ỨNG DỤNG
CỘNG NGHỆ THÒNG TIN
VÀ TRUYỀN THỐNG
trong đổi mới hoạt động thư viện
T H Ô N G TIN VẢ TRU
PGS.TS. VƯƠNG TOÀN
ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ THÒNG TIN
VÀ TRUYỀN THỐNG
trong đểi mới hoạt động thư viện
NHÀ XUẤT BẢN THÔNG TIN VẢ TRUYỀN t h ô n g
LỜ! NHÀ XUẤT BẢN
Công nghệ thông tin đang làm biến đổi sâu sắc mọi lĩnh
vực trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay, do những thành tựu của
cách mạng tin học mang lại nên việc đổi mới hoạt động thư viện
truyền thống là tất yếu và cấp bách. Nhờ các quá trình xử lý
thông tin và phương thức truyền thông hiện đại, hoạt động thư
viện đã và đang thay đổi về cơ bản, có thể nói rằng nó thực sự
trở thành một cuộc cách mạng trong ngành Thư viện.
Hiện nay, giá trị thư viện không còn được đánh giá là thư
viện sở hữu bao nhiêu tài nguyên thông tin, mà là thư viện đó
sử dụng công nghệ thông tin như thế nào để truy hồi thông tin
khắp nơi nhằm phục vụ tốt cho người sử dụng. Nếu thư viện
tiếp tục hoạt động theo kiểu truyền thống thì dù có được trang
bị hiện đại, đối tượng phục vụ cũng sẽ giảm dần vì không thỏa
mãn người dùng tin ở thời đại mới. Bởi vậy, trong thời đại tin
học bùng nổ, nếu không biết tận dụng những tiện ích của công
nghệ thông tin và truyền thông hiện đại sẽ là những hạn chế
không đáng có.
Nhằm đáp ứng phần nào nhu cầu của bạn đọc, Nhà xuất
bản Thông tin và Truyền thông xuất bản cuốn "ứ ng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông trong đổi m ớ i ho ạt động thư
viện" do PGS, TS Vương Toàn biên soạn. Nội dung cuốn sách
được chắt lọc từ gần 60 bài viết lớn nhỏ đã công bố tại các hội
thảo khoa học chuyên ngành và trên các tạp chí: Thông tin khoa
học xã hội, Thư viện Việt Nam, Bản tin Hội Thông tin - Tư liệu
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và đặc biệt là nhiều bài đã
được in trên bản tin "Thư viện - Công nghệ thông tin"... nay
được tác giả tống hợp có bổ sung và cập nhật.
Cuốn sách đã phác họa một bức tranh hiện thực về hoạt
động thông tin - thư viện nói chung và chuyên về khoa học xã
hội ở Việt Nam nói riêng; đồng thời cũng gợi ra m ột số nội dung
đang được ngành Thư viện quan tâm. Hy vọng cuốn sách sẽ là
tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà quản lý, các cán bộ
ngành thông tin thư viện và các bạn sinh viên chuyên ngành thư
viện trên cả nước...
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song lần đầu xuất bản nên
cuốn sách sẽ khó tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Nhà
xuất bản rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu
của bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái
bản sau.
Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!
Hà Nội, tháng 8 năm 2013
NHÀ XUÁT BẢN
THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG
DANH MỤC T Ừ VIẾT TẮT
CSDL
Cơ sở dữ liệu
ĐH
Đại học
GS
Giáo sư
HN
Hà Nội
KHXH
Khoa học Xã hội
NDT
Người dùng tin
NV
Nhân văn
Nxb
Nhà xuất bản
PGS
Phó Giáo sư
PTBV
Phát triển bền vững
QG
Quốc gia
Tc
Tạp chí
ThS
Thạc sĩ
TP. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
tr
trang
TS
Tiến sĩ
TSKH
Tiến sĩ khoa học
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
Phần I
MỘT Số VẤN ĐỀ CHUNG
■
HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN Đổl MỚI
DO TÁC ĐỘNG
CỦA CÔNG NGHỆ■ THÔNG TIN
■
VÀ TRUYỀN THÔNG
1. Những thay đổi do cách mạng tin học
Những năm gần đây, thuật ngữ "tin học" được nhắc tới
nhiều, có lúc bị lạm dụng khiến cho nó có thể bị hiểu như một
"mốt" thời thượng. Thực ra, tin học là một kết quả mà tiến bộ
của khoa học và kỹ thuật hiện đại mang lại, nó đảm nhiệm một
vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nhiều mặt của xã
hội, trong đó có đời sống kinh tế của con người.
Ở nhiều nước có trình độ khoa học và kỹ thuật tiên tiến, tin
học hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động, nhằm thoả mãn
những nhu cầu tưởng như đơn giản nhất (như đặt mua hàng hoá
theo yêu cầu hay thanh toán tiền qua tài khoản ở ngân hàng) cho
đến những nhu cầu thông tin về tư liệu khoa họcể Bởi lẽ đó, tin
học đã được đưa vào dạy cả ở nhà trường phổ thông từ nhiều
năm nay.
Tin học hoá cho phép lưu trữ, xử lý, tìm kiếm và cung cấp
thông tin theo yêu cầu của NDT. Tuỳ mục đích xây dựng, CSDL
có thể đáp ứng nhu cầu thông tin về thư mục, văn bản, số liệu, sự
kiện hay hình ảnh. Bên cạnh kho sách và tư liệu theo truyền
thống, thư viện hiện đại đã có thêm tài nguyên thông tin dạng
điện tử: từ đĩa CD đến sách điện tử... Các quy trình bảo quản, xử
lý và phục vụ người khai thác và sử dụng vì thế cũng thay đổi
9
nhiều. Cho nên thay cho cách gọi truyền thống là thư viện, ngươi
ta thường dùng những tên gọi khác nhau đê chỉ cơ quan co
những hoạt động mới mẻ này: nơi dùng cách gọi tên có phân dài
dòng, nhưng thể hiện đày đủ nhất là Trung tâm thông tin - tư liệu
- thư viện.
Trong bài “Nguồn tin và các địa chi về KH XH trên
Internet: hướng dẫn người sử dụng"(i\ Craig Mckie nhận xét
rằng từ nhiều năm trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến nhiều thay
đổi lớn trong cách tiến hành các công trình nghiên cứu, đên mức
mà “nền kinh tế dựa trên thông tin” phát triển hơn cả nền kinh tế
công nghiệp đã có nhiều thành công trước đó. Việc phát triển
rộng rãi các công cụ nghiên cứu điện tử, đặc biệt là World Wide
Web (web) đã tạo ra một số thay đổi sau:
l ế Thay đổi trong cách phổ biến, lưu trữ, tìm kiếm, trích
thông tin và trong những bài học rút ra từ những thông tin nàyễ..
2. Thay đổi trong bản chất thông tin liên quan đến KHXH
(các thể loại mới, cách sử dụng mới) và khả năng tiếp cận với
các thông tin này dễ dàng hơn nhiều.
3. Thay đổi trong cách cung cấp các dữ liệu của các cơ
quan chức trách cho nhà nghiên cứ u...
4. Thay đổi trong cách kiểm soát thông tin của các nhà
chức trách..ế
5ắ Thay đổi trong cách trao đổi giao tiếp giữa các thành
viên trong một nhóm nghiên cứu.
(1) Các khoa học xã hội trên thế giới (Chu Tiến Ánh - Vương Toàn dịch) H
Nxb ĐHQG Hà Nội, 2007, tr. 443-456.
10
Dù quan niệm và thực tiễn có thể dẫn đến sự khác nhau về
nhận thức và cách làm, nhưng đâu đâu ta cũng thấy nói đến kết
hợp thư viện truyền thống với thư viện hiện đại, và ímg dụng
công nghệ thông tin vào hiện đại hoá thư viện...
Với khả năng cải tiến kỹ thuật để ngày càng đáp ứng chính
xác nhu cầu đa dạng của người sử dụng, máy tính điện tử ra đời
đã trở thành phương tiện kỹ thuật vô cùng hữu hiệu cho việc tin
học hoá công tác tư liệu khoa học. Nhờ những kỹ thuật viễn
thông tiên tiến, thông tin vượt khỏi phạm vi quốc gia, nhập vào
hệ thống thông tin quốc tế, cho phép nhà khoa học ở nước này
có thể khai thác dữ liệu khoa học ờ nước khác một cách dễ dàng
(nếu không bị‘ngăn cấm, vì một lẽ nào đó). Bên cạnh nguồn tin
thu phí, nhiều thông tin được các nhà mạng cung cấp miễn phí
khiến cho NDT cảm thấy khá thoải mái khi hoạt động trong xã
hội thông tin.
2. Nhu cầu và lợi ích của tin học hóa hoạt động thư viện
Cơ sở cho việc tự động lưu trữ, xử lý và khai thác thông tin
là những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng tin học, cùng với
những tiến bộ của phương thức truyền thôngễ
Ngày nay, các dạng sản phẩm thông tin được nhập vào một
thư viện đã thay đổi: ấn bản điện tử xuất hiện và dần chiếm chỗ
của các dạng in ấn trước đó. Nói cách khác, cái được gọi là kho
thư viện ngày nay cũng đã khác xưa rất nhiều. Thay cho những
giá kệ làm bằng chất liệu bền chắc, chống được mối mọt, các sản
phẩm điện tử đòi hỏi cách lưu trữ và bảo quản khác xưa.
Một ví dụ khá điển hình là bộ Bách khoa toàn thư Briticana,
sau 244 năm phát hành (lần đầu tiên ở Edinburgh Scotland), có
11
doanh số bán ra đinh cao là vào năm 1999 với 120 ngàn bộ bìa
cứng mạ vàng, 32 tập, nay do sự xuất hiện của Wikipedia phát
hành miễn phí trên Internet, người ta đã chuyển sang ấn bản điện
tử từ thập niên 1970 và bản đầu tiên được bán ra vào năm 1980,
phát hành đĩa CD đầu tiên vào năm 1989 và đưa lên mạng vào
năm 1994. Phiên bản trên mạng được bán với giá 70 USD cho
một năm đăng ký sử dụng. Công ty có trụ sở ở Chicago cũng cho
biết cuốn Từ điển bách khoa bàng tiếng Anh lâu đời nhất này sẽ
chỉ tập trung vào việc phát hành phiên bản trên Internet*1 Vậy
thì để NDT có thể tra cứu bộ từ điển này, thư viện hiện đại
không nhất thiết phải dành chỗ cho bộ sách mấy chục tập trong
kho chứa sách tra cứu của mình như trước đây.
Vượt ra khỏi những cung cách phục vụ truyền thống (cho
đọc, mượn, tra cứu tại chỗ...), khi dịch vụ thông tin trờ thành nhu
cầu tất yếu của thời đại thì các thư viện và trung tâm tư liệu phải
đổi mới hoạt động cho phù hợp. số lượt bạn đọc được thống kê
hàng tuần, hàng tháng, hàng năm không còn là chỉ tiêu duy nhất
để đánh giá hoạt động của một cơ quan thông tin - thư viện, như
suốt mấy chục năm trước đây ta vẫn làm.
Với cách làm truyền thống thì những cơ sở này chỉ là nơi
lo cất giữ tài liệu là chính, vì vậy để hoạt động cũng phải sử
dụng một vài hệ thống phương tiện khai thác thủ công (tủ phiếu
tra cứu, các loại thư mục sách mới hay chuyên đề...). Thực tể
cho thấy, nhu cầu về thông tin không chỉ nảy sinh ở người có
khả năng trực tiếp đến thư viện và trung tâm tư liệu, mà nó còn
có cả nhu cầu của các nhà khoa học nước ngoài.
(1) Trung Thuần, TC. Từ điển học và Bách khoa thư, số 3, tháng 5. 2012, tr 91.
12
Nếu không tiến hành tin học hoá thì con người không thể
làm chủ được cái kho tài nguyên thông tin khổng lồ, mà trí tuệ
của con người từng ngày, từng giờ, làm cho nó tăng vọt lên tới
mức được gọi là "bùng nổ thông tin". Không có nền kinh tế của
nước nào cho phép thu nhận và tàng trữ tất cả sản phẩm thông
tin công bố và không công bố chính thức trên toàn thế giới. Vả
lại, nếu có thu nhận và tàng trữ được như vậy, thì đây cũng là
một việc làm không kinh tế, lãng phí lớn sức người sức của, bởi
vì sẽ không tránh được sự trùng lặp khi hàng năm thế giới có
hàng triệu bài báo được đăng, và trong một phần tư thế kỷ vừa
qua người ta in ra số lượng sách bằng năm thế kỷ trước cộng lại.
Trong khi giá thành các ấn phẩm truyền thống không
ngừng tăng lên (do nhu cầu về giấy và giá thành vật liệu in ngày
càng tăng) thì giá máy tính điện tử (ngày càng hiện đại) lại ngày
càng giảm, nhờ những bước tiến không ngừng của khoa học và
công nghệ hiện đại. Ngày nay, ở một số nước, máy vi tính cá
nhân được sử dụng rộng rãi. Các phương tiện truyền thông
không dây (vô tuyển) ngày càng cho phép kết nối mọi lúc, mọi
nơi với tốc độ rất nhanh. Máy tính xách tay, máy tính bảng và
điện thoại thông minh cùng Internet đã phát triển với những đổi
mới kỹ thuật rất nhanh chóng ở nước ta trong những năm qua.
Mặc dù mới xuất hiện 15 năm (từ 1997) đến nay Việt Nam đã
trở thành những nước có tốc độ phát triển nhanh nhất, với hơn
30 triệu người, chiếm 30% dân số sử dụng Intemet(1), điều đó
khiến cho hoạt động cung cấp thông tin ngay ở những thư viện
mới xây dựng cũng không thể cứ theo con đường truyền thống,
bởi lẽ nó sẽ trở nên lạc lõng trong xã hội ngày nay.
(l)số liệu phát triển đến tháng 9/2012: số người sử dụng: 31.196.878 người. Tỉ lệ
số dân sử dụng Internet: 35,49%. Nguồn: />
13
Ở nước ta, nhiều ngành ở cấp Trung ương và địa phương
đã xây dựng được kho lun trữ và tìm kiếm thông tin, đó là những
kho tài nguyên thông tin quản lý cán bộ, vật tư, lưu trữ văn bản,
thông tin khoa học kỹ thuật và dịch vụ... Báo chí ngoài bản giấy
lại có báo điện tử, trang tin điện tử. Đe án Chính phủ điện từ cho
phép mọi người có thể tìm hiểu và khai thác văn bản mình quan
tâm ngay trên mạng khá thuận lợi và dễ dàng.
Việc sử dụng máy tính điện tử để tin học hoá tư liệu khoa
học cho phép con người chi phí tối thiểu mà có thể sử dụng tư
liệu khoa học tối đa (nhiều lần), nhân sao dễ dàng.
Ví dụ như mới đây, Trường phổ thông trung học Việt Bắc
(Lạng Sơn) do không biết cách bảo quản tài liệu, nhà trường
mong muốn có lại bản sao một văn bản đã chụp (photocopy)
cách đây 10 năm nay đã mờ. Tuy nhiên, Tạp chí của Thư viện
Quốc gia đã có thể cập nhật rất nhanh và hết sức tiện dụng,
bàng việc gửi kèm thư điện tử bản scan toàn văn Nghị định này
(của Bộ Giáo dục ký ngày 29/5/1947). Mặc dù, cách Hà Nội gần
200 km, nhưng nhà trường cũng đã kịp thời nhận ngay được văn
bản quan trọng để kịp chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 65 năm ngày
thành lập.
Nhờ hoạt động thư viện được tin học hoá, thông tin được
trả lời nhanh, chính xác và có thể phục vụ nhiều đối tượng cùng
một lúc. Nạn “giữ tủ” tài liệu để sử dụng cho riêng mình bị chấm
dứt về cơ bản, kể cả cách xưa kia, chỉ cần xé phiếu mô tà ờ các
tủ mục lục là có thể sở hữu riêng, cho dù tài liệu này vẫn được
bảo quản rất cẩn thận tại thư viện.
14
Cũng vì thế, các nhà khoa học càng có điều kiện sáng tạo,
khi thời gian làm việc chỉ còn dành cho nghiên cứu phân tích
thông tin đã xử lý, lựa chọn giải pháp thích ứng hay đề xuất giải
pháp mới... Tình trạng trùng lặp ở cấp quốc gia và quốc tế có thể
được khắc phục, tránh được lãng phí về tiền của và trí lực. Thời
gian của nhà khoa học được dành phần lớn cho lao động sáng
tạo thì tốc độ tiến bộ của khoa học càng được đẩy nhanh.
Do có điều kiện tổng họp đầy đủ, kịp thời (cập nhật hóa)
nên dịch vụ thông tin sẽ đáp ứng được nhu cầu thông tin không
ngừng tăng về lượng và chất của NDT. Với hình thức thông tin
thích hợp, nhà khoa học sẽ có điều kiện theo dõi, bao quát toàn
bộ thông tin mà mình quan tâm, từ đó có thể tìm kiếm, lựa chọn
thông tin cần thiết cho mình.
Việc chuyển giao thông tin khoa học ở cấp quốc tế sẽ được
những tổ chức dịch vụ tin học quốc tế đảm nhận: NDT có thể
làm việc trên những máy tính điện tử khác nhau (cả ờ nước khác
nhau, nhàm tận dụng giờ máy khi dân nước đó ngủ chẳng hạn,
để tránh nghẽn mạng do số người truy cập cũng một lúc quá lớn)
bởi máy tính chuyển mạch sẽ biết chọn tin gửi về đâu: sau không
đầy một giây, thông tin được chuyển tới bất cứ điểm nào trong
mạch liên thông (ngày nay, ở ta máy tính bảng khá phổ biến và
cũng đã có thể dùng điện thoại kết nối Internet dễ dàng, tạo điều
kiện hết sức thuận lợi cho các nhà nghiên cứu khoa học biết sử
dụng tối đa những tiện ích của công nghệ thông tin).
Những thông tin chính xác, chẳc chắn, phù họp với yêu
cầu NDT sẽ tạo thành những dòng tin mới, và tác dụng tương hỗ
của các dòng tin khác nhau mở rộng tầm nhìn của nhà khoa học
15
sáng tạo. Ví như bên cạnh dòng tin kinh tế chắc hẳn cũng cân
đến các dòng tin phi kinh tế như: tâm lý học, xã hội học, sinh
học, kỹ thuật học... khi những kiến thức cùa nhân loại đã được
xã hội hóa tới trình độ cao thi những gì là "đường mòn", "cô hủ"
dễ bị phát hiện.
Tin học hoá góp phần đổi mới cách nghĩ và cách làm trong
lao động khoa học sáng tạo. Bởi lẽ đó, đã từng có lúc, có nơi,
không phải không có người sợ "kẻ thù nguy hiểm" này nên đã
ngấm ngầm hay công khai làm chậm trễ việc tin học hoá công
tác tư liệu khoa học, viện cớ này hoặc cớ khác (cả nguyên cớ
khó khăn thiếu thốn về kinh tể)! May thay, cái thời ấy qua rồi!
Do hoàn cảnh lịch sử, hoạt động thông tin KHXH ở nước
ta cho đến nay còn nặng về phân tán. Hiện tượng phi tập trung
hoá hoạt động thông tin - thư viện ở một cơ quan tầm cỡ lớn,
vốn có nhiều thư viện nhỏ ra đời sớm muộn khác nhau, lúc mới
ra đời thường ở những địa điểm khác nhau nên gần như độc lập
với nhau về tất cả các khâu dây chuyền tác nghiệp. Cũng bàn
đến chuẩn nghiệp vụ chung, nhưng vì không có gì là bắt buộc,
nên vẫn tùy điều kiện mà thực hiện (cho đến nay, vẫn có thư
viện chưa dùng MARC 21), ngay cả việc chọn phần mềm thư
viện cũng được quan niệm là tùy thấy "thích hợp".
Người ta chưa dành mối quan tâm xứng đáng để nó có thể
dễ dàng liên thông, nhàm đáp ứng được nhu cầu phong phú của
NDT - những nhà nghiên cứu và giảng dạy KHXH trong và
ngoài nước. Cũng vì thế, nó chưa có khả năng trả lời nhanh
chóng kịp thời và chính xác những câu hỏi mà KHXH Việt Nam
và thế giới đặt ra. Một phần bởi vì nó chưa có điều kiện tiếp cận
16
và nắm.bắt những thông tin cần thiết: nguồn thông tin ngày càng
nghèo đi một cách tương đối (so với kho tài nguyên thông tin
chung của toàn thế giới), phương tiện cất giữ và khai thác thông
tin lạc hậu, không phù hợp với cách quản lý một kho tài nguyên
thông tin hiện đại.
Nhu cầu về thông tin khoa học đã buộc những cơ sở
nghiên cứu và giảng dạy khác nhau (viện nghiên cứu, trường đại
học...) tổ chức dịch vụ thông tin riêng cho mình: ngoài nguồn tài
nguyên thông tin cấp một (sách, bài viết nguyên bản hay dịch...),
một số cơ sở cũng đã tiến hành những dịch vụ thông tin cấp hai
(lược thuật, bình thuật...) và cả những thông tin cấp ba (tổng
thuật báo cáo tình hìnhỗ..).
Sự lãng phí do trùng lặp thông tin cần được báo động:
người ta phải chứng kiến hiện tượng những dịch giả khác nhau
đã phải hao tốn thời gian và trí lực dịch cùng một văn bản, để rồi
chúng được in ra ở những cơ sở cách xa nhau không đầy 10 km.
Đó là mới chỉ nói tới hoạt động sản xuất ra thông tin cấp một.
Việc nhập bổ sung tài nguyên thông tin, nhất là những thông tin
từ nước ngoài tổn kém ngoại tệ nhưng do thiếu một sự chỉ đạo
thống nhất có hiệu quả nên đã dẫn tới tình trạng thông tin cần
thiết thì không nhập được trong khi đó lại có nhiều bản trùng (có
khi ngay trong một cơ sở thông tin - thư viện). Nạn thiếu đói
thông tin lại tồn tại ngay bên cạnh nạn dư thừa thông tin.
Một khi công tác tư liệu khoa học đã được tin học hoá thì
người ta sẽ có thể trả lời ngay cho câu hỏi: có nên nhập (dù là
đặt mua, trao đổi hay nhận dưới dạng quà tặng) một tài liệu nào
đó hay không, để không đến nỗi kho tin thêm chật chội mà vẫn
17
khan hiếm thông tin (Tuy nhiên, cũng còn do người có quyên
quyết định trong việc tạo lập tài nguyên thông tin có ý thức tránh
trùng hay không).
Quản lý được kho tài nguyên thông tin thì cũng quản lý
được các đề tài khoa học, kể cả các hướng nghiên cứu. Việc
tránh khỏi nghiên cứu trùng lặp còn là tiền đề cho việc hợp nhât
thời gian và trí lực của các nhà khoa học trong một hướng đề tài
nghiên cứu chung: thay cho việc cùng sáng tạo (gần như nhau),
người ta đi sâu vào những khía cạnh khác nhau của vấn đề bổ
sung hỗ trợ cho nhau. Hiện nay do hoạt động nghiên cứu phân
tán nên việc quản lý và chỉ đạo từ xa sẽ có hiệu quả kinh tế hơn
quản lý hành chính tại chỗ. Nhờ tin học hoá, nhà chỉ đạo chiến
lược nghiên cứu có thể thấy ngay hiện trạng của tình hình (ai
đang nghiên cứu đề tài gì, ở đâu, khi nào dự định hoàn thành...)
và khi đó một dự án nghiên cứu được thông qua sẽ có đủ cơ sở
khoa học để thực hiện.
Một thông tin cụ thể không nhất thiết lập tức đáp ứng nhu
cầu của nhiều NDT vì thông tin khoa học không phải là thông tin
đại chúng, dù khoa học của chúng ta mang tính đại chúng, cổt để
phục vụ quần chúng. Do vậy người ta khó thấy ngay hết hiệu
quả kinh tế của hoạt động thông tin khoa họcỗ Song xử lý thông
tin cũng tạo ra những nguồn lợi kinh tế. Người ta có thể tính
toán giá thành của nó trong tương quan với hiệu quả và lợi ích
mà nó mang lại để từ đó có một chính sách đầu tư thích đáng
cho hoạt động thông tin khoa học.
Tin học hoá công tác thư viện - tư liệu khoa học chắc chắn
sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho nghiên cứu khoa học
xét từ lợi ích kinh tế của toàn xã hội.
18
3. Đổi mới hoạt động thư viện - tư liệu theo hướng tin học hóa
Những phân tích ở trên cốt để chỉ ra rằng, trong điều kiện
hiện nay, đã cho phép không thể không đổi mới mọi hoạt động
của công tác thư viện - tư liệu khoa học theo hướng tin học hóa.
Khi đã đánh giá đúng tầm quan trọng của dịch vụ thông tin, cần
có một chính sách thông tin khoa học quốc gia và quốc tế có tác
động tốt đến quá trình hoạt động thư viện, nhàm mục đích sử
dụng có hiệu quả tài nguyên thông tin đã có và sẽ bổ sung, phát
triển. Cũng do vậy, không phải không có lý khi có thể nói đến
một cuộc cách mạng đã diễn ra trong hoạt động thư viện,
Trong cuốn Cơ sở của khoa học thư viện và thông tin,
Richard E. Rubin viết: “The rise o f electronic resources, the
Web, and the ability o f digitize print, sound, and visual
information have revolutionnized the concept o f library...” (Sự
nổi lên của tài nguyên điện tử, Web, và khả năng số hóa thông
tin dạng ấn phẩm, âm thanh và hình ảnh (nghe nhìn) đã cách
mạng hóa khái niệm thư viện.. .)(1).
Như thế, không chỉ đơn giản là những thay đổi trong cách
làm (chuẩn nghiệp vụ) mà điều quan trọng hơn là thay đổi trong
quan niệm của xã hội, trong cách chi đạo hoạt động thư viện, kể
cả hoạt động đào tạo, do những kiến thức và kỹ năng cần cho
hoạt động này cũng đã có những sự thay đổi rất căn bản. Tuy
nhiên, những cái đã lạc hậu thì sẽ được truyền đạt trong phần
lịch sử hoạt động thư viện.
(l) The Rise o f the D igital Library and Web Portal: 2000 and Beyond. Trong:
Foundations o f Library and Inforrmation Science.- 2nd Edition.- New York:
Neal-Schuman Publishers, Inc., 2004, p. 95.
19
Nói cách khác, đã đến lúc cẩn có cuộc "cách mạng hóa
irons quan niệm về íhư viện" đẻ thấy hét ý nghĩa khoa học của
siai đoan nàv. thưòĩi2 được sọi là "thư viện hiện đại", với sụ
xuắr hiện cúa ĩhu viện điện tứ. thư viện so, thư viện áo. Nên
chảng sọi tên cho hợp mối là "thư viện thời cLm.
Nsành thu viện irẻn thé 21Ở1 đã vả rtano phái triển không
nsừns. Ớ Việt Nam cho đén nav. vần còn tồn tại cách hoại động
thư viện tnivển thổns (có the xen kẽ. vói nhữns mửc độ 1'hÃr
nhau) ỏ khỏna it noi. Sự chậm phái triền này còn do nhiều
nguvẻn nhản chứ khõns đom thuần là nehèo. vì trên thực te. có
nhiêu nước trên thế giỏi còn nehèo bơn nhưne npành thư viện
của họ v ln phái triẽn hơn chúna la.
Thậl vậy. lý do chinh nhiêu khi lại do chính nhrmo người
có thảm quyền đề đạt hav quvét định chi liêu cho hoạt độns thư
viện chưa quan tám hav chưa có nhận thức đíina mức về những
bước phát triẻn nsành thu viện (nhải là khi chinh họ chưa có nhu
cầu về nhữns dịch vụ ứiư viện hiện đại). Vì thế. người la dễ lầm
tuông khi đã có vài (chục) cái máv vi ảnh trans bị Dối mạng
(nhirns khá năng liên kết thi khi được, khi khỏoa. do máv hons
hoặc do đườnơ truyền)... the là đã hiện đại rồiĩ
Tỏ chức hoại độo£ điêng nn KHXH ĩron£ cá nước theo
hưónơ tin bọc hoá đẻ hình ừiảnh (ĨT002 ĩhực tiễn chứ khỏnơ phải
rrẻn dãv tờ) mộĩ bệ ỉbổD2 thóns tm KHXH quốc áa. dãi croos
—ô: liên bệ 0ICT1£ tác vói các mạng lưới tbóns tin KHXH quốc
:é. hãn sẽ lã mội nhu câu bẻt sức cãp thiẻt lúc nàv. bởi TÓ thưc
sự ir.ană nnh kinh ĩé rỏ rệt-
TẠO LẬP TÀI NGUYÊN THÔNG TIN ĐẬC THÙ
1. Mỗi thư viện tồn tại và phát triển trong đa dạng
Không phải chỉ để hấp dẫn người sử dụng, mà là để tồn tại
trong thể thống nhất nhưng không thể sáp nhập, nhàm duy trì
tính đa dạng trong khác biệt, mỗi thư viện, nhất là thư viện khoa
học - kể cả thư viện đại học - cần sở hữu trong mình (những) bộ
sưu tập tài nguyên thông tin đặc thù.
Tính đặc thù này được thể hiện ở tính đầy đủ, trọn bộ của
vốn sách báo và tài liệu được giao nộp tại thư viện (theo những
quy định hành chính), như Thư viện Quốc gia ở nước ta được
xác định là nơi lưu trữ mọi ấn phẩm xuất bản nộp lưu chiểu và
nơi nhận luận án tiến sĩ (trước đây là phó tiến sĩ) trước khi đưa
ra bảo vệ chính thức (cấp Nhà nước). Như thể, mỗi thư viện ở
địa phương cần sở hữu cho được bộ sưu tập tài nguyên thông
tin đã công bố về địa phương mình (kể cả khi chúng được công
bố ở nơi khác), phục vụ mọi nhu cầu tìm hiểu và khảo cứu về
địa phương.
Nhằm phục vụ những nhu cầu tìm kiếm thông tin chuyên
biệt của nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập ở bậc đại
học và sau đại học, thư viện khoa học và thư viện đại học cần sở
hữu cho được bộ sưu tập tài nguyên thông tin quý hiếm về một
số lĩnh vực, chuyên ngành được xác định, phù họp với cơ sở
nghiên cứu và đào tạo (nhờ ưu thế riêng) mà ít nơi có được, hay
những nơi khác cũng có thể có nhưng thường không đầy đù,
thiếu hệ thống, không thành bộ, đủ tập...
21
Chúng tôi xin chia sẻ ý kiến của GS Triết học Trân Văn
Đoàn (Đại học Quốc gia Đài Bẳc) trong buổi nói chuyện tại
Viện Thông tin KHXH (ngày 13/01/2006) cho rằng mỗi thư viện
cần chú trọng đến việc bảo tồn và xây dựng vốn tư liệu đặc thù
của mình và trọng tâm bảo tồn khiến cho thư viện khác không có
mà chỉ đây có, và một thư viện không quá nhiều trọng tâm để trờ
thành tạp hóa!
Tuy nhiên, vốn tài nguyên thông tin thu thập không chi cần
được lưu giữ tốt, mà còn cần được xử lý nhờ kỹ thuật hiện đại,
sao cho NDT dễ dàng tiếp cận nhất (chứ không phải chỉ nằm
nguyên trong kho, kể cả kho thông tin điện tử)ễ Nói cách khác là
làm sao để cả các nguồn tài nguyên thông tin này không chỉ
được thu nhận, bảo quản tốt mà chúng phải được khai thác có
hiệu quả tối đa, phục vụ cho các hoạt động xã hội như tìm hiểu
về địa phương hay công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Ở đây, xin đi sâu phân tích các nguồn tài nguyên thông tin
đặc thù ở một thư viện khoa học.
2. Ba nguồn tài nguyên thông tin đặc thù
Tài nguyên thông tin đặc thù của một thư viện có thể hình
thành từ ba nguồn chính: kế thừa, thu thập (sưu tầm, mua và trao
đổi), và các sản phẩm nội sinh.
2.1. Nguồn tài nguyên thông tin đặc thù do kế thừa
Nguồn tài nguyên đặc thù do kế thừa thì không phải thư
viện nào cũng may mắn có được. Đó là những tài liệu được
chuyển giao lại từ những tổ chức tiền thân hoặc tiếp quản.
22
Chẳng hạn như vốn sách báo, tư liệu khoa học về Phương
Đông mà thư viện cùa Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp - EFEO
(có trụ sở tại Hà Nội từ năm 1902) bàn giao lại cho Việt Nam
năm 1957, hiện còn được lưu giữ tại Thư viện KHXH, hay
những văn bản Hán Nôm về sau được giao lại cho Thư viện
Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Trên thực tế, không phải là tất cả các tài liệu được lưu giữ
ở đây đều có giá trị như nhau. Để đánh giá mức độ quý hiếm,
cần thấy được giá trị khoa học (đương thời và cho đến nay) của
những nghiên cứu đã được công bố, và thời gian xuất bản đã
khiến cho một số công trình nghiên cứu có giá trị đi tiên phong
hoặc đánh dấu mốc lịch sử mà người đi sau không thể không
nhắc tới, đó là giá trị lịch sử. Đáng mừng là cho đến nay, bước
đầu bạn đọc đã có thể khai thác tài liệu nhờ việc tra cứu CSDL
mới được xây dựng cho kho tài nguyên thông tin đặc thù này.
Xin nói đến tính đặc thù của những thông tin ở hai kho
OCTO và QTO do EFEO để lại làm ví dụ.
Trước hết, có thể tìm thấy ở đây những nghiên cứu mang
tính mở đàu nhưng không kém phần sâu sắc của một số tác giả
mà các thế hệ đi sau thường nhắc tới, như: Bonifacy, R. p.
Cadière, R. PỂJean Cassaigne, G. Coedès, Gustave Dumoutier,
A. G. Haudricourt, L. Sabatier, F. M. Savina,...
Phần khá lớn tài liệu ờ hai kho này có liên quan đến 5 xứ
Đông Dương thuộc Pháp trước đây, theo cách gọi tiếng Việt
đương thời là Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao Miên.
23
v ề nôi dung các chuyên ngành mà tài liệu có liên quan tới
rất đa dạng: Không chỉ có những nhận xét phân tích sự phát triên
kinh tế qua các thời kỳ, về giáo dục ở Việt Nam xưa và sự tiếp
nhận học thức phương Tây ở nước ta đầu thế kỷ XX, đã có
những khảo cứu rất công phu về lịch sử, khảo cổ học, pháp luật
và luật lệ làng xã, về văn hoá vật thể: trang phục, nhà ở,... và
văn hoá phi vật thể: phong tục, tập quán, lễ hội, nghi lễ tôn giáo,
về địa lý y học, về quân sự, bao gồm cả nhật ký chiến sự, về
nhân học và dân tộc học, và ngôn ngữ các tộc người miền Bấc
như: Mường, Tày, Nùng, Thái, Mèo (H’mong),... và các tộc
người ở Tây Nguyên như: Ba Na, Ê Đê, Kơ Ho, M ’nong...
Có thể xem đây như tài nguyên thông tin đặc thù vì đó là
những tài liệu ít nơi còn lưu giữ được, nếu không nói có những
tài liệu thuộc loại là độc nhất vô nhị, do vậy không chỉ bạn đọc
là các nhà nghiên cứu trong nước mà bạn đọc nước ngoài như
Nhật Bản, Pháp, Thụy Điển, Nga, Mỹ, Hàn Quốc... cũng đã
từng tìm đến khai thác (theo tư liệu của Phòng Công tác bạn đọc,
từ đâu 04/3/2003 đên 30/01/2007, đã có 466 tài liệu về lịch sử,
văn học cổ cận đại, ngôn ngữ, tôn giáo,.ắ. thuộc hai kho này
được đưa ra phục vụ bạn đọc tại chỗ).
2.2ẽ Nguồn tài nguyên thông tin đặc thù do thu nhập
Nguồn tài nguyên thông tin đặc thù này là do nhiều cách
thu thập: sun tầm, mua được bằng việc sử dụng nguồn kinh phí
được cấp, và trao đổi hoặc biếu tặng mà có, bao gồm cả những
địa chỉ truy cập miễn phí hay có thu phí, chẳng hạn như tai
httpỄ
-//www. issi■goV. vn/, bạn đọc có thể tra cứu các CSDL và tap
chí trực tuyến dưới đây:
24
• Cơ sở dữ liệu trực tuyến EBSCO (Chương trình PERI)
Bạn đọc có thể truy cập 6 CSDL toàn văn bao gồm nhiều
loại tạp chí, sách, báo, ảnh, bản đồ... thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau của nhà cung cấp thông tin hàng đầu trên thế giới EBSCO.
• Tạp chí khoa học do Dự án JDP tài trợ
Bạn đọc có thể đọc bản in của gần 70 tạp chí tiếng Anh về
Khoa học xã hội tại Phòng Báo - Tạp chí của Thư viện KHXHỖ
• Tạp chí trực tuyển truy cập mở - DOAJ
Bạn đọc có thể truy cập miễn phí toàn văn 2662 tạp chí
khoa học của nhiều trường đại học, viện nghiên cứu và các cơ
quan tổ chức khác trên thế giới.
• Tạp chí trực tuyến xuất bản tại Châu Phi
Bạn đọc có thể truy cập CSDL về các tạp chí khoa học
được xuất bản ờ các nước Châu Phi.
Mỗi thư viện cần có những kho tài nguyên thông tin về
một sổ chủ đề then chốt nhất định. Chẳng hạn như thư viện
KHXH không thể thiếu những công trình tiêu biểu và nổi tiếng
thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn (KHXH và
NV). Như vậy, thư viện ngôn ngữ thì không thể thiếu các công
trình tiêu biểu và nổi tiếng về ngôn ngữ học, thư viện dân tộc
học thì không thể thiểu các công trình tiêu biểu và nổi tiếng về
dân tộc h ọ c..ể
Câu chuyện tường như đơn giản nhưng không dễ thực hiện
trong cơ chế hoạt động hiện nay, khi mà nền kinh tế thị trường
len lỏi vào khắp ngõ ngách của cuộc sống, có thể chế ngự mọi
thứ, kể cả khâu bổ sung sách báo cho một thư viện.
25
Khó khăn của thời bao cấp không còn, song kinh nghiệm
cho thấy ràng việc tiếp cận và triển khai thực hiện để sao cho có
được đày đủ - và kịp thời - các bộ sưu tập - bàng giây hay điện
tử - cần sở hữu không phải lúc nào cũng dễ dàng, cho dù có đủ
nguồn tài chính, một khi người chăm lo “đầu vào” lại không có
những hiểu biết tối thiểu về những tài nguyên thông tin khoa học
chuyên ngành nhất thiết cần bổ sung cho được, và/hoặc thiếu
lòng yêu nghề.
Do biết tập trung theo một chiến lược bổ sung phục vụ tối
ưu cho nghiên cứu và đào tạo, vốn tài nguyên thông tin ở một số
thư viện chuyên ngành thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
không những phong phú, mà còn sở hữu không ít tài liệu quý
hiếm, kể cả tài liệu xuất bản ngay trong nước, trong khi hai thư
viện lớn nhất của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam - trong đó có
Thư viện KHXH - lẽ ra cần có mà lại không có được. Theo dõi
vốn tài liệu thông qua CSDL sách mới nhập về các thư viện
thuộc Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (được xây dựng từ 1998
đến nay đã tích hợp được hom 100 ngàn biểu ghi) thì thấy ngay
điều này.
Tuy nhiên, về nguồn tài nguyên đặc thù chủ yếu là do trao
đổi và biếu tặng, như kho sách tiếng Nga ở Thư viện KHXH - là
nguồn bổ sung chính và mỗi năm một tăng, trong khoảng thời
gian từ 1970 đến 1989. Ngoài các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa
Mác - Lênin cần cho tham khảo là những nghiên cứu khoa học
tổng hợp, chuyên khảo về một bộ môn khoa học riêng biệt, tuyển
tập các công trình nghiên cứu. Và theo khảo sát của Đào Duy
Tân, nguồn tài nguyên này “cho chúng ta thây bức tranh toàn
cảnh về hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học, các trường
26
đại học..., về quy mô nghiên cứu, về lực lượng hùng mạnh của
đội ngũ các nhà khoa học..., đồng thời khẳng định trường phái
khoa học Xô Viết trong gần một thế kỷ tồn
Có lần, một
học giả nước ngoài nói với chúng tôi đây quả là một kho thông
tin rất quý, cho những ai muổn tìm hiểu về Liên Xô cũ. Và cũng
có nhà nghiên cứu từ Nga đến thăm đã từng chia sẻ: Ở bên đó,
ông cũng không dễ tiếp cận đầy đủ các loại tạp chí khác nhau
đến như vậy.
Với những thư viện chuyên ngành, việc thu thập tài nguyên
thông tin đặc thù cần được xây dựng thành chương trình, đề án để có nguồn tài chính thích hợp. Có những tư liệu vô giá - cần
cho nghiên cứu lâu dài, nếu không thu thập kịp thời, để mất đi là
có thể sẽ mất vĩnh viễn. Chưomg trình về sưu tầm, bảo quản, mã
hỏa, nghiên cứu khai thác chữ viết cổ truyền của các dân tộc
thiểu sổ ở Việt Nam (cấp Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, do
Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ trì) là ví dụ.
Thành quả của công việc sưu tầm nghiên cứu và phối kết
hợp với các địa phương theo Chương trình này là đã sưu tầm
được hàng ngàn văn bản viết bàng Hán Nôm các dân tộc thiểu số
ở Việt Nam, với nội dung rất phong phú, gồm nhiều chủng loại
khác nhau, như: hát, truyện thơ, y dược, tôn giáo, sách dạy học...
Sách về hát có hát sli và lượn của người Tày, người Nùng, hát
then và ca đám cưới của người Tày, hát giao duyên nam nữ của
người Dao. Các truyện thơ Nôm như: Đinh Quân truyện, Kim
Quế truyện, Lưu Đài - Hán Xuân, Toọng Tương truyện... Sách y
ạ)vốn tài liệu tiếng Nga
tại Thư viện Khoa học X ã hội. Tạp chí Thông tin KHXH,
số tháng 8/2007, tr. 39-44.
27