Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bài thu hoạch xây dựng kế hoạch dạy học tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.81 KB, 11 trang )

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN NỘI DUNG 3
MODULE 14 : XÂY DỰNG KẾ HOẠCH DẠY HỌC TÍCH HỢP
CÂU HỎI: Thế nào là dạy học tích hợp, vì sao cần thiết sử dụng dạy học tích
hợp. Hãy nêu các mục tiêu, yêu cầu và nội dung cơ bản của kế hoạch dạy học
tích hợp?.
TRẢ LỜI:
A. Dạy học tích hợp:
Phương thức tích hợp các môn học hay DHTH đã được vận dụng
tương đối phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, đã có
nhiều môn học, cấp học quan tâm vận dụng tư tưởng sư phạm tích
hợp vào quá trình dạy học đề nâng cao chất lượng giáo dục HS (như
các môn Sinh học, Địa lí, Ngữ văn... đưa các nội dung giáo dục vào
môn học...).
DHTH chú trọng tới chương trình, kế hoạch để nâng cao năng
lực, tập trung vào năng lực chứ không đơn thuần chỉ là kiến thức.
Thực hiện một năng lực là biết sử dựng các nội dung và các kĩ năng
trong một tình huống có ý nghĩa. Thay vì việc dạy một sổ lớn kiến
thức cho HS, ngưởi GV trước hết hãy xem xét xem học sinh có thể vận
dựng các kiến thức đó vào tình huống thực tế hay không, chẳng hạn
như: thay vì nhắc lại những lời mẫu nói lễ phép trong dạy học đạo
đức, hãy xem xét học sinh có khả năng lựa chọn một mẫu lời nói lễ
phép trong tình huống cho trước và biết sử dụng mẫu đó một cách
đúng đắn; hoặc thay vì học một lượng kiến thức liên quan đến môi
trường (trong môn Sinh học, Địa lí...), học sinh có khả năng hành
động đề bảo vệ môi trường xung quanh mình...
DHTH đuợc hiểu là quá trình dạy học sao cho trong đó toàn bộ
các hoạt động học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực rõ
ràng, có dự tính trước những điều cần thiết cho HS, nhằm phục vụ các
quá trình học tập tiếp theo và chuẩn bị cho HS bước vào cuộc sống lao
động. Mục tiêu cơ bản của tư tưởng sư phạm tích hợp là nâng cao chất
lượng giáo dục HS phối hợp với các mục tiêu giáo dục toàn diện của


nhà trưởng.
Cần thiết phải đưa vào pp dạy học tích cực
1


Xu thế phát triển của khoa học ngày nay là tiếp tục phân hoá
sâu, song song với tích hợp liên môn, liên ngành càng rộng, chính vì
thế việc giảng dạy các môn khoa học trong nhà trưởng phản ánh sự
phát triển hiện đại của khoa học, không thể giảng dạy các khoa học
như là các lĩnh vực tri thức riêng rẽ. Mặt khác, khối lượng tri thức
khoa học đang gia tăng nhanh chóng mà thời gian học tập trong nhà
trưởng lại có giới hạn, do đó phải chuyển từ dạy các môn học riêng rẽ
sang dạy các môn học tích hợp.
Nếu trong nhà trưởng phổ thông, học sinh quen tiếp cận các khái
niệm một cách rời rạc, học sinh có nguy cơ sau này tiếp tục suy luận
theo kiểu khép kín. Những chương trình nghiên cứu quốc tế đã cho
thấy hiện tưởng “mù chữ chức năng", đó là trường hợp những ngưởi
đã lĩnh hội được kiến thức trường tiểu học nhưng không có khả năng
sử dụng các kiến thức đó vào cuộc sống hằng ngày; Họ có thể đọc
được một văn bản, nhưng không thể hiểu ý nghĩa của nó; có thể biết
làm tính cộng, nhưng khi có một vấn đề của cuộc sống hằng ngày đặt
ra cho họ thì họ không biết phải làm tính cộng hay tính trừ... Điều này
đặt ra một đòi hỏi: cần phải dạy học trong sự tích hợp để đào tạo
những con ngưởi đáp ứng được yêu cầu luôn luôn biến động của thực
tiễn.
Mặt khác, với tốc độ phát triển nhanh chóng của khoa học và kĩ thuật,
nguồn thông tin hàng ngày đổi mới và gia tăng, mọi kiến thức được học
trong nhà trưởng có thể trở nên cũ đi, trong đó học sinh lại có thể tiếp
thu các nguồn thông tin qua nhiều kênh khác nhau ngoài nhà trưởng
(đài, báo, đặc biệt là internet). Đề việc học ở nhà trưởng vẫn tiếp tục là

có ý nghĩa đổi với học sinh, việc dạy học cần đuợc đổi mới, không chỉ
là dạy kiến thức mà cần phải dạy các kĩ năng, không chỉ là học kiến
thức khoa học của một môn mà cần dạy trong sự tích hợp với nhiều
môn học khác nhau... Hiện nay, nhiều môn học đã được đưa vào nhà
trưởng phổ thông, các môn học đó đã có xu hướng phải liên kết với
nhau. Điều này thể hiện quá trình mục tiêu giáo dục toàn diện học
sinh . Tuy nhiên với quỹ thời gian và kinh phí có hạn, không thể đưa
nhiều môn học hơn nữa vào nhà trưởng cho dù những tri thức này rất
cần thiết, vì vậy, việc dạy học tích hợp (DHTH) các môn học, các nội
dung giáo dục trong nhà trưởng là giải pháp quan trọng.
B. Mục tiêu cơ bản của KHDHTH
2


Những mục tiêu cơ bản của kế hoạch dạy học theo hướng tích hợp
Kế hoạch dạy học tích hợp nhằm nhiều mục tiêu khác nhau, có thể xác
định bốn mục tiêu lớn sau:
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa hơn bằng cách đặt các quá trình
học tập và nhận thức trong hoàn cánh có ý nghĩa đổi với HS. Chính vì
vậy, việc học tập không tách rời cuộc sống hằng ngày mà thường
xuyên được liên hệ và kết nối trong mối quan hệ với các tình huống cụ
thể mà HS sẽ gặp trong thực tiễn, những tình huống có ý nghĩa với
HS. Nói một cách khác việc học ở nhà trường hòa nhập vào đời sống
thường ngày của học sinh.
- Phân biệt cái cốt yếu với cái thứ yếu. Không thể dạy học một cách
dàn trải, đồng đều, các quá trình học tập ngang bằng với nhau. Bên
cạnh những điều hữu ích, những kiến thức và năng lực cơ bản có
những thứ được dạy chỉ là “lí thuyết", không thật hữu ích. Trong khi
đó, giờ học trên lớp là có hạn, nhiều kiến thức và năng lực cơ bản
không đủ thời gian cần thiết.

- Dạy sử dụng kiến thức trong tình huống. DHTH chủ trọng tới việc
thực hành, sử dựng kiến thức mà HS đã lĩnh hội đuợc, thay vì chỉ học
tập lí thuyết mọi loại kiến thức. Mục tiêu của DHTH là hướng tới việc
giáo dục HS thành con ngưởi chủ động, sáng tạo, có năng lực làm việc
trong xã hội cũng như làm chủ cuộc sống của bản thân sau này.
- Lập mối liên hệ giữa các khái niệm đã học. Một trong bốn mục tiêu
của DHTH là nhằm thiết lập mối quan hệ giữa những khái niệm khác
nhau của từng một môn học cũng như của những môn học khác nhau.
Điều này sẽ giúp cho HS có năng lực giải quyết các thách thức bất ngờ
gặp trong cuộc sống, đòi hỏi người đối mặt phải biết huy động những
năng lực đã có không chỉ ở một khía cạnh mà nhiều lĩnh vực khác
nhau đề giải quyết..
C. Các yêu cầu của kế hoạch dạy học tích hợp:
Các yêu cầu cơ bản đối với một kế hoạch bài học
- Cấu trúc bài soạn phải bao quát đuợc tổng thể các phuơng pháp dạy
học đa dạng và nhiều chiều, tạo điều kiện vận dụng phối hợp những
phuơng pháp dạy học, mềm dẻo về mức độ chi tiết đề có thể thích ứng
đuợc với cả những giáo viên đã dày dặn kinh nghiệm lẫn những giáo
viên trẻ mới ra trường hay giáo sinh thực tập sư phạm. Đồng thời làm
nổi bật hoạt động của học sinh như là thành phần cốt yếu.
3


- Bài soạn phải nêu đuợc các mục tiêu của tiết học. Giáo viên cần phải
xác định chính xác trọng tâm kiến thức kĩ năng của bài dạy, trên cơ sở
đó có phương pháp dạy phối hợp. Thông qua phương pháp dạy, cách
hỏi, rèn kĩ năng mà thầy giáo có thể rèn luyện bồi dưỡng phát triển tư
duy, phát triển trí thông minh của học sinh. Mục đích yêu cầu sẽ chỉ
đạo toàn bộ nội dung kế hoạch thực tiễn bài dạy và chính nội dung
bài dạy quy định mục đích yêu cầu. chính vì vậy việc xác định mục

đích yêu cầu là vấn đề hết sức quan trọng đòi hỏi sự dày công, ý thức
trách nhiệm cao khi sọan bài.
- Bài soạn phải nêu được kết cấu và tiến trình của tiết học, bài soạn
phải làm nổi bật các vấn đề sau: Sự phát triển logic từ giai đoạn này
đến giai đoạn khác, từ phần kiến thức này đến phần kiến thức khác.
Giảng dạy phỏi hợp với quy luật nhận thức, dẫn giải, suy luận từ dễ
đến khó, từ đơn giản đến phức tạp một cách có hệ thống. Làm rõ sự
phát triển tất yếu từ kiến thức này đến kiến thức khác. Cụ thể là đảm
bảo mối liên hệ logic giữa các phần, bảo đảm bài dạy là một hệ toàn
vẹn, mỗi phần là một phân hệ, các phân hệ gắn bó chãt chẽ tạo nên
một hệ toàn vẹn.
- Bài soạn phải xác định được nội dung, phương pháp làm việc của
thầy và trò trong cả tiết học: Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với
một tiết học. Từ chỗ giáo viên nắm vững nội dung kiến thức, vận
dụng thành thạo kiến thức đến cho truyền thụ cho được kiến thức đó
đến học sinh, để họ nắm bắt và vận dụng được đòi hỏi ở ngưởi thầy sự
động não, sự dày công thực sự. Muốn như vậy thầy giáo phải lựa chọn
được phuơng pháp thích hợp ứng với từng giờ giảng và trong bài soạn
phải nêu được một cách cụ thể công việc của thầy và trò trong tiết học
cụ thể. Xác định đồ dùng dạy học và phương pháp sử dụng chúng.
D. Nội dung cơ bản của DHTH.
Các quan điểm trong nội dung trình bày trong dạy học
tích hợp
Có bốn quan điểm khác nhau trong việc liên kết, tích hợp các môn
học:
- Quan điểm trong “Nội bộ môn học". Theo quan điểm này chỉ tập
trung chủ yếu vào nội dung của môn học. Quan điểm này nhằm duy
trì các môn học liêng rẽ.
- Quan điểm “đa môn". Quan điểm này theo định hướng những tình
4



huống, những “đề tài", nội dung kiến thức nào đó được xem xét,
nghiên cứu theo những quan điểm khác nhau nghĩa là theo những
môn học khác nhau. Quan điểm này, những môn học tiếp tục tiếp cận
một cách liêng rẽ và chỉ gặp nhau ở một số thời điểm trong quá trình
nghiên cứu các đề tài. Như vậy, các môn học chưa thực sự được tích
hợp.
- Quan điểm “liên môn", trong đó chúng ta đề xuất những tình huống
chỉ có thể được tiếp cận một cách hợp lí qua sự soi sáng của nhiều
môn học. Ở đây chứng ta nhấn mạnh đến sự liên kết giữa các môn
học, làm cho chứng tích hợp với nhau đề giải quyết một tình huống
cho trước. Các quá trình học tập sẽ không được đề cập một cách rời rạc
mà phải liên kết với nhau xung quanh những vấn đề phải giải quyết.
- Quan điểm “xuyên môn", trong đó chúng ta chủ yếu phát triển
những kĩ năng mà học sinh có thể sử dụng trong tất cả các môn học,
trong tất cả các tình huống, chẳng hạn, nêu một giả thiết, đọc thông
tin, thông báo thông tin, giải một bài toán... Những kĩ năng này chúng
ta gọi là những kĩ năng xuyên môn, có thể lĩnh hội được những kĩ
năng này trong từng môn học hoặc nhân dịp có những hoạt động
chung cho nhiều môn học.
MODULE 18 : PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
CÂU HỎI: So sánh đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học ?
TRẢ LỜI:
So sánh đặc trưng của dạy học cổ truyền và dạy học mới như sau:
Dạy học cổ truyền
Quan niệm

Bản chất
Mục tiêu


Học là qúa trình tiếp thu
và lĩnh hội, qua đó hình
thành kiến thức, kĩ năng,
tư tưởng, tình cảm.
Truyền thụ tri thức, truyền
thụ và chứng minh chân lí
của giáo viên.
Chú trọng cung cấp tri
thức, kĩ năng, kĩ xảo. Học
để đối phó với thi cử. Sau
khi thi xong những điều

Các mô hình dạy học mới
Học là qúa trình kiến tạo; học
sinh tìm tòi, khám phá, phát hiện,
luyện tập, khai thác và xử lý
thông tin,… tự hình thành hiểu
biết, năng lực và phẩm chất.
Tổ chức hoạt động nhận thức cho
học sinh. Dạy học sinh cách tìm
ra chân lí.
Chú trọng hình thành các năng
lực (sáng tạo, hợp tác,…) dạy
phương pháp và kĩ thuật lao động
khoa học, dạy cách học. Học để
5


đã học thường bị bỏ quên

hoặc ít dùng đến.

Nội dung

Từ sách giáo khoa + giáo
viên

Phương pháp

Các phương pháp diễn
giảng, truyền thụ kiến thức
một chiều.

Hình thức tổ chức

Cố định: Giới hạn trong 4
bức tường của lớp học, giáo
viên đối diện với cả lớp.

đáp ứng những yêu cầu của cuộc
sống hiện tại và tương lai. Những
điều đã học cần thiết, bổ ích cho
bản thân học sinh và cho sự phát
triển xã hội.
Từ nhiều nguồn khác nhau: SGK,
GV, các tài liệu khoa học phù hợp,
thí nghiệm, bảng tàng, thực tế…:
gắn với:
- Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và
nhu cầu của HS.

- Tình huống thực tế, bối cảnh và
môi trường địa phương
- Những vấn đề học sinh quan
tâm.
Các phương pháp tìm tòi, điều tra,
giải quyết vấn đề; dạy học tương
tác.
Cơ động, linh hoạt: Học ở lớp, ở
phòng thí nghiệm, ở hiện trường,
trong thực tế…, học cá nhân, học
đôi bạn, học theo cả nhóm, cả lớp
đối diện với giáo viên.

MODULE 19 : DẠY HỌC VỚI CNTT
CÂU HỎI: Nêu khái quát ưu và nhược điểm khi soạn giáo án bằng
Powerpoint ? Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo một bài giảng bằng PPt đạt chất
lượng? Để tập trung sự chú ý của HS trong giờ dạy bằng PowerPoint cần chú ý
những vấn đề gì?
TRẢ LỜI:
a. Khái quát các ưu, nhược điểm của việc sử dụng bài giảng bằng PPt
* Phần mềm PPt có những ưu điểm cơ bản sau:


Các hiệu ứng, màu sắc, kiểu chữ..rất tiện lợi cho một xử lí một bài giảng
linh hoạt, hấp dẫn và sư phạm.



Khả năng sử dụng hiệu quả các hình ảnh, phim, các tư liệu dạy học nhanh
chóng và chất lượng.




Tiết kiệm nhiều thời gian viết, vẽ trên lớp
6




Thuận lợi cho việc sử dụng các PPDH tích cực.

* Những nhược điểm khi sử dụng phần mềm :


Tốn khá nhiều kinh phí để đào tạo GV sử dụng máy tính, cán bộ kĩ thuật
đảm bảo cho việc thực hiện của GV thông suốt, máy móc không bị hư
hỏng một cách vô lí và mua sắm máy móc trang bị cho các đơn vị giáo
dục.



Vấn đề kĩ thuật sử dụng máy tính, máy chiếu còn là một khó khăn chưa
thể vượt qua ở nhiều GV.



Nếu không có ý thức sử dụng PPt tốt thì các ưu thế của phần mềm này có
thể sẽ trở thành nhược điểm lớn và cơ bản: HS thích học vì mới lạ nhưng
tâm lí bị phân tán, không theo dõi được bài học, không ghi được nội dung
cơ bản của bài….


c. Các yêu cầu cơ bản để đảm bảo một bài giảng bằng PPt đạt chất lượng:
* Về nội dung trang trình chiếu
Cần:


Đủ nội dung cơ bản của bài học



Phải được mở rộng, cập nhật



Nhiều thông tin có ý nghĩa và được chọn lọc.



Trên các trang trình chiếu phải thể hiện được cả tính phương pháp.

Tránh:


Nội dung nghèo nàn, chỉ nhằm thay thế chiếc bảng đen



Quá nhiều thông tin làm HS bị “nhiễu”




Sai sót các loại lỗi chính tả, lỗi văn bản

* Về hình thức trang trình chiếu:
Cần:


Bố cục các trang trình chiếu sao cho HS dễ theo dõi, ghi được bài



Các trang trình chiếu phải mang tính thẩm mĩ để kích thích sự hứng thú
học tập,vừa giáo dục được HS



Cỡ chữ phù hợp với số lượng người học, quá lớn thì loãng thông tin, quá
nhỏ thì người cuối lớp không nhìn thấy. Thông thường dùng cỡ chữ 24
hoặc 28 là vừa.



Cố gắng tận dụng kĩ thuật trong phần mềm (nhưng không cần thiết cầu
kì) để thể hiện tính sư phạm của bài giảng

Tránh:
7





Lạm dụng các hiệu ứng (effect) tới mức không cần thiết



Lạm dụng màu và dùng các màu chõi nhau trên cùng một trang (xem
mục 3.1).

d. Để tập trung sự chú ý của HS trong giờ dạy bằng PowerPoint:
* Thông thường, trong một giờ giảng, người nghe sẽ khá tập trung chú ý ở thời
điểm bắt đầu. Tuy nhiên, sự tập trung ấy sẽ giảm dần rất nhanh. Vào cuối bài
bài giảng, nếu chúng ta cho HS biết rằng bài học sắp kết thúc, họ sẽ chú ý trở
lại, trong khi nội dung chính của bài giảng lại nằm ở khoảng “giữa”. Vậy làm
thế nào để thu hút sự chú ý của người nghe trong suốt quá trình bài giảng? Bản
thân các trang trình chiếu bằng PPt (nếu soạn hợp lí) đã có một sức hút lớn đối
với học sinh. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng tính ưu việt đó thì đôi khi bài giảng
sẽ có tác dụng ngược. Đó là tư tưởng chính của chúng tôi trong bài này. Nghệ
thuật sư phạm của người thiết kế bài giảng PPt sẽ có một sức hút riêng đối với
HS trong giờ học. Có một số thủ thuật cần thiết cho việc thiết kế bài giảng bằng
PPt như sau:
* Nội dung
- Thay vì mở đầu bằng lời (kể chuyện dẫn dắt, ra một bài tập nhỏ..) ta kèm theo
đó là một trang hình phù hợp với nội dung nói, thậm chí có thể là một đoạn
trích, một câu hỏi thảo luận đầu giờ, một hình ảnh có ý nghĩa, một đoạn phim…
- Hãy dành một trang nêu tên bài học (sau mở đầu) cùng các đề mục (dàn bài)
và cũng nên giới thiệu sơ qua các phần đó đề cập đến vấn đề gì, HS sẽ dễ dàng
có một tổng quan về bài giảng, gây tâm lí chờ đợi những thông tin thú vị phía
sau.
- Mỗi nội dung nhỏ (mục) cần có “điểm nhấn” hấp dẫn: một câu chuyện để
chuyển tiếp giữa các mục, hình ảnh, một đoạn phim, một nhiệm vụ học tập cho

hS làm nhanh, một câu trích dẫn có ý nghĩa, có thể pha một ít tính hài hước …
để lôi kéo người nghe trở về bài giảng, đôi khi có ai đó bị mất tập trung.
- Hãy giữ liên tục nội dung bài giảng (phần dành cho HS ghi) từ trang này sang
trang khác như một chiếc “bảng kéo”. Muốn làm điều này, cần chú ý:


Hãy sử dụng cỡ chữ, kiểu chữ, màu chữ thống nhất theo từng loại đề mục
của bài học. Cỡ chữ ghi nội dung cụ thể nhỏ hơn các đề mục. Sự thống
nhất này phải giữ từ đầu đến cuối bài giảng, cho dù nội dung bài học phải
chuyển sang trang tiếp.
8




Cố gắng sắp xếp nội dung một hoặc một số mục nằm gọn trong trang, trừ
trường hợp bất khả kháng.



Mọi nội dung khác không nhằm cho HS ghi hoặc vẽ theo, chỉ dùng tạm
thời để mở rộng hoặc làm “điểm nhấn” cho bài giảng (chuyển tiếp giữa
các mục, minh họa hình ảnh, câu hỏi thảo luận, nhiệm vụ khám phá..)
đều phải dùng kĩ thuật “chèn”các ô cửa sổ có hình hoặc chữ, sử dụng
xong thoát ra, không lưu lại (dùng các hiệu ứng xuất hiện rồi biến mất),
hoặc dùng thuật Hyperlink (trong Insert)…, sao cho tồn tại từ trang đầu
đến trang cuối vẫn là nội dung chính của bài giảng.

Những công việc trên còn phải được kết hợp linh hoạt với nghệ thuật trình bày
của GV.

MODULE 23 : KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC
SINH
Câu hỏi: yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo về đổi mới
công tác kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ
năng của môn học?
Trả lời:
- Giáo viên đánh giá đúng trình độ học sinh với thái độ khách quan, công
minh và hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá năng lực của mình;
- Trong quá trình dạy học, cần kết hợp một cách hợp lí hình thức tự luận
với hình thức trắc nghiệm khách quan trong kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh, chuẩn bị tốt cho việc đổi mới các kì thi theo chủ
trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Thực hiện đúng quy định của quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung
học cơ sở, học sinh trung học phổ thông do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành,
tiến hành đủ số lần kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì cả
lí thuyết và thực hành
- Điểm kiểm tra thực hành điểm hệ số 1, giáo viên căn cứ vào quy
trình thí nghiệm một bài thực hành (được thống nhất trước trong
toàn tỉnh) theo hướng dẫn, rồi thu và chấm lấy điểm thực hành.
- Các bài kiểm tra định kì (kiểm tra 1 tiết kiểm tra học kì và kiểm tra cuổi
năm học) cần được biên soạn trên cơ sở thiết kế ma trận cho mỗi đề.
- Bài kiểm tra 45 phút nên thực hiện ở cả hai hình thức: trắc nghiệm khách
quan và tự luận. Bài kiểm tra cuổi học kì nên tiến hành dưới hình thức 100% tự
luận. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần phải luyện tập cho học sinh thích
ứng với cấu trúc đề thi và hình thức thi tốt nghiệp phổ thông mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo tổ chức hằng năm.
9


* Định hướng chỉ đạo về đổi mới kiểm tra, đánh giá

- Phải có sự hướng dẫn, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp quản lí giáo dục
- Phải có sự hỗ trợ của đồng nghiệp, nhất là giáo viên cùng bộ môn
* Cần lấy ý kiến xây dựng của học sinh để hoàn thiện phương pháp dạy học
và kiểm tra, đánh giá:
- Đổi mới kiểm tra, đánh giá phải đồng bộ với các khâu liên quan và nâng
cao các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy học
* Phát huy vai trò thúc đẩy của đổi mới kiểm tra, đánh giá đổi với
đổi mới phương pháp dạy học
- Phải đưa nội dung chỉ đạo đổi mới kiểm tra, đánh giá gắn với các
phong trào khác trong nhà trường:
Định hướng và yêu cầu chung về đổi mới đánh giá trong chương
trình giáo dục phổ thông
- Đánh giá kết quả giáo dục của học sinh ở các môn học và hoạt động giáo
dục trong mọi lớp và cuối cấp học nhằm xác định mức độ đạt đuợc mục tiêu
giáo dục phổ thông, làm căn cứ để điều chỉnh quá trình giáo dục, góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, động viên, khuyến khích học sinh
chăm học và tự tin trong học tập.
- Đổi mới đánh giá phải gắn với việc thực hiện cuộc vận động “Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" và gắn với phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực".

Thực hiện đúng quy định của quy chế đánh giá, xếp loại học sinh; đảm
bảo tính khách quan, chính xác, công bằng.
- Phải đảm bảo sự cân đối các yêu cầu kiểm tra về kiến thức (nhớ, hiểu,
vận dụng), rèn luyện kĩ năng và yêu cầu về thái độ với học sinh và hướng dẫn
học sinh biết tự đánh giá kết quả học tập, rèn luyện năng lực tự học và tư duy
dộc lập.
-

10



11



×