ĐỀ BÀI
Tháng 01/2014, giám đốc Công ty cổ phần Bách hóa Hà Thiêm ký hợp đồng
mua 1000 tấn đường (giá: 12.000 đồng/ kg) với giám đốc công ty cổ phần Thiên
Sơn. Đến thời hạn giao hàng, công ty Thiên Sơn không giao được hàng cho công ty
Hà Thiêm. Do không có hàng hóa, cơng ty Hà Thiêm khơng thực hiện được hợp
đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 150 triệu đồng. Công ty Hà Thiêm gửi
thông báo yêu cầu công ty Thiên Sơn bồi thường thiệt hại 400 triệu đồng và chịu
phạt 8% giá trị hợp đồng nhưng công ty Thiên Sơn không chấp thuận. Công ty Hà
Thiêm quyết định khởi kiện ra Tòa án.
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
2. Biết: trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “mọi tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại
hoặc tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét
về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và
bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
3. Tịa án có thể thự lý đơn khởi kiện của cơng ty Hà Thiêm khơng? Vì sao?
4. Phân tích các căn cứ pháp lí để xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm.
Nếu yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà Thiêm la
hợp pháp, hãy xác định giá trị bồi thường thiệt hại và hạt vi phạm mà công
ty Thiên Sơn phải chịu?
GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Phân tích các điều kiện để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập và
thực hiện các quyền và nghĩa vụ. Theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ
thanh tốn cho bên bán, nhận hàng và quyền sở dữu hàng hoá theo thoả thuận. Tuy
nhiên, không phải bất kỳ mọi thỏa thuận của các bên đều được pháp luật thừa nhận
mà chỉ có những thỏa thuận tuân theo quy định của pháp luật mới có hiệu lực. Luật
thương mại 2005 (LTM) khơng có quy định cụ thể về điều kiện để hợp đồng mua
bán hàng hóa có hiệu lực, vì vậy khi xem xét hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hóa cần phải dựa trên những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy
định của Luật dân sự 2005 (BLDS).Điều 122 Bộ Luật dân sự quy định:
“ 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người than gia giao dịch hồn tồn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định”.
Căn cứ vào quy định của BLDS 2005 và các quy định có liên quan, có thể xác định
một hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể giao kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện.
“ Tự nguyện” được hiểu là sự phù hợp, thống nhất giữa mong muốn bên trong với
sự bày tỏ mong muốn đó ra bên ngồi bằng một hình thức nhất định. Ý chí của chủ
thể phải là ý chí đích thực, tức là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong
của chủ thể không bị tác động bởi bất cứ yếu tố chủ quan hay khách quan nào khác
dẫn tới việc chủ thể đó khơng nhận thức hoặc kiểm sốt được ý chí của mình.Giữa
ý chí đích thực của chủ thể(bên trong) với sự biểu hiện ý chí(sự biểu hiện ra bên
ngồi) phải có sự thống nhất.Nếu khơng có sự thống nhất ý chí thì chủ thể khơng
có sự tự nguyện.
Thứ hai,đại diện của các bên giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải hợp
pháp.
Pháp luật quy định hai trường hợp: đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy
quyền. Người có thẩm quyền đại diện theo pháp luật quy định tại Điều 141 BLDS
2005. Tại điều 145 BLDS 2005 quy định về hậu quả giao dịch dân sự do người
khơng có quyền đại diện xác lập, thực hiện thì khi người khơng có quyền đại diện
giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối
với bên hợp đồng được đại diện trừ trường hợp được người đại diện ủy quyền hoặc
được người được đại diện đồng ý
Thứ ba, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa có năng lực chủ
thể(năng lực pháp luật và năng lực hành vi đối với cá nhân), năng lực pháp luật đối
pháp nhân.
Điều 14 BLDS 2005 quy định: “ năng lực pháp luật dân sự của cá nhân” là khả
năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự, có từ khi người đó sinh ra và
chấm dứt khi người đó chết, mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như
nhau. Điều 86 BLDS 2005 quy định “ năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân”
là khả năng pháp nhân có quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích của mình,
phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời điểm chầm
dứt pháp nhân. Trong pháp luật thương mại năng lực chủ thể của các bên chủ thể
thể hiện ở chỗ, trong hợp đồng mua bán hàng hóa thì một bên chủ thể phải là
thương nhân, chủ thể còn lại có thể khơng phải là thương nhân. Trong một số
ngành nghề pháp luật thương mại, đòi hỏi các chủ thể phải đáp ứng them những
yếu tố cần thiết như: mua bán hàng hóa dịch vụ thuộc lĩnh vực kinh doanh có điều
kiện thì các chủ thể phải có giấy phép kinh doanh. Như vậy nếu chủ thể của hợp
đồng là cá nhân tham gia hợp đồng với mục đích lợi lợi nhuận thì phải đáp ứng
điều kiện có kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán.
Thứ tư, mục đích và nội dung hợp đồng khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật, khơng trái đạo đức xã hội.
Nhìn chung, đạo đức xã hội là những hành vi được số đông trong xã hội ứng
xử và chấp nhận. Hành vi trái với những hành vi đó có thể coi là trái với đạo đức
xã hội. để bảo vệ trật tự công cộng, bảo vệ các giá trị đạo đức xã hội, bảo vệ quyền
tự do và lợi ích của người khác, hệ thống pháp luật nào cũng có những quy định
cấm một số hành vi nhất định không được làm, ví dụ cấm kinh doanh một số hành
hóa, (ví dụ như pháo nổ).
Nội dung hợp đồng phải hợp pháp nghĩa là hợp đồng đó phải có các điều khoản
chủ yếu của hợp đồng. Điều khoản chủ yếu của hợp đồng, hay còn gọi là điều
khoản cơ bản, điều khoản luật định của hợp đồng, là những điều khoản bắt buộc
phải có trong hợp đồng, nếu thiếu một trong các điều khoản đó thì hợp đồng khơng
có giá trị pháp lý.
Thứ năm, hình thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
trường hợp pháp luật có quy định.
Khoản 2 Điều 24 LTM 2005 quy định: “ đối với các loại hợp đồng mua bán hành
hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tn theo các quy
định đó”
Trong trường hợp pháp luật quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng mà các bên khơng tn theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các
bên, Tịa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực
hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong một thời hạn; qúa thời hạn đó mà
khơng thực hiện thì giao dịch vơ hiệu. Một số trường hợp pháp luật bắt buộc các
bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản như: hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế-phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức khác có giá
trị pháp lý tương đương như điện báo, telex, fax hay thông điệp dữ liệu.
Như vậy, để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì phải đáp ứng đủ các
điều kiện trên
2.
Biết: trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau: “mọi tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi trọng tài thương mại
hoặc tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.” Hãy nhận xét
về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài trong hợp đồng mua bán gạo nói trên và
bình luận quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về hiệu lực của thỏa
thuận trọng tài.
Theo khoản 2 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Thỏa thuận
thương mại là thoả thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh
chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”. Để thỏa thuận trọng tài thương mại phát
sinh hiệu lực thì cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
Thứ nhất, điều kiện về chủ thể của thỏa thuận trọng tài thương mại:
Người xác lập thỏa thuận trọng tài thương mại có thẩm quyền theoquy định
của pháp luật.
Người tham gia xác lập thỏa thuận trọng tài phải có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, cụ thể:
Đối với chủ thể ký kết là cá nhân: Phải có NLHVDS đầy đủ, khơng bị mất
hay hạn chế NLHVDS;
Đối với chủ thể ký kết là pháp nhân: Do đặc trưng việc tham gia vào quan hệ
pháp luật của chủ thể này phải thông qua người đại diện hợp pháp nên khi xem xét
NLHVDS của chủ thể này căn cứ vào cả năng lực chủ thể của cả pháp nhân và cá
nhân là người đại diện hợp pháp của pháp nhân. Đối với cơng ty Cổ phần Thiên
Sơn là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Cửa hàng bách hóa Hà Thiên thì chủ
sở hữu phải đăng ký kinh doanh nên đáp ứng yêu cầu về chủ thể.
Về ý chí của các bên: Thỏa thuận về trọng tài thương mại cần phải xuất phát
từ ý chí của các bên mới làm phát sinh hiệu lực của điều khoản này. Chỉ cần một
trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng
tài và có u cầu
Thứ hai, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài:
Theo điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 thì những trường hợp sau: Tranh
chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa
các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa
các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài mới phát sinh giải
quyết tranh chấp trọng tài.Thẩm quyền của trọng tài thương mại trước hết được xác
định bởi thỏa thuận giữa các bên. Theo như khoản1 điều 5 của LTTM
2010: “Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh
chấp.” Như vậy, để một việc thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại,
điều kiện trước hết phải là giữa các bên có tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài.
Ở đây, ta có thể thấy sự tơn trọng thỏa thuận của các bên: trọng tài thương mại chỉ
có thẩm quyền giải quyết nếu như được các bên có “vụ việc” lựa chọn, khơng có
sự ép buộc, tất cả đều dựa trên nguyên tắc tự nguyện. Thêm vào đó, thời điểm thỏa
thuận về giải quyết trọng tài như vậy, theo đánh giá chung là rất thoáng và linh
hoạt cho các bên khi lựa chọn, không nhất thiết phải thỏa thuận trước mà có thể
sau khi xảy ra tranh chấp, các bên chỉ cần quan tâm vấn đề làm như thế nào cho
đúng quy định, không làm vô hiệu thỏa thuận trọng tài thì việc giải quyết sẽ
đượcthực hiện theo hình thức trọng tài thương mại tuyên bố thoả thuận trọng tài đó
là vơ hiệu (khoản 5 Điều 18).
Thứ ba,điều kiện về hình thức của thỏa thuận trọng tài thương mại.
Điều 16 luật TTTM 2010 đã quy định: “thỏa thuận trọng tài có thể được xác
lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa
thuận riêng”. Theo đó, hình thức của thỏa thuận trọng tài được tồn tại dưới một
trong hai hình thức: là điều khoản trong hợp đồng hoặc thỏa thuận riêng.
Đối với trường hợp này giữa cơng ty cổ phần bách hóa Hà Thiên và cơng ty
cổ phần Thiên Sơn có ký hợp đồng và trong hợp đồng có thỏa thuận về giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại là một điều khoản trong hợp đồng. Như vậy,
hình thức của thỏa thuận trọng tài thương mại bắt buộc phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản.
Ngoài ra theo điều 3 và điều 4 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP 1 về
hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 nghĩa là
hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chỉ được áp dụng khi các
bên có thỏa thuận trọng tài thương mại và thỏa thuận này phải có hiệu lực. Thỏa
thuận trọng tài chỉ được xem là có hiệu lực khi thỏa thuận này khơng vơ hiệu(Điều
6 và Điều 18 LTTM) đồng thời không thuộc trường hợp không thể thực hiện được
(Điều 6 LTTM)
Thứ tư,hiệu lực của thỏa thuận trọng tài độc lập với hiệu lực của hợp đồng
chính:
1Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010
Điều 19 LTTTM 2010 quy định về tính độc lập của thỏa thuận trọng tài:
“Thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc thay đổi, gia hạn, hủy
bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được không làm mất hiệu
lực của thoả thuận trọng tài”. “Việc quy định thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc
lập với hợp đồng bởi đây là hai loại thỏa thuận có đối tượng pháp lý hồn tồn
khác nhau, điều khoản trọng tài xác định thủ tục tố tụng sẽ được áp dụng trong
trường hợp có tranh chấp phát sinh giữa các bên, cịn hợp đồng chính quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên. Nói cách khác, việc vơ hiệu của hợp đồng chính
khơng thể ảnh hưởng đến tiền trình tố tụng bằng trọng tài. Vì vậy, việc xác định
điều khoản trọng tài độc lập với hợp đồng chính có ý nghĩa quan trọng, bởi đây là
cơ sở duy nhất để thành lập Hội đồng trọng tài thể hiện đúng ý chí của các bên về
việc lựa chọn trọng tài giải quyết vụ tranh chấp.
Tuy nhiên nội dung của thỏa thuận trọng tài được ghi trong hợp đồng giữa 2
công ty như sau: “ Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi
trọng tài thương mại hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành”. Theo Điều 6 LTTTM: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có thoả
thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tồ án thì Tồ án phải từ chối thụ lý, trừ
trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực
hiện được”
Khi đã có thỏa thuận thì việc giải quyết tranh chấp thuộc thẩm quyền của
TTTM, nếu một trong các bên khởi kiện ra Tịa thì Tịa án phải từ chối thụ lý, chỉ
khi thỏa thuận này khơng có hiệu lựcthì mới thuộc thẩm qun của Tịa án. Theo
quy định trên, Tòa án chỉ thụ lý đơn khởi kiện trong trường hợp đã có thỏa thuận
trọng tài nhưng thỏa thuận này vô hiệu hoặc không thể thực hiện được. Như vậy,
ngồi trường hợp thỏa thuận trọng tài vơ hiệu quy định tại Điều 18 Luật TTTM
2010 thì thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được cũng được xem là một
trường hợp thỏa thuận trọng tài khơng có hiệu lực. Vấn đề này được quy định tại
Khoản 3,4,5 Điều 43 Luật TTTM 2010, đặc biệt Điều 4 Nghị quyết 01/2014 của
Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định cụ thể, thỏa thuận trọng tài không thể thực
hiện được là thỏa thuận trọng tài thuộc một trong 5 trường hợp:
+ Các bên đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài
cụ thể nhưng Trung tâm trọng tài này đã chấm dứt hoạt động mà khơng có tổ chức
trọng tài kế thừa và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trung tâm trọng
tài khác để giải quyết tranh chấp;
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lực chọn Trọng tài viên trọng tài
vụ việc nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp hoặc
Trung tâm trọng tài, Tịa án khơng thể tìm được Trọng tài viên như các bên thỏa
thuận và các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác thay
thế;
+ Các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài
vụ việc, nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, Trọng tài viên từ chối việc được chỉ
định hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên
không thỏa thuận được việc lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế;
+ Các bên có thỏa thuận giải quyết tại một trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa
thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác với Quy tắc tố tụng
của Trung tâm trọng tài đã thỏa thuận và điều lệ của Trung tâm trọng tài do các bên
lựa chọn để giải quyết tranh chấp không cho phép áp dụng Quy tắc tố tụng của
Trung tâm trọng tài khác và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy
tắc tố tụng trọng tài thay thế;
+ Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa
thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa,
dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn quy định tại Điều 17Luật TTTM 2010 nhưng khi
phát sinh tranh chấp người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết
tranh chấp.
Như vậy, từ những phân tích ở trên thì chúng tơi cho rằng thỏa thuận trọng
tài thương mại trong trường này có hiệu lực vì đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu
khi ký kết và phù hợp với quy định của pháp luật.
Bình luận các quy định về hiệu lực của thỏa thuận thương mại trong
Luật trọng tài thương mại hiện nay:
Quy định về thẩm quyền của trọng tài cũng là một trong các yếu tố quyết
định đến hiệu lực của thỏa thuận thương mại. So với quy định trước đây, chỉ có tổ
chức kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh mới có quyền lựa chọn trọng tài làm
phương thức giải quyết tranh chấp, nhưng với quy định tại Điều 2 Luật TTTM,
phạm vi thẩm quyền trọng tài đã được mở rộng, mà theo đó, bất kỳ tổ chức hay cá
nhân nào cũng có thể thỏa thuận lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp, miễn
là lĩnh vực đó phát sinh theo quy định của Luật. Tuy nhiên, với quy định mở như
vậy, nhưng thiếu hướng dẫn chi tiết các loại tranh chấp được giải quyết thơng qua
hình thức TTTM lại là hạn chế khi áp dụng quy định của Luật TTTM vào thực
tiễn. Điều 1 Nghị định 63/2011/NĐ-CP
2
có quy định nhưng Nghị định này vẫn
chưa đưa ra hướng dẫn cụ thể những loại tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của
trọng tài để hạn chế xung đột về thẩm quyền giữa trọng tài với Tòa án.
Một trong những điểm quan trọng nhất của Luật TTTM là thể hiện rõ nét mối
quan hệ giữa Trọng tài với Tồ án trong tồn bộ q trình giải quyết vụ tranh chấp
2Nghị định 63/2013/NĐ-CP ngày 28/7/2011 của chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật Thương mại năm 2005.
của các bên. Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ
pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tịa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng
tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao
gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên
thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải
quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm
chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy
định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này
của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh TTTM,
tạo điều kiện để các Tòa án và Hội đồng trọng tài cũng như các bên tranh chấp
tránh được lúng túng trong các trường hợp cụ thể, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
để trọng tài hoạt động có hiệu quả.
Luật TTTM 2010 đã khắc phục được sự không rõ ràng của pháp lệnh Trọng tài
thương mại năm 2003 về các tình huống có thể làm vơ hiệu thỏa thuận trọng tài
được quy định tại điều 18 của Luật TTTM 2010 giới hạn 6 tình huống theo đó thảo
thuận trọng tài vơ hiệu.
3. Tịa án có thể thụ lý đơn khởi kiện của cơng ty Hà Thiêm khơng? Vì
sao?
Như đã biết, trong hợp đồng các bên có thỏa thuận trọng tài như sau:” Mọi
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này được giải quyết bởi Trọng tài thương mại
hoặc Tòa án theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành “.
Theo nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một só quy định Luật
Trọng tài thương mại. Cụ thể tại điểm b, khoản 4, điều 2 có quy định:” Trường hợp
người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp, thì ngay sau khi nhận được
đơn kiện, Tịa án phải xác định một trong các bên đã yêu cầu Trọng tài giải quyết
hay chưa.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa án
xác định người bị kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp
thì Tịa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị kiện,
người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tịa án xem xét
thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án mà phát hiện tranh chấp đã có yêu cầu Trọng tài
giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì Tịa án căn cứ quy định tại điểm i
khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án vì khơng
thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo
đơn khởi kiện.”
Và theo như tình huống của đề bài, Cơng ty cổ phần bách hóa Hà Thiêm và công
ty Thiên Sơn thỏa thuận vừa giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài, nhưng đồng thời
vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, và sau khi xảy ra tranh chấp,
cả 2 bên công ty đều khơng có thỏa thuận lại hay thỏa thuận mới về cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Như vậy, sau khi có tranh chấp xảy ra, cơng ty bách hóa Hà Thiêm có đơn kiện
cơng ty Thiên sơn ra Tịa án. Đối với trường hợp này, Tịa án hồn tồn có thể thụ
lý đơn kiện của cơng ty bách hóa Hà Thiêm, tuy nhiên chỉ khi có điều kiện rằng
người bị kiện (công ty Thiên Sơn) và người yêu cầu khởi kiện ( cơng ty bách hóa
Hà Thiêm) chưa yêu cầu Trọng tài thương mại giải quyết tranh chấp.
4. Căn cứ pháp lí xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường thiệt hại và
phạt vi phạm của cơng ty Hà Thiêm.
* Căn cứ pháp lí xác định tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường thiệt hại Của
công ty Hà Thiêm
Theo khoản 1 Điều 302 luật Thương mại 2005 quy định về bồi thường thiệt hại:
“ 1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
Đối với vụ việc trên chúng ta thấy rằng:
Thứ nhất,khi đến thời hạn giao hàng, công ty Thiên Sơn không giao được
hàng cho cơng ty Hà Thiêm. Điều đó thể hiện cơng ty cổ phần Thiên Sơn đã có
hành vi vi phạm hợp đồng với cơng ty cổ phần bách hóa Hà Thiêm
Thứ hai, do khơng có hàng hóa, cơng ty Hà Thiêm không thực hiện được hợp
đồng với đối tác và bị đối tác phạt vi phạm 150 triệu đồng. Điều này cho thấy đã có
thiệt hại thực tế xảy ra.
Thứ ba, Vì cơng ty Thiên Sơn khơng giao được hàng cho công ty Hà Thiêm
cho nên công ty Hà Thiêm bị đối tác phạt vi phạm 150 triệu, thể hiện hành vi vi
phạm hợp đồng của công ty Thiên Sơn là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại cho
công ty Hà Thiêm
Theo Điều 303 Luật Thương mại 2005 quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại:
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của luật này, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.”
Từ căn cứ pháp lí trên có thể khẳng định hành vi vi phạm hợp đồng của công ty
Thiên Sơn đáp ứng đủ ba căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Do đó, Việc cơng ty Hà Thiêm u cầu cơng ty Thiên Sơn bồi thường thiệt hại là
hợp pháp.
*Căn cứ pháp lí xác định tính hợp pháp của yêu cầu phạt vi phạm của công ty Hà
Thiêm
Thứ nhất, Theo Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định về phạt vi phạm:
“phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn
trách nhiệm quy định tại Điều 294 của luật này.”
Cụ thể, trong trường hợp này, việc công ty Hà Thiêm yêu cầu phạt vi phạm với
cơng ty Thiên Sơn bằng hình thức là u cầu công ty Thiên Sơn trả một khoản tiền
phạt là 400 triệu đồng và 8% giá trị hợp đồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với hợp
đồng và quy định của pháp luật.
Thứ hai, tại Điều 301 LTM 2005 quy định :
“Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật
này.” ở trường hợp này công ty Hà Thiêm yêu cầu mức phạt là 8% giá trị hợp
đồng, đồng thời không vi phạm quy định tại điều 26 của Luật này.
Như vậy, qua căn cứ trên ta có thể xác định được yêu cầu phạt vi phạm của công
ty Hà Thiêm là hợp pháp.
• Giá trị bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm mà công ty Thiên Sơn phải
chịu khi yêu cầu bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm của công ty Hà
Thiêm là hợp pháp
Điều 302. Bồi thường thiệt hại
1.
Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành
vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi
phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm
đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm
Do có sự vi phạm của bên công ty cổ phần Thiên Sơn nên việc bồi thường vi phạm
hợp đồng là do bên công y cổ phần Thiên Sơn phải chịu trách nhiệm. Như vậy
Công ty cổ phần Thiên Sơn phải bồi thường giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà
cơng ty Bách hóa Hà Thiêm đã phải chịu khi không thực hiện nghĩa vụ của mình.
Thêm vào đó là khoản lợi trực tiếp mà bên Cơng ty bách hóa Hà Thiêm đáng lẽ
phải nhận được nếu như khơng có sự vi phạm của cơng ty cổ phần Thiên Sơn
Về phạt vi phạm hợp đồng:
Điều 300. Phạt vi phạm
Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt
do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn
trách nhiệm quy định tại Điều 294 của luật này
Điều 301. Mức phạt vi phạm
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi
phạm do các bên thỏa thuận trọng hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của luật này
Như vậy, giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm được tính như sau:
1.000.000* 12.000 = 12.000.000.000 đồng
Số tiền mà công ty cổ phần Thiên Sơn phải đưa cho cơng ty Bách hóa Hà Thiêm
vì vi phạm hợp đồng là: 960.000.000 đồng
Tổng số tiền cầ phải trả là: 960.000.000 + 400.000.000 = 1.360.000.000 đồng