, mà ĐCSVN thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối,
trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, đảm bảo mọi quan điểm, đường lối của
Đảng được quán triệt sâu sắc, chấp hành nghiêm túc trong quân đội; Đảng nắm
chắc quân đội trong mọi tình huống, sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được củng cố
và tăng cường.
Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến quân đội, đến tổ chức sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội còn có mối quan hệ trực tiếp đến hệ thống tổ chức của Đảng
ở các cơ quan của Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị. Vì vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội còn liên quan
cả đến hệ thống Đảng từ Trung ương đến cơ sở theo hệ thống hành chính quốc gia,
đảng đoàn trong bộ máy nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Thông qua hệ thống tổ chức đảng đó mà những quan điểm, chủ trương chính sách
của Đảng có liên quan đến quốc phòng, quân đội đều được lãnh đạo tiến hành một
cách chặt chẽ, thông suốt, đồng bộ; được triển khai nhanh chóng, phối hợp chặt
chẽ với các cấp uỷ, chỉ huy và cơ quan chức năng trong quân đội.
Mối quan hệ giữa hệ thống tổ chức đảng trong quân đội với hệ thống tổ chức
đảng bên ngoài quân đội trong quá trình tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội là mối quan hệ phối hợp, hiệp đồng, cùng đặt dưới sự lãnh đạo của
BCHTW, BCT, BBT, trong đó vai trò của ĐUQSTW, Đảng uỷ quân khu, Đảng uỷ
quân sự cấp tỉnh (thành phố), huyện (quận) là rất quan trọng.
Lịch sử ra đời và trưởng thành của quân đội ta trong kháng chiến chống Pháp,
chống Mỹ và hiện nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN cho
thấy: xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong và ngoài quân đội vững mạnh; thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo công tác quân sự, quốc phòng và những nội
dung xây dựng quân đội, xây dựng LLVT là nhân tố có ý nghĩa trực tiếp quyết
định đến hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Nếu không làm được như
vậy, thì đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm sút sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội.
Ba là, xây dựng và phát huy vai trò của tổ chức chỉ huy, của đội ngũ cán
bộ, đảng viên trong quân đội vững mạnh.
Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với quân đội không chỉ bằng hệ thống tổ chức
đảng mà còn thông qua hệ thống tổ chức chỉ huy, đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ
các cương vị, chức trách khác nhau trong quân đội. Chất lượng của các tổ chức chỉ
huy, của đội ngũ cán bộ, đảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động
lãnh đạo của các tổ chức đảng trong quá trình tổ chức thực hiện đường lối, nghị
quyết, chính sách của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Ở cương vị càng cao,
chức trách càng lớn; ở những vị trí then chốt thì vai trò của người cán bộ càng
quan trọng trong tổ chức thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối quân đội.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội với chức trách của mình trong các
tổ chức chỉ huy và các tổ chức quần chúng của đơn vị, thông qua tổ chức đảng các
cấp đại diện cho Đảng thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, đồng thời cũng đại diện cho
Nhà nước thực hiện sự quản lý hoạt động của đơn vị theo phạm vi, quyền hạn gắn
với cương vị, chức trách. Không có đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự trung kiên,
tận tâm, tận lực với đơn vị, với nhiệm vụ được giao thì khó có thể nói đến sự vững
mạnh của quân đội. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội từ cấp chiến lược
đến cấp chiến thuật, từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở là những người trực tiếp giáo
dục, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho cấp
dưới; đồng thời, trực tiếp tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện đó
trong mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Ở đâu có bộ đội là ở đó có cán bộ, đảng
viên phụ trách, là có sự lãnh đạo, chỉ huy chặt chẽ, thống nhất. Vì vậy, nếu đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong quân đội thiếu về số lượng, bất hợp lý về cơ cấu; chất
lượng tổ chức chỉ huy, chất lượng đội ngũ (phẩm chất, năng lực, phong cách công
tác) cán bộ, đảng viên không cao sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu lực lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội. Do đó, trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều
luôn quan tâm xây dựng tổ chức chỉ huy, đội ngũ cán bộ đảng viên vững mạnh.
Bốn là, xây dựng và phát huy tốt vai trò của Nhà nước, của các tổ chức chính
trị - xã hội trong hệ thống chính trị đối với nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố
quốc phòng.
Trên cơ sở đường lối, chiến lược của Đảng về xây dựng quân đội, Nhà nước
có trách nhiệm cụ thể hoá thành luật, văn bản dưới luật, chính sách, nghị định và tổ
chức thực hiện. Vì vậy, hiệu lực quản lý của Nhà nước về quân sự, quốc phòng nói
chung, với quân đội nói riêng cao hay thấp ảnh hưởng quyết định đến việc tăng
cường hay làm suy giảm sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Trên thực tế, Bộ
quốc phòng là một cơ quan thuộc Chính phủ; hệ thống cơ quan chỉ huy, cán bộ
trong quân đội được bổ nhiệm theo Luật sĩ quan, phù hợp với hệ thống chức danh
trong biểu biên chế của Bộ quốc phòng thực hiện chức năng quản lý quân đội về
mặt nhà nước. Do đó, Bộ quốc phòng vừa là đối tượng quản lý của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời lại là một bộ phận không thể tách
rời của bộ máy nhà nước.
Đảng luôn phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị như: Công đoàn, Hội liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội cựu chiến
binh ... hướng vào xây dựng quân đội, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội. Các tổ chức này có vai trò to lớn trong động viên, giáo dục cán bộ, chiến
sỹ, công nhân viên quốc phòng trong quân đội và gia đình bộ đội; trong thực hiện
chính sách xã hội nói chung, chính sách đối với quân đội và gia đình quân nhân nói
riêng, ủng hộ về vật chất và tinh thần đối với quân đội. Thực tiễn lịch sử chứng
minh rằng, sự chăm lo, đùm bọc của nhân dân là một trong những động lực to lớn
đảm bảo cho quân đội ta tiến bộ, trưởng thành, tuyệt đối trung thành với Đảng,
Nhà nước và nhân dân. Hiện nay trong điều kiện thời bình, điều kiện kinh tế thị
trường, kinh nghiệm đó cần tiếp tục được khơi dậy và phát huy tốt hơn.
Năm là, tiến hành công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách đối với quân
đội.
Đảng tiến hành công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách là góp phần xây dựng
quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; xây dựng Đảng bộ Quân đội,
xây dựng các tổ chức, các lực lượng trong quân đội vững mạnh. Bằng công tác tư
tưởng, Đảng truyền hệ tư tưởng của Đảng vào trong quân đội, xây dựng cơ sở
chính trị - xã hội của Đảng trong quân đội, bồi dưỡng bản chất giai cấp công nhân,
xây dựng động lực chính trị - tinh thần của quân đội. Bằng công tác tổ chức, Đảng
xây dựng hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, các tổ chức quần
chúng, các cơ quan chức năng và đội ngũ cán bộ trong quân đội thật sự vững
mạnh, đáp ứng yêu cầu thực hiện các nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, đội quân
công tác và đội quân lao động sản xuất trong mọi thời kỳ. Đồng thời, Đảng còn
chăm lo xây dựng các tổ chức trong bộ máy của Đảng và Nhà nước luôn đủ sức
thực hiện tốt chức năng làm tham mưu, tư vấn cho BCHTW, BCT, BBT những
vấn đề liên quan đến quốc phòng, an ninh, đến xây dựng quân đội. Bằng công tác
chính sách xã hội nói chung, chính sách đãi ngộ đối với quân đội nói riêng, Đảng
tác động đến tâm tư, tình cảm, ý chí của đảng viên, cán bộ, chiến sỹ trong quân đội
và gia đình quân nhân thông qua việc giải quyết hài hoà lợi ích của cán bộ, chiến
sỹ, người thân trong gia đình họ; qua đó mà thể hiện tính chất ưu việt của chế độ
XHCN, sự tôn vinh của xã hội đối với quân đội, đối với những người có công với
nước và những người sẵn sàng hy sinh thân mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc;
thể hiện sự công bằng xã hội, hợp với truyền thống, đạo lý của dân tộc ta. Chính
sách có vai trò rất to lớn trong tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội;
bởi chính sách đúng, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của cán bộ, chiến sỹ
trong quân đội và gia đình họ sẽ là chất keo gắn kết ý chí, tình cảm, trách nhiệm
của cán bộ, chiến sỹ và nhân dân đối với Đảng và chế độ mà họ bảo vệ. Ngược lại,
nếu chính sách không phản ánh được những nguyện vọng, lợi ích chính đáng ấy,
nó sẽ làm suy yếu, thậm chí tan rã những đạo quân hùng mạnh. Vì vậy, để không
ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, Đảng ta đã luôn quan
tâm điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các chính sách xã hội, chính sách đãi ngộ
đối với quân đội và gia đình quân nhân trong mọi giai đoạn của cách mạng; coi đó
như là một nội dung không thể thiếu trong hoàn thiện phương thức lãnh đạo của
Đảng.
Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, tổ chức và chính sách trong quân đội là
một nguyên tắc tiến hành CTĐ,CTCT. Nó vừa là một nội dung của sự lãnh đạo,
vừa là một yếu tố cấu thành nằm trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
quân đội. Thực tế đã chứng minh rằng, khi nào CTĐ,CTCT bị buông lỏng, bị xem
nhẹ, hiệu lực CTĐ,CTCT thấp thì lúc đó hiệu lực lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội bị suy giảm nghiêm trọng, lòng tin của cán bộ, chiến sĩ đối với Đảng bị giảm
sút, trong nội bộ quân đội nảy sinh những vấn đề phức tạp. Chính vì thế, Đảng ta
đã xác định tiến hành CTĐ,CTCT là nguyên tắc, là ‘‘mạch sống, linh hồn’’ của
quân đội cách mạng; nâng cao hiệu lực CTĐ, CTCT thực chất là tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
- Sáu là, xác lập cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ và đặc điểm của mỗi giai đoạn cách mạng. Cơ chế lãnh đạo của
ĐCSVN đối với QĐNDVN là “...toàn bộ cơ cấu tổ chức và các chế độ, quy định
hoạt động để thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của ĐCS VN
đối với QĐNDVN” (1) .
Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội không phải là bất biến. Tuỳ theo
tình hình nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ của quân đội mà các quy định cụ thể của
cơ chế có thể được Đảng điều chỉnh cho phù hợp. Cơ chế có sức mạnh rất lớn; nó
sẽ là động lực, là nhân tố tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nếu cơ chế đó là khoa
học, phù hợp với tình hình. Ngược lại, nếu cơ chế đã lỗi thời, tỏ ra không còn phù
hợp với sự phát triển thì nó sẽ sản sinh ra những mâu thuẫn nội tại, trở thành lực
cản, làm giảm sút sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Sự duy trì quá lâu một
cơ chế không còn hiệu lực, khi đã bộc lộ rõ những mặt bất cập, sẽ làm triệt tiêu
động lực, làm tê liệt hệ thống và đưa đến những hậu quả nghiêm trọng nặng nề về
nhiều mặt không thể lường trước.
Việc thiết lập một cơ chế lãnh đạo đúng đắn đối với quân đội không ngoài
mục tiêu: đảm bảo cho Đảng lãnh đạo chặt chẽ quân đội trong mọi tình huống;
quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng và sự nghiệp cách mạng, đủ sức hoàn
thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Đó cũng chính là tiêu chí để xem xét
sự cần thiết phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội.
Cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội thường bao gồm : Hệ thống tổ
chức trong cơ chế và hệ thống các nguyên tắc qui định sự vận hành, mối quan hệ
giữa các tổ chức trong cơ chế. Trong đó, hệ thống các nguyên tắc quy định sự vận
hành mối quan hệ của các tổ chức trong cơ chế là yếu tố nhạy cảm nhất, quyết
định hiệu lực của cơ chế. Các nguyên tắc quy định sự vận hành mối quan hệ
giữa các tổ chức mang tính khách quan, nhưng do con người nhận thức và áp
dụng. Vì vậy, các nguyên tắc đó có thể phù hợp với qui luật khách quan,
nhưng cũng có thể là sự áp đặt chủ quan của chủ thể định ra cơ chế.
Hệ thống tổ chức trong cơ chế bao gồm hệ thống tổ chức đảng từ BCHTW,
BCT, BBT, ĐUQSTW đến tổ chức cơ sở đảng trong quân đội; hệ thống chỉ huy;
hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị; đội ngũ cán bộ, đảng viên; các tổ
chức quần chúng ở cơ sở trong quân đội. Trong các tổ chức, các lực lượng kể trên,
hệ thống tổ chức đảng giữ vai trò là chủ thể lãnh đạo; còn lại là chủ thể thực hiện
sự lãnh đạo của Đảng theo chức năng nhiệm vụ của mình.
Hệ thống các nguyên tắc trong cơ chế bao gồm: nguyên tắc quy định vị trí,
chức năng, quyền hạn của các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và trong
quân đội liên quan đến thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
QĐNDVN; nguyên tắc quy định cơ cấu hệ thống tổ chức đảng trong
QĐNDVN; nguyên tắc quy định hoạt động và trách nhiệm của cấp uỷ, của các tổ
chức đảng, chế độ nề nếp sinh hoạt của đảng bộ các cấp trong quân đội; nguyên tắc
quy định mối quan hệ giữa tổ chức đảng với thủ trưởng đơn vị, giữa lãnh đạo và
chỉ huy trong thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; nguyên tắc quy
định về chế độ CTĐ,CTCT, việc tổ chức và mối quan hệ của cơ quan chính trị và
cán bộ chính trị các cấp trong quân đội với người chỉ huy, đảng uỷ cùng cấp và cơ
quan chính trị cấp trên.
Tùy thuộc vào nghị quyết, hướng dẫn, quy định của BCHTW, BCT, BBT,
ĐUQSTW mà các nguyên tắc trong cơ chế có sự điều chỉnh cho phù hợp. Đổi mới,
hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, thực chất là đổi mới hệ thống nguyên tắc trong cơ chế và
từng nguyên tắc cho phù hợp với sự phát triển của tình hình. Sự chậm trễ trong
nghiên cứu, đổi mới các nguyên tắc trong cơ chế là nguyên nhân làm giảm hiệu lực
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, có thể gây ra những tác động tiêu cực đến quá
trình xây dựng quân đội.
Những phân tích trên cho thấy: mặc dù sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý
của Nhà nước đối với quân đội có sự thống nhất ở mục đích nhằm tăng cường sức
mạnh chiến đấu của quân đội, song giữa chúng có sự khác biệt nhất định. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phân biệt rõ
vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng.
Việc phân biệt sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước đối với quân
đội cần xuất phát từ xem xét vai trò, chức năng xã hội của Đảng và Nhà nước;
đồng thời cần thấy rõ mối liên hệ, tính phụ thuộc lẫn nhau giữa sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước trong một cơ cấu chính trị thống nhất. Nếu không,
sẽ dễ dẫn tới sự đối lập Đảng với Nhà nước, đối lập sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước đối với quân đội.
Đảng lãnh đạo QĐNDVN thể hiện ở chỗ: Đảng xác định phương hướng xây
dựng quân đội, bao gồm phương hướng giai cấp, quy mô biên chế tổ chức lực
lượng, vũ khí trang bị kỹ thuật, xác định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của quân
đội, hệ tư tưởng của quân đội, cơ cấu hệ thống lãnh đạo chỉ huy, hệ thống làm công
tác đảm bảo hậu cần đời sống, cơ cấu bộ máy tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong
quân đội. Đảng quyết định việc sử dụng quân đội trong các tình huống chiến tranh,
những biến cố lịch sử, trong các tình huống khẩn cấp. Đảng lãnh đạo quân đội
bằng đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách trên cả phương diện chính trị,
tư tưởng và tổ chức, cả về quân sự, chính trị và hậu cần, kỹ thuật; bằng cả công tác
tư tưởng, tổ chức và chính sách. Dựa trên đường lối, quan điểm, chủ trương của
Đảng, các cấp ủy đảng từng địa phương, đơn vị có trách nhiệm quán triệt, tổ chức
thực hiện những quan điểm, đường lối, chính sách ở đơn vị, địa phương mình, lãnh
đạo mọi mặt đơn vị thuộc quyền theo phạm vi nội dung, quyền hạn qui định cho
từng cấp.
Sự lãnh đạo của Đảng không hề mâu thuẫn với sự quản lý của Nhà nước
XHCN đối với quân đội. Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật,
bằng hệ thống tổ chức chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Hoạt động quản lý
của Nhà nước bao gồm cả lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quân đội là
một bộ phận của Nhà nước, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, giữ vai
trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN, vì vậy Nhà nước tất yếu phải
quản lý quân đội.
Sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội thể hiện ở chỗ: dựa trên đường lối,
quan điểm của Đảng về xây dựng quân đội trong từng thời kỳ mà Nhà nước thể
chế hoá thành luật và những chính sách cụ thể, mang tính pháp quy buộc hệ thống
chính quyền các cấp, các tổ chức, các lực lượng có liên quan phải chấp hành theo
đúng chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của mình. Mọi điều luật, nghị định, pháp
lệnh, chính sách đối với quân đội do Nhà nước ban hành không được trái với
đường lối, quan điểm của Đảng. Những vấn đề hệ trọng, những vấn đề mới nảy
sinh xung quanh xây dựng, sử dụng quân đội đều phải được sự lãnh đạo trực tiếp
của BCHTW, BCT, sự chỉ đạo hướng dẫn của BBT. Trên cơ sở đường lối, chủ
trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo của cấp ủy cùng
cấp, sự hướng dẫn chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền cấp trên về công tác quân sự,
quốc phòng, về những nội dung liên quan đến quân đội, hệ thống cơ quan chính
quyền các cấp (trong và ngoài quân đội) thực hiện chức năng quản lý nhà nước
theo phạm vi quyền hạn quy định cho từng cấp. Vận dụng vào xem xét vấn đề này
ở các đơn vị cơ sở trong quân đội, có thể thấy: sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở sự
lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ với đơn vị, mà thường xuyên là của các cấp ủy đảng;
còn sự quản lý của Nhà nước thể hiện ở sự chỉ huy, quản lý, điều hành của đội ngũ
cán bộ các cấp, mà trực tiếp là người chỉ huy.
Những phân tích trên cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước
đối với quân đội cần được phân biệt ở cả cấp vĩ mô và cấp vi mô. Điểm phân biệt
có tính nguyên tắc giữa chúng thể hiện rõ ở sự khác biệt về phương thức tiến hành
lãnh đạo và quản lý. Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chủ trương, bằng giáo dục
thuyết phục, nêu gương; bằng công tác tư tưởng và tổ chức. Nhà nước quản lý
bằng luật pháp, chỉ thị mang tính cưỡng chế, bắt buộc là chủ yếu, mặc dù bên cạnh
đó vẫn giáo dục, thuyết phục .
Vậy là, sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với quân đội đều
thuộc phạm trù quyền lực chính trị, nhưng không thay thế được nhau, không đồng
nhất với nhau. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, tuy chức
năng quản lý của Nhà nước được mở rộng và đề cao, nhưng không thể thay thế
chức năng lãnh đạo của Đảng, mà đòi hỏi càng phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và quân đội. Phân biệt rõ sự quản lý của Nhà nước và sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN sẽ cho phép khắc phục có hiệu quả những lẫn lộn về chức năng,
nhiệm vụ và phương pháp công tác của các tổ chức quản lý nhà nước và các cơ
quan lãnh đạo đảng trong việc chăm lo xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu
của quân đội.
Tóm lại, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của ĐCSVN đối với
QĐNDVN là một nguyên tắc trong xây dựng quân đội cách mạng của giai cấp
công nhân, là nhân tố quyết định bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính
dân tộc của quân đội; đảm bảo cho quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà
nước, nhân dân, chế độ XHCN, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Dưới
sự lãnh đạo của ĐCSVN, quân đội ta đã lập nên những kỳ tích to lớn, góp phần
vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay. Sự nghiệp xây dựng
quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại trong những điều
kiện lịch sử mới của thế kỷ XXI đang tiếp tục đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
1 C..Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 14, Nxb. CTQG, H. 1994, tr. 11
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 13. Nxb. TB. M.1980, tr. 358.
(1) Tổng cục Chính trị, Ban nghiên cứu lịch sử quân đội. Lịch sử quân đội nhân
dân Việt Nam, Nxb. QĐND. H. 1974, tr 186 - 197.
(2) Hồ Chí Minh , Toàn tập ,tập 11. Nxb. CTQG. H. 2002, tr 494.
(3) Hồ Chí Minh , Toàn tập, tập 11. Nxb. CTQG. H. 2002, tr 350.