Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA VÌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ 1991 ĐẾN 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------

ĐINH THỊ HÀ YẾN

KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA VÌ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI TỪ 1991 ĐẾN 2015
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ

HÀ NỘI - 2016
1


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành
cảm ơn thầy giáo – GS.TS Nguyễn Ngọc Cơ, người thầy đã tận tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện bản luận văn này. Thầy đã
có những góp ý, chỉ dẫn, chỉnh sửa cụ thể đối với luận văn và luôn động viên
để tôi có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong khoa lịch sử, đặc
biệt là các thầy cô của bộ môn Lịch sử Việt Nam, trường đại học sư phạm Hà
Nội đã hết sức nhiệt tình trong quá trình giảng dạy, giúp tôi nâng cao kiến
thức cũng như những ý kiến, tư liệu quý giá phục vụ trực tiếp cho quá trình
hoàn thiện luận văn.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới UBND huyện Ba


Vì, phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Ba Vì, phòng thống kê
huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội đã cung cấp tư liệu, tạo điều kiện thuận lợi
nhất để tôi hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do hạn chế về thời gian và trình độ.
Luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Mong nhận được sự góp ý của các
thầy cô và đồng nghiệp.

2


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG

3


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

4

CN - TTCN

: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp

CNH - HĐH

: Công nghiệp hóa- hiện đại hóa

CNXH


: Chủ nghĩa xã hội

HTX

: Hợp tác xã

KH

: Kế hoạch

NN&PTNT

: Nông nghiệp và phát triển nông thôn

UBND

: Ủy ban nhân dân


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế mỗi
nước, đặc biệt là trong các thế kỷ trước đây khi công nghiệp chưa phát triển
và nông nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Nông nghiệp không chỉ
đóng vai trò sản xuất lương thực thực, thực phẩm mà còn cung cấp nguyên
liệu cho ngành công nghiệp. Không chỉ tác động tới nhiều ngành kinh tế khác
mà nông nghiệp còn tác động không nhỏ tới đời sống xã hội của con người
trên nhiều phương diện khác nhau. Mặc dù trong cơ cấu kinh tế của thời đại
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp không còn chiếm tỉ trọng cao tuy

nhiên tầm quan trọng của nông nghiệp đối với đời sống kinh tế xã hội của con
người thì không hề suy giảm.
Ở Việt Nam, nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng đóng góp tỉ trọng
cao trong ngành kinh tế, góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia đồng
thời cũng góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt
Nam là quốc gia có lịch sử hình thành, cũng như phát triển gắn liền với lịch
sử hình thành và phát triển của ngành nông nghiệp. Chính bởi vậy, trong
nhiều thế kỉ hình thành, phát triển, nông nghiệp vẫn được đánh giá là nền kinh
tế chủ đạo của nước ta. Chính vì vai trò quan trọng của kinh tế nông nghiệp
nên nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp vẫn là nhiệm vụ trước mắt và lâu
dài của nền kinh tế nước ta, góp phần xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho sự
phát triển đi lên của đất nước. Nghiên cứu sự phát triển của ngành nông
nghiệp là góp phần hoàn thiện bức tranh kinh tế của đất nước trong thời kì
xây dựng, phát triển.
Ba Vì là một vùng đất bán sơn địa nằm ở phía Tây của thành phố Hà
Nội. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi Ba Vì được đánh giá là
mảnh đất có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế nông nghiệp. Trong
5


những thập niên thực hiện đổi mới, cùng với những chính sách của Đảng, nhà
nước về nông nghiệp, nông thôn, tỉnh Hà Tây cũ và thành phố Hà Nội đã có
nhiều chủ trương, chính sách và các biện pháp tác động thúc đẩy nền kinh tế
nông nghiệp của huyện Ba Vì.
Về lý luận: Nghiên cứu sự phát triển của nền nông nghiệp huyện Ba Vì
nói riêng góp phần vào việc hoàn thiện bức tranh kinh tế của Huyện và cũng
góp phần tìm hiểu những chủ trương, đường lối trong phát triển kinh tế nông
nghiệp của nước ta.
Về thực tiễn: Nghiên cứu vấn đề giúp chúng ta làm sáng tỏ một giai
đoạn phát triển của kinh tế huyện Ba Vì trong công cuộc đổi mới, đặc biệt là

trong lĩnh vực nông nghiệp. nghiên cứu vấn đề cũng cung cấp nguồn tư liệu
phục vụ công tác giảng dạy lịch sử địa phương.
Chính vì vậy, trong đề tài luận văn của mình tôi muốn lựa chọn đề tài
“Kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì thành phố Hà Nội từ 1991 đến 2015”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Trong những đề tài được quan tâm của nhiều học giả, nhà nghiến cứu,
đề tài kinh tế nông nghiệp cũng là đề tài được rất nhiều người quan tâm, đi
sâu vào nghiên cứu. Chính vì vậy, có rất nhiều công trình, bài viết đề cập tới
kinh tế nông nghiệp như:
Trong tác phẩm “ Nông nghiệp Việt Nam trong bước chuyển sang kinh
tế thị trường” của tác giả Hà Vinh in năm 1997, NXB khoa học xã hội, đã
trình bày tình hình nông nghiệp nước ta trong quá trình chuyển sang kinh tế
thị trường.
Trong luận văn thạc sĩ lịch sử chuyên ngành lịch sử Việt Nam của luận
văn của tác giả Hoàng Thị Ngân với đề tài “Chuyển biến kinh tế nông nghiệp
Thái Bình thời kì đổi mới (1986 đến 2005)” bảo vệ năm 2006 và luận văn của
tác giả Nguyễn Thị Định với tên gọi “Kinh tế nông nghiệp huyện Yên Lạc,
6


tỉnh Vĩnh Phúc từ 1998 đến 2012” bảo vệ năm 2013 tại Đại học sư phạm Hà
Nội là những công trình sử học nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp của tỉnh
Thái Bình và Huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Đây là những đề tài nghiên
cứu lịch sử địa phương nên chỉ khuôn lại trong phạm vi địa phương mà tác
giả thực hiện. Tuy vậy những đề tài này đã góp phần làm sáng tỏ những chủ
trương, chính sách của Đảng và nhà nước trong phát triển kinh tế nông nghiệp
nước ta.
Trong phạm vi địa phương đã có nhiều công trình nghiên cứu được
xuất bản thành sách như lịch sử cách mạng huyện Ba Vì tập I, II, III có đề cập
đến những chủ trương, chính sách chung của Huyện về phát triển kinh tế nói

chung và bao gồm kinh tế nông nghiệp nói riêng, đồng thời đã chỉ ra những
thành tựu nhất định đã đạt được trong lĩnh vực nông nghiệp của địa phương.
Đây là nguồn tài liệu quan trọng, giúp tôi có thể kế thừa trong quá trình thực
hiện luận văn của mình.
Trong cuốn “Ba Vì tiềm năng và triển vọng” được xuất bản năm 2008
do công ty văn hóa trí tuệ Việt xuất bản đã đề cập đến tiềm năng của vùng đất
Ba Vì trong nhiều ngành kinh tế, trong đó có đề cập đến tiềm năng trong phát
triển nông nghiệp. Đặc biệt, cuốn sách còn đề cập tới, tiềm năng thế mạnh của
từng xã trong huyện Ba Vì.
Bên cạnh đó còn một số công trình được công bố, đăng tải trên các báo,
tạp chí như Hà Nội mới, nhân dân… cũng ít nhiều đề cập đến vấn đề nông
nghiệp nông thôn nói chung, thực trạng phát triển của kinh tế nông nghiệp
huyện Ba Vì nói riêng. Tuy nhiên những công trình, những bài viết này mới
chỉ dừng lại ở vấn đề lý luận, vấn đề chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp nông thôn mà chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên
biệt về kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Do vậy, đề tài
“kinh tế nông nghiệp ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội từ năm 1991 đến
7


2015” là sự tiếp thu kết quả từ những người đi trước, đồng thời đi vào nghiên
cứu cụ thể quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì trong thời
gian qua. Công trình góp phần làm rõ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
nhất là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện
với những đặc điểm riêng, những hoàn cảnh, điều kiện cụ thể.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
- Góp phần tìm quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì từ
1991 đến 2015.
- Phân tích kết quả sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Huyện Ba Vì

từ 1991 đến 2015.
- Đánh giá những tác động của kinh tế nông nghiệp tới kinh tế- xã hội
của huyện Ba Vì
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Thứ nhất, nghiên cứu, làm rõ quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp
từ 1991 đến 2015 của huyện Ba Vì.
- Thứ hai,Thu thập, thống kê các số liệu, tài liệu nhằm phân tích, sử lý
số liệu liên quan đến kinh tế nông nghiệp Huyện Ba Vì.
- Thứ ba, là rõ những thành tựu, vấn đề còn tồn tại trong quá trình phát
triển kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Vì, từ đó rút ra những nguyên nhân
thành công và chưa thành công trong việc lãnh đạo của Đảng Bộ, chính quyền
huyện Ba Vì.
- Thứ tư, xử lí, phân tích số liệu và viết bài hoàn chỉnh. Cung cấp một
số sự tổng kết bước đầu về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp huyện
Ba Vì trong thời kì đổi mới.

8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu của luận văn.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn sự phát triển của kinh tế nông nghiệp
huyện Ba Vì bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư nghiệp
nông dân và nông thôn. Nhưng với dung lượng vừa phải của một luận văn tác
giả chỉ đề cập đến những chủ trương, quá trình thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng trong phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Ba Vì.
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu sự phát triển kinh tế nông nghiệp
trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp của huyện Ba Vì từ
năm 1991- 2015. Mốc năm 1991 được lựa chọn là năm huyện Ba Vì dưới sự

lãnh đạo của tỉnh Hà Tây cũ.
- Về không gian: luận văn chọn phạm vi không gian nghiên cứu là địa
bàn huyện Ba Vì thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu.
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm phương pháp luận sử học Mácxít,
đảm bảo tính đúng đắn, khoa học, tình logic, tính hệ thống trong nghiên cứu
lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài công trình đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng là phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp logic làm tái hiện bức tranh kinh tế nông nghiệp
của tỉnh thời kì đổi mới.
- Luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, phân
tích tổng hợp và phương pháp điền dã.
9


5.3. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn này, ngoài việc khảo sát thực tế tác giả khai
thác một số nguồn tư liệu sau:
- Các văn kiện của Đảng: Văn kiện đại hội Đại Biểu Đảng toàn quốc
lần thứ V, VI, VII, VIII, IX, X, XI văn kiện các hội nghị trung ương, các tài
liệu có liên quan tới nội dung đề tài.
- Tài liệu lưu trữ của tỉnh Hà Tây cũ nay là thành phố Hà Nội,Huyện
Ba Vì: các văn kiện đại hội đảng bộ, ủy ban nhân dân huyện, các bản báo cáo
kinh tế- xã hội hàng năm, các nghị quyết, các văn bản, chỉ thị của tỉnh ủy,
thành ủy, các xã, thị trấn, địa bàn trong huyện. Đây được coi là nguồn sử liệu
gốc để tác giả hoàn thành công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp huyện

Ba Vì từ 1991 đến 2015.
Để hoàn thành luận văn tác giả cũng sử dụng nguồn tư liệu thu thập
được từ quá trình điền dã, khảo sát thực tiễn phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện Ba Vì trong thời gian qua.
6. Đóng góp của đề tài
- Về nội dung, đề tài đã dựng được bức tranh khái quát về những thành
tựu đã đạt được của kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì.
- Về phương pháp nghiên cứu: luận văn đã kết hợp phương pháp
nghiên cứu lịch sử, logic, biện chứng và các phương pháp cụ thể khác để đề
tài mang tính khách quan, khoa học.
- Trên cơ sở nghiên cứu luận văn đã rút ra những nhận xét, đánh giá,
kiến nghị nhằm khai thác những tiềm năng thế mạnh trong việc xây dựng,
phát triển huyện Ba Vì.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dung làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu lịch sử Huyện Ba Vì trong thời kì đổi mới và làm tài liệu
giảng dạy lịch sử địa phương.
10


7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, công
trình được bố cục thành 3 chương:
Chương 1: Các yếu tố tác động tới nông nghiệp và tình hình kinh tế
nông nghiệp huyện Ba Vì trước năm 1991.
Chương 2:Sự chuyển biến kinh tế nông nghiệp huyện Ba Vì từ 1991
đến 2015
Chương 3: Tác động của kinh tế nông nghiệp tới kinh tế- xã hội huyện
Ba Vì.

11



NỘI DUNG
Chương 1. CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NÔNG NGHIỆP VÀ TÌNH
HÌNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP HUYỆN BA VÌ TRƯỚC NĂM 1991
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1.Vị trí địa lý
Ba Vì là huyện thuộc vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc của thành
phố Hà Nội, là huyện lớn nhất của thành phố Hà Nội. Ba Vì có diện tích tự
nhiên 424,0 km2. Phía Bắc giáp thành phố Việt Trì của tỉnh Phú Thọ, ranh
giới là con sông Hồng. Phía Nam giáp các huyện Lương Sơn và Kỳ Sơn của
tỉnh Hoà Bình. Phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ, ranh giới là con sông Đà. Phía
Đông Bắc giáp sông Hồng, ngăn cách với tỉnh Vĩnh Phúc. Phía Đông Nam
giáp thị xã Sơn Tây và một phần nhỏ của huyện Thạch Thất. Ba Vì được xác
định là huyện có vị trí đặc biệt, có nhiều tiềm năng trong việc cung cấp sản
phẩm nông nghiệp, phát triển các loại hình du lịch sinh đa dạng, phong phú và
bảo vệ môi trường sinh thái xanh, sạch, đẹp cho thủ đô Hà Nội.
Địa chất ở Ba Vì được đánh giá là rất bền vững, được hình thành từ
những cuộc chuyển động kiến tạo xảy ra vào cuối Triat muộn (khoảng 210
triệu năm về trước) trong khu vực Đông Dương và Trung Quốc, hình thành từ
những cuộc vận động tạo sơn Idosinias.
Theo các tài liệu nghiện cứu về khảo cổ học thì nơi đây đã phát hiện rất
nhiều các hiện vật bằng đá như rìu, bàn mài, chì lưới, mũi nhọn, bàn dập, hòn
kè, giáo, đục, mũi tên, đồ trang sức và nhiều các hiện vật là đồ đồng, đồ gốm
có niên đại từ thời văn hóa Sơn Vi. Văn hóa Sơn Vi là một nền văn hóa ở Việt
Nam vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 18 ngàn đến 11 ngàn năm.
tồn tại qua bốn giai đoạn văn hóa kế tiếp nhau từ thời Phùng Nguyên, Đồng
Đậu, Gò Mun, đến Đông Sơn cách ngày nay hang nghìn năm. Điều đó chứng
tỏ thiên nhiên, mảnh đất Ba Vì được ưu đãi về mặt khí hậu, đất đai, nguồn
nước nên sớm được con người khai phá và có lịch sử văn hóa lâu đời.

12


Huyện Ba Vì được thành lập trên địa bàn các huyện cũ Bất Bạt, Tùng
Thiện và Quảng Oai của tỉnh Sơn Tây. Thời kỳ 1975 - 1978, huyện thuộc tỉnh
Hà Sơn Bình. Từ năm 1978 đến năm 1991 thuộc thành phố Hà Nội. năm 1991
sau nghị quyết về chuyển đổi địa giới hành chính của một số tỉnh, thành phố Ba
Vì thuộc tỉnh Hà Tây.Từ tháng 8/2008 lại thuộc về thành phố Hà Nội. Như vậy,
sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính, đến tháng 8 năm 2008 huyện Ba Vì
lại chính thức dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của thành phố Hà Nội sau quyết định
mở rộng địa giới hành chính thủ đô. Với việc trở thành một huyện của thành
phố Ba Vì có được lợi thế là sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của ủy ban nhân
dân thành phố Hà Nội- và là một bộ phận của thủ đô ngàn năm văn hiến.
Lợi thế về vị trí địa lý mang lại giá trị và hiệu quả cụ thể: Thứ nhất, đó
là sự thuận lợi về luân chuyển, trao đổi hàng hóa, vật tư. Thứ hai, đó là Huyện
Ba Vì có được thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp rất rộng lớn, đa dạng
đặc biệt là thị trường khu vực trung tâm thành phố Hà Nội với số lượng dân
cư đông đúc và lượng tiêu thụ hàng hóa cũng như các sản phẩm từ nông
nghiệp rất lớn. Thứ ba, đó là huyện Ba Vì có thể dễ dàng trao đổi cũng như
tiếp thu nhanh tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất cũng như vấn
đề đào tạo nguồn lao động. Đó là những lợi thế khách quan và chủ quan mà vị
trí địa lý huyện mang lại, từ đó là cơ sở, tiền đề cho sự phát triển của nông
nghiệp Ba Vì.
1.1.2.

Địa hình, thổ nhưỡng
Địa hình huyện Ba Vì được chia ra làm ba vùng rõ rệt: vùng núi, vùng
đồi gò, vùng đồng bằng ven sông. Vùng núi chiếm 47,5% diện tích, có các núi
cao trên 700m, trong đó cao nhất là Tản Viên cao 1.296m. Như vậy có thể
thấy địa hình huyện Ba Vì chủ yếu là đồi gò. Hướng dốc tập trung từ hai phía

Tây và Đông đổ vào giữa. Toàn Bộ khu vực Ba Vì là hình lòng chảo kéo dài
từ Bắc vào Nam. Hướng dốc từ đỉnh núi Ba Vì đổ xuống sông Hồng.Vùng
13


đồng bằng lại được bao bọc và bồi đắp bởi hai con sông là sông Hồng và sông
Đà nên đất đai rất phì nhiêu, màu mỡ. Địa hình và thổ nhưỡng phong phú, đa
dạng, vừa có khu vực đồng bằng, vừa có khu vực đồi núi xen kẽ, điều này góp
phần tạo nên một nền kinh tế nông nghiệp đa dạng thích hợp với nhiều loại
cây trồng, vật nuôi.
1.1.3.

Khí hậu
Về khí hậu, Ba Vì nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh
hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Các yếu tố khí tượng trung bình nhiều năm
ở trạm khí tượng Ba Vì cho thấy: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào
tháng 10 với nhiệt độ trung bình 23 độ C, tháng 6 và tháng 7 có nhiệt độ trung
bình cao nhất là 28,6 độ C. Tổng lượng mưa là 1832,2mm (chiếm 90,87%
lượng mưa cả năm). Lượng mưa các tháng đều vượt trên 100 mm với 104
ngày mưa và tháng mưa lớn nhất là tháng 8 (339,6mm). Mùa khô bắt đầu từ
tháng 11 và kết thúc vào tháng 3 với nhiệt độ xấp xỉ 20 độ C, tháng 1 có nhiệt
độ thấp nhất 15,8 độ C; Lượng mưa các tháng biến động từ 15,0 đến 64,4mm
và tháng mưa ít nhất là tháng 12 chỉ đạt 15mm.
Nhìn chung khí hậu Ba Vì được đánh giá là đa dạng, phong phú, phù
hợp với nhiều loại cây trồng vật nuôi. Tuy nhiên những khó khăn về mặt khí
hậu ở Ba Vì đó là có thể có sương muối vào mùa đông ảnh hưởng tới khả
năng sinh trưởng, phát triển của cây trồng và vật nuôi, thêm vào đó vào mùa
khô có thể xảy ra hạn hán- đây là yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất của người
dân đặt biệt là đối với sản xuất nông nghiệp.
1.1.4.Thủy văn

Địa bàn huyện có hệ thông sông hồ khá dày đặc, phân bố ở những nơi
có dạng địa hình thấp, khả năng cung cấp nước tương đối chủ động. Huyện có
hai hồ rất lớn là hồ Suối Hai và hồ Đồng Mô. Ở ranh giới của huyện với tỉnh
Phú Thọ có hai ngã ba sông là: ngã ba Trung Hà giữa sông Đà và sông Hồng
14


(tại xã Phong Vân) và ngã ba Bạch Hạc giữa sông Hồng và sông Lô (tại các
xã Tản Hồng và Phú Cường, đối diện với thành phố Việt Trì). Hệ thống sông
suối trong khu vực chủ yếu bắt nguồn từ thượng nguồn núi Ba Vì. Các suối
lớn và dòng nhánh chảy theo hướng Bắc, Đông Bắc và đều phụ lưu của sông
Hồng. Ở phía Tây của khu vực, các suối ngắn và dốc hơn so với các suối ở
phía Bắc và phía Đông, đều là phụ lưu của sông Đà. Các suối này thường gây
lũ và mùa mưa. Về mùa khô các suối nhỏ thường cạn kiệt. Các suối chính
trong khu vực gồm có: Suối Cái, suối Mít, suối Ninh, suối Yên Cư, suối
Bơn… với nguồn thủy văn phong phú, Ba Vì có được thuận lợi trong phát
triển ngành nông nghiệp trong đó đặc biệt phải kể đến nông nghiệp trồng lúa
nước và nuôi trồng thủy sản.
1.1.5.Tài Nguyên thiên nhiên
* Đất Đai.
Huyện Ba Vì có rất nhiều nhóm đất khác nhau, trong đó theo báo cáo
thuyết minh bản đồ đất, cho thấy đất đai huyện Ba Vì gồm 6 nhóm: Nhóm
cồn cát ven sông với diện tích 353,51ha chiếm 0.83% diện tích tự nhiên,
nhóm đất phù sa với diện tích 6.964,23 ha, chiếm 16,42% tổng diện tích đất tự
nhiên của toàn huyện, nhóm đất xám, bạc màu chia thành hai loại là đất xám
trên phù sa cổ có diện tích 155,21 ha chiếm 0,37% diện tích tự nhiên và đất
xám glây trên phù sa cổ có diện tích 3114,15 ha chiếm 7,41 % diện tích tự
nhiên, nhóm đất đỏ vàng chiếm 16112,20 ha chiếm 38% tổng diện tích đất
toàn huyện, nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi với diện tích , chiếm 0.41% diện
tích tự nhiên, nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ với diện tích 1430.04

ha chiếm 3.37 diện tích tự nhiên.
Như vậy có thể thấy đất đai ở Ba Vì khá đa dạng với nhiều nhóm đất
khác nhau song chủ yếu là đất phù sa và đất đỏ vàng. Với cả hai nhóm đất này
Ba Vì có nhiều điều kiện thuận lợi trong phát triển kinh tế nông nghiệp.
15




Tài nguyên khoáng sản.
Do lịch sử địa chất lâu dài, khu vực núi Ba Vì có nhiều loại khoáng sản
như vàng, đồng, amiăng, đá vôi, pyrite... Tuy nhiên chúng lại không tập trung
thành mỏ mà phân bố một cách rải rác. Một số công ty ngay sau khi trúng
thầu các dự án đầu tư khu vực này đã lợi dụng việc xây dựng để đào đãi vàng,
khai thác khoáng sản trái phép. Dẫn đến nhiều ảnh hưởng tiêu cực như hoạt
động khai thác amiăng ở xóm Quýt, mỏ pyrite ở xã Minh Quang, Ba Trại,
khai thác vàng ở Đồng Xô, đá vôi ở Núi Chẽ và dự án xây đập Đồng Xô… đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sinh thái.

-

Tài nguyên nước.
Ba Vì là huyện có sông Hồng, Sông Đà, sông Lô chảy qua, sông rộng
cùng với hệ suối khá dày như suối ổi, suối Ca, suối Mít, suối Xoan… thường
xuyên cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt của người dân. Bên cạnh còn
có các hồ chứa nước nhân tạo như hồ suối Hai, hồ Đồng Mô, hồ Hóoc cua và
các hồ chứa nước khác vừa có nhiệm vụ dự trữ nước cung cấp cho hàng chục
ngàn ha đất sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt cho dân. Đồng thời, tạo nên
không gian thắng cảnh tuyệt đẹp, phục vụ nhu cầu nghỉ ngơi vãn cảnh cho du
khách. Nguồn nước ngầm trong khu vực tương đối dồi dào, ở sườn Đông

cũng dồi dào hơn bên sườn Tây do lượng mưa lớn hơn và địa hình đỡ dốc
hơn. Bên cạnh đó nguồn nước khoáng nóng tại khu vực xã Thuần Mĩ với
nhiệt độ nước cao, nhiều khoáng chất cũng là điều kiện phát triển ngành du
lịch nghỉ dưỡng.



Tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn.
-Tài nguyên du lịch nhân văn: Ba Vì vốn là mảnh đất giàu truyền thống
văn hóa cho nên có rất nhiều di tích lịch sử văn hóa nhân văn. Đến năm 2010,
Ba Vì có 63 di tích lịch sử văn hoá được xếp hạng, được phân bố đều khắp ở
16


cả 3 vùng trong huyện. Những di tích lịch sử ở mảnh đất Ba Vì phần lớn có
kiến trúc độc đáo gắn liền với tên tuổi các vị anh hùng của dân tộc, danh nhân
văn hoá như: đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh trên đỉnh núi Ba Vì, khu di tích
K9. Nhiều di tích có tầm cỡ quốc gia như: Đình Tây Đằng, Đình Chu Quyến
là 2 di tích được xếp hạng đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, Đình Thụy Phiêu
được các nhà khoa học đánh giá là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt
Nam có niên đại 1531- thời Nhà Mạc.
- Tài nguyên du lịch tự nhiên: được thiên nhiên ưu đãi, vùng đất Ba Vì
có hệ sinh thái phong phú, thảm thực vật đa dạng, nơi đây được coi là "lá phổi
xanh" phía Tây thủ đô Hà Nội. Ba Vì là điểm đến của đông đảo khách du lịch
không chỉ trong nước mà còn cả khách du lịch nước ngoài.Vườn Quốc gia Ba
Vì không chỉ có thảm động thực vật phong phú và đa dạng mà còn có nhiều di
tích lịch sử thời Pháp thuộc như: nhà thờ cổ, sân bay, nhà tù, khu cắm trại của
người Pháp…vv. Vốn được thiên nhiên ưu đãi Ba Vì còn có rất nhiều cảnh
quan thiên nhiên tươi đẹp như: Núi, rừng, thác, suối, Sông, Hồ cùng với các
khu du lịch sinh thái nổi tiếng như: Ao Vua, Khoang Xanh - Suối Tiên, Hồ

Tiên Sa, Thiên Sơn - Suối Ngà, Khu du lịch Tản Đà, Thác Đa, Hồ Suối Hai,
Hồ Cẩm Quỳ, Rừng nguyên sinh Bằng Tạ - Đầm Long, Đồi cò Ngọc Nhị...
bên cạnh đó, nơi có nhiều trang trại đồng quê, nhiều sản phẩm nông nghiệp
phong phú tạo nên hình thức du lịch nông trại mới lạ và hấp dẫn. Thêm vào
đó nguồn nước khoáng nóng thiên nhiên tại Thuần Mỹ là điều kiện rất thuận
lợi cho phát triển du lịch nghỉ dưỡng.
Như vậy, điều kiện tự nhiên huyện Ba Vì có những lợi thế sau:
- Tài nguyên đất đai khá đa dạng bao gồm hai nhóm đất chính là đất
phù sa và đất đỏ vàng thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp. Thêm vào
đó Ba Vì cũng là huyện có diện tích tự nhiên lớn nhất của thành phố Hà Nội,
là lá phổi xanh của thủ đô.
17


Mạng lưới sông ngòi và nguồn nước phong phú từ các hồ, suối là
nguồn nước dồi dào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đặc biệt là nông
nghiệp trồng lúa nước và nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên điều kiện tự nhiên huyện Ba Vì cũng có một số hạn chế nhất
định sau:
- Địa hình đồi núi chiếm diện tích khá lớn khó tập trung sản xuất quy
mô lớn, đất đai khu vực đồi núi khó canh tác.
- Chịu ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt là sương muối vào mùa đông,
điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp.
Như vậy, với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của
khu vực bán sơn địa, Ba Vì là mảnh đất có điều kiện để phát triển kinh tế
nông nghiệp một cách đa dạng, phong phú cả về cây trồng lẫn vật nuôi. Việc
phát triển kinh tế nông nghiệp đối với Ba Vì không chỉ có tầm ý nghĩa quan
trọng đối với cơ cấu kinh tế của huyện mà nó còn có vai trò, ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo lương thực, thực phẩm cung cấp cho địa bàn thành
phố Hà Nội và các tỉnh lân cận.

1.2. Đặc điểm kinh tế- xã hội
1.2.1. Đặc điểm kinh tế
Trong bản đánh giá kết quả 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ
huyện Ba Vì lần thứ XXI, nhiệm kì 2010-2015 có khẳng định “ tổng giá trị
tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản đến năm 2015 đạt 3.007 tỷ
đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 10,3%/ năm; trong đó giá trị ngành
trồng trọt chiếm 48%, chăn nuôi chiếm 52% cơ cấu nội bộ ngành. Sản lượng
lương thực cây có hạt đạt 99.800 tấn; hệ số sử dụng đất đạt 2,5 lần. giá trị
thu nhập đạt 105 triệu đồng/ ha canh tác. Mở rộng diện tích cây chè và cây
ăn quả, phù hợp với điều kiện tự nhiên từng vùng. Đàn gia súc, gia cầm phát
triển mạnh về số lượng và chất lượng. Diện tích nuôi trồng thủy sản ổn định,
18


sản lượng vượt kế hoạch đề ra. Thực hiện tốt công tác trồng, chăn sóc, bảo vệ
tài nguyên rừng và phòng cháy chữa cháy trên địa bàn [6; 2-3].Theo dự báo
trong thời gian tới sự tăng trưởng của khu vực nông- lâm -ngư nghiệp sẽ dựa
chủ yếu vào chuyển đổi cơ cấu sản xuất và thâm canh, tăng năng suất. Mặc dù
tỉ trọng ngành nông, lâm, ngư nghiệp có xu hướng giảm nhưng tốc độ tăng
trưởng của ngành vẫn tăng cao.
Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển khá đều và liên tục,
tăng trưởng ở các ngành sản xuất. Tăng trưởng cả về số lượng, giá trị và chất
lượng sản phẩm, đã bước đầu chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hóa, có
sức cạnh tranh trên thị trường. Giá trị toàn ngành nông nghiệp (giá thực tế
năm 2010) bình quân tính trên 1 ha đất nông nghiệp là 141,2 triệu đồng
Căn cứ vào hiện trạng sản xuất nông nghiệp người ta chia các tiểu vùng
kinh tế với ba tiểu vùng chính đó là: Tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng bãi ven
sông, tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng gò đồi, tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng
núi cao. Trong đó tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng bãi ven sông có diện tích
10881 ha, chiếm 25,7% toàn huyện. Đây là vùng đất có địa hình khá bằng

phẳng bao gồm 14 xã và thị trấn: Thị trấn Tây Đằng, Thuần Mỹ, Sơn Đà,
Tòng Bạt, Phong Vân, Cổ Đô, Phú Cường, Tản Hồng, Châu SƠn, Phú
Phương, Phú Châu, Minh Châu, Chu Minh và Đông Quang. Các loại đất
chính là phù sa, đất xám glây trên phù sa cổ, một số diện tích đất cát ven sông
và đất đỏ vàng trên đá sét. Nhìn chung đây là loại đất tốt thích hợp với canh
tác cây trồng nông nghiệp cho năng suất và sản lượng cao: lúa, ngô, đỗ
tương… đây cũng được đánh giá là vùng kinh tế động lực của huyện.
Tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng gò đồi có diện tích 11578 ha chiếm
27,3% diện tích toàn huyện bao gồm 10 xã: Thái Hòa, Phú Sơn, Phú Đông,
Vạn Thắng, Đồng Thái, Vật Lại, Cẩm Lĩnh, Thụy An, Tiên phong và Cam
Thượng. Đây là vùng có nhiều loại đất tốt, thích hợp với canh tác cây nông
19


nghiệp chịu hạn và trông cây dài ngày có năng xuất và sản lượng cao như:
Ngô, đỗ tương, lạc, chè, cây ăn quả, phát triển chăn nuôi đại gia súc… Đây là
vùng đang được đầu tư phát triển do quỹ đất còn khá lớn và có thể thấy đây là
vùng kinh tế quan trọng thứ hai của huyện.
Tiểu vùng kinh tế sinh thái vùng núi cao có diện tích 1944 ha chiếm
47% diện tích toàn huyện. Đây là tiểu vùng có vườn quốc gia Ba Vì, quy mô
diện tích khoảng 10000ha, có điều kiện thuận lợi trong phát triển một số loại
cây trồng ôn đới và nhiệt đới, chăn nuôi đại gia súc, tuy nhiên đây là vùng
đệm, ít có điều kiện phát triển sản xuất nông nghiệp tập trung.
Nông nghiệp Ba Vì cũng như các ngành kinh tế các của huyện vẫn có
xu hướng nâng cao giá trị. Trong xu hướng phát triển kinh tế xã hội của
huyện thì nông nghiệp vẫn được chú trọng. Quy hoạch nông nghiệp đã xác
định vùng nông nghiệp ổn định, đồng thời cũng xác định các loại nông sản
chủ lực là: lúa, ngô, đỗ, lạc, rau, hoa, cây ăn quả, thịt lợn, thịt bò, bò sữa, gia
cầm và thủy sản.
1.2.2. Đặc điểm về xã hội

Nhân dân Ba Vì vốn bình dị, thông minh, hiếu học, cần cù, sáng tạo
trong lao động kiên cường, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm. Sau kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Ba Vì bắt
tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa
xã hội. Chính trong thời gian chiến tranh chống Mĩ ác liệt, ngày 26/7/1968,
Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng đã kí quyết định số 120- QĐ/CP hợp
nhất ba huyện Quảng Oai, Bất Bạt, Tùng Thiện thành huyện Ba Vì. Cũng từ
đó, với sức mạnh tổng hợp, nhân dân Ba Vì đã góp phần xây dựng hậu
phương lớn ngày càng vững mạnh, và không ngừng chi viện sức người sức
của cho tiền tuyến lớn miền Nam.Trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ, nhân dân
huyện Ba Vì tiếp tục phát huy truyền thống quê hương, phát triển mạnh mẽ và
20


vững chắc góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp hiện đại hóa đất nước.
Những thành tích mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ba Vì đã được Đảng và
Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời
kỳ chống Mỹ, Huân chương lao động hạng nhất thời kỳ đổi mới.
Ba Vì là vùng đất có dân số trên 26 vạn người, gồm 3 dân tộc chủ yếu:
Kinh, Mường, Dao (trong đó, trên 2,2 vạn người thuộc dân tộc Mường, dân
tộc Dao) và một số dân tộc thiểu số khác. Bảy xã miền núi xung quanh chân
núi Ba Vì là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào người dân tộc thiểu số,điều
này tạo nên nét đặc trưng cho một Thủ đô văn minh, hiện đại đồng thời đậm
đà bản sắc dân tộc. Đa dạng về văn hóa các dân tộc vừa là thuận lợi cũng vừa
là thách thức đối với vùng đất Ba Vì bởi việc cần áp dụng những chính sách
phù hợp với các dân tộc thiểu số, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa nền
văn hóa đa sắc tộc là việc làm cần thiết.
Tuy nhiên, kinh tế vùng miền núi dân tộc với kĩ thuật canh tác còn
nghèo nàn lạc hậu thì nền kinh tế chủ đạo vẫn là nông nghiệp. Thu nhập bình
quân đầu người nơi đây vẫn đạt mức thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao so với mặt bằng

chung của huyện và thành phố. Thêm vào đó sự gia tăng ngày càng lớn của
lực lượng lao động ở nông thôn, đòi hỏi phải giải quyết việc làm cho người
lao động. Trong khi đó đất nông nghiệp có xu hướng giảm. Đó là những khó
khăn, thách thức về mặt xã hội mà ngành nông nghiệp Ba Vì phải đối mặt
trong thời gian tới.
1.3.Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp
Cơ sở vật chất kĩ thuật là điều kiện cần thiết để phát triển một ngành
nông nghiệp phong phú và đa dạng về mọi mặt. Ba Vì đã mạnh dạn ứng dụng
các tiến bộ kĩ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp, và đã thu
được nhiều kết quả tốt. Thành tựu nổi bật là đã liên tục thay đổi cơ cấu giống
cây trồng, vật nuôi theo hướng năng suất cao hơn, chất lượng hơn. Nhiều ứng
21


dụng khoa học công nghệ đã được đưa vào sản xuất và đem lại hiệu quả như:
chương trình cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất rau an
toàn, góp phần giải phóng sức lao động cho nông dân, tăng năng suất, chất
lượng và giá trị hàng hóa.
Hệ thống tưới tiêu, các trạm trại, cơ sở kĩ thuật đến công tác khuyến
nông, khuyến ngư, chuyển giao các mô hình và tiến bộ kĩ thuật cho người
nông dân, đã phát huy tác dụng trực tiếp vào sản xuất, tăng thu nhập cho
người nông dân và bước đầu chuyển hướng sản xuất theo cơ chế thị trường.
Hiện trạng công trình thủy lợi phục vụ sản suất nông nghiệp bao gồm
có công trình tưới và công trình tiêu. Trong đó, công trình tưới ở vùng đồng
bằng phía Bắc được tưới bởi hai đầu mối tưới là trạm bơm Trung Hà và Hồ
chứa nước suối Hai. Vùng đồi gò phía Nam được tưới bởi các công trình nhỏ
và các công trình tạm ngăn suối dẫn nước vào kênh nhỏ và hồ chứa nước tưới
cho diện tích từ 1-150 ha chủ yếu do địa phương quản lý. Theo thống kê của
công ty thủy nông huyện Ba Vì, trên địa bàn huyện có 10 trạm bơm tưới có
quy mô trung bình, công suất trung bình 1000 m 3/h/máy, với tổng số máy là

58 máy, tổng công xuất máy là 56.120 m3/h, tổng diện tích tưới thực tế là
4146 ha. Các công trình thủy lợi đã phủ cơ bản hết diện tích canh tác góp
phần từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và các ngành kinh tế.
Hệ thông kênh mương đa phần là kênh đất, tỷ lệ kiên cố đạt thấp nên hiệu quả
dẫn nước thấp, tổn thất nước cao, không đáp ứng được nhu cầu dùng
nước.Cũng theo thống kê của công ty thủy nông huyện Ba Vì, trên địa bàn
huyện có 7 trạm bơm tiêu có quy mô khá lớn, có công suất trung bình 4000
m3/h/máy, với tổng số máy là 24 máy, có tổng công suất máy máy là 96000
m3/h, tổng diện tích tiêu thiết kế là 3314 ha.
Ba Vì có một hệ thống đường giao thông thuỷ bộ rất thuận lợi nối liền
các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc với toàn bộ đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có thủ đô
22


Hà Nội - Trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của cả nước. Từ Trung tâm
huyện Ba Vì theo quốc lộ 32 đi Sơn Tây về Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc
bộ hoặc ngược Trung Hà đi Tây Bắc, Việt Bắc. Từ trung tâm huyện Ba Vì có
thể dễ dàng di chuyển bằng đường song theo hướng từ sông Hồng ngược
Trung Hà theo sông Lô, sông Thao lên Tây Bắc, hoặc theo sông Đà đi Hoà
Bình - cửa ngõ Tây Bắc của Tổ quốc. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có
một số tuyến đường Tỉnh lộ như 411A,B,C; 412, 413, 414, 415 và các đường
liên huyện, đê sông Hồng, sông Đà...với hệ thống giao thông đường bộ này
huyện Ba Vì có thể thông thương giữa các vùng, miền, các tỉnh, huyện bạn.
bằng những lợi thế về giao thông đường thủy, đường bộ, Ba Vì có điều kiện
khá thuận lợi trong giao lưu kinh tế, văn hóa với bên ngoài, tiếp thu những
tiến bộ khoa học - kỹ thuật để phát triển kinh tế với cơ cấu đa dạng: nông
nghiệp, dịch vụ, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp.
Cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng được chú trọng và nâng cao là điều
kiện quan trọng để Ba Vì có thể phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng
hiện đại. Tuy nhiên trình độ khoa học kĩ thuật và công nghệ trong sản xuất

nông nghiệp mặc dù đã được chú trọng nhưng vẫn ở mức thấp so với yêu cầu
phát triển.
1.4.

Nông nghiệp Ba Vì trước năm 1991
Với những điều kiện về tự nhiên cũng như xã hội thuận lợi, Ba Vì có

tiềm năng trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp. Nông nghiệp đã gắn bó
với người nông dân Ba Vì từ rất lâu đời và đến nay nó vẫn là nền kinh tế chủ
đạo của huyện.“Ở ven sông Hồng, sông Đà và sông tích từ xưa, nhân dân
trong huyện đã có một nền nông nghiệp phồn thịnh, việc trồng trọt lúa nước
phát triển nhất là ở vùng Quảng Oai và các làng Đan Khê, Khê Thượng,
Cung Thuận, Sơn Vi, Tường Phiêu, Tùng Lộc, Thuần Mĩ.. thuộc Tùng Thiện
cũ.” [4;11].
23


Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, nhân dân Ba Vì cùng với nhân
dân cả nước đóng góp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến của cả dân
tộc.Sau thời kì kháng chiến chông Pháp từ năm 1954 đến 1964 nhân dân Ba
Vì vừa thực hiện nhiệm vụ xây dựng CNXH vừa thực hiện phát triển kinh tế
địa phương, thi đua thực hiện kê hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (19611965). Với tinh thần đoàn kết Đảng bộ và nhân dân Ba Vì đã giành được
những thắng lợi nhất định đó là: Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xây
dựng và không ngừng củng cố, cơ sở vật chất kĩ thuật ngày càng được tăng
lên. Thêm vào đó, trình độ quản lý hợp tác xã, quản lý xã hội, nghiệp vụ
chuyên môn của đội ngũ cán bộ cũng được nâng lên một cách rõ rệt. Đó là
những thành công, những bước đi ban đầu trong cuộc xây dựng quê hương,
đất nước.
Trong giai đoạn 1965-1975 nhân dân Ba Vì vừa sản xuất, vừa chiến
đấu chi viện chiến trường miền Nam góp phần thống nhất tổ quốc. Chính nỗ

lực không ngừng nghỉ của nhân dân huyện Ba Vì mà trong vòng 10 năm
Đảng bộ huyện Ba Vì đã lãnh đạo nhân dân trong huyện thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ “ vừa sản xuất, vừa chiến đấu”. Trong sản xuất, huyện ủy 3 huyện
Quảng Oai, Bất Bạt, Tùng Thiện (1965-1968) và Ba Vì (1968-1975) đã tập
trung cao độ cho công tác thủy lợi, kiến thiết đồng ruộng, từng bước quản lý
kinh tế, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, đưa năng suất cây
trồng, vật nuôi ngày càng lên cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Nhờ nỗ
lực cố gắng của nhân dân trong huyện đã tạo ra những cánh đồng “ 5 tấn
thắng Mỹ”.
Thắng lợi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 đã mở ra một trang sử mới. Đất nước
được hòa bình thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội. Song cũng như nhiều địa
phương khác trong cả nước, Ba Vì chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh để
24


lại “toàn huyện có 87 làng, 34/42 xã, 28 cơ quan, nông, lâm trường, trạm trại
bị đánh phá và để lại hậu quả nặng nề với 108 phòng học bị đánh sập hoàn
toàn, 37 nhà kho, 21 sân phơi tập thể, 11 trại chăn nuôi, 3 đội cơ khí của các
hợp tác xã nông nghiệp bị phá hủy, 16 công trình thủy lợi lớn nhỏ bị hư hại.
Nhiều cánh đồng cũng chịu hậu quả của bom đạn Mỹ.” [5;272]. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân Ba Vì đã đồng sức, đồng lòng ra sức phát
triển kinh tế- văn hóa- xã hội. Trong phát triển sản xuất vấn đề lương thực,
thực phẩm được đặt lên hàng đầu và là công tác trọng tâm. Đồng thời để thúc
đẩy sự phát triển của sản xuất, thực hiện chủ trương của cấp trên, Đảng bộ
huyện đã lãnh đạo cuộc vận động tổ chức lại sản xuất gắn với việc mở rộng
quy mô hợp tác xã, giao đất, giao rừng cho hợp tác xã quản lý và kinh doanh.
Chính vì vậy mà sản xuất bước đầu có sự phát triển, tuy nhiên, trong quá trình
tổ chức quản lý kinh tế nông nghiệp theo chỉ thị 208, sản xuất bị đình trệ,
không phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Do vậy từ năm

1981, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân phát triển theo hình thức mới đó là hình
thức khoán sản phẩm. Chỉ thị khoán 100 “ khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động” ra đời đánh dấu mốc quan trọng về sự chuyển hướng trong
chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, đáp ứng vọng của đông đảo quần chúng nhân
dân, khơi dậy tiềm năng, sự chịu thương, chịu khó của người lao động. Trên
địa bàn toàn huyện phương thức khoán tập trung vào 2 cách:
Thứ nhất: Đội sản xuất khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động.
Hình thức khoán này được áp dụng trong các khâu công việc như cấy trồng,
chăm bón, thu hoạch… Thực chất của cách khoán này là quản lý sản xuất và
ngày công lao động có gắn với trách nhiệm, quyền lợi của người lao động với
sản phẩm cuối cùng một cách trực tiếp.
Thứ hai: đội sản xuất khoán việc cho nhóm và người lao động. Đây
thực chất là hình thức khoán buộc trách nhiệm và quyền lợi của xã viên hợp
25


×