Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn ngoại thành hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (976.15 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
_____________

NGUYỄN ĐỨC HOÀN

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Hà Nội, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
_____________

NGUYỄN ĐỨC HOÀN

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
TỪ THỰC TIỄN NGOẠI THÀNH HÀ NỘI
Chuyên ngành Phát Triển Bền Vững
Mã số: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VŨ QUỐC HUY


Hà Nội, 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn đến tất cả các thầy, cô tại Khoa
Phát triển bền Vững của Học Viện trong chương trình đào tạo Thạc sĩ về khoa học phát
triển bền vững.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến TS. Vũ Quốc Huy đã tận
tình hướng dẫn và giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn. Với những
chỉ dẫn và sửa chữa cụ thể của thầy đã giúp tôi hoàn thành luận văn và cho tôi nhiều kinh
nghiệm trong nghiên cứu khoa học.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Viện Nghiên cứu Phát triển Bền
vững Vùng đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia khóa đào tạo thạc sĩ này, và đã cho
phép tôi tham gia các dự án của viện để tôi có thể có kinh nghiệm, kiến thức và cơ hội
thực hiện luận văn này.
Mặc dù bản thân tôi đã có sự nỗ lực cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và
kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chưa nhiều, nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý xây dựng và ủng hộ của quý thầy cô giáo để luận văn
của tôi được hoàn thiện hơn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Đức Hoàn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................. 1
Chương 1 ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG ......................... 12
1.1. Các khái niệm ......................................................................................................... 12
1.2. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển đô thị bền vững .................................. 18

1.3. Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 26
Chương 2 PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TỪ THỰC TIỄN NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI ................................................................................................................................. 28
2.1. Tổng quan quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội.......................................... 28
2.2. Thực trạng phát triển bền vững về kinh tế ............................................................ 31
2.3. Thực trạng phát triển bền vững về xã hội và văn hóa ........................................... 40
2.4. Thực trạng phát triển bền vững về môi trường ở hai làng Triều Khúc và An
Khánh ........................................................................................................................... 49
2.5. Đánh giá chung những tác động của đô thị hóa đến An Khánh và Triều Khúc ... 55
2.6. Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 57
Chương 3 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG Ở NGOẠI THÀNH
HÀ NỘI ................................................................................................................................. 59
3.1. Bối cảnh phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn ngoại thành Hà Nội. ................. 59
3.2. Quan điểm và định huớng chính sách phát triển đô thị bền vững......................... 63
3.3. Một số kiến nghị về phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn ngoại thành Hà Nội 74
3.4. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................. 76
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 80


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Tình hình trồng trọt ở Triều Khúc và An Khánh (%) ...............................31
Bảng 2.2. Tương quan nhóm tuổi và công việc lâu dài (%) .....................................32
Bảng 2.3. Tương quan học vấn và công việc ổn định lâu dài (%) ............................33
Bảng 2.4. Tương quan giữa học vấn và thu nhập (%) .............................................34
Bảng 2.5. Tương quan giữa đánh giá mức thu nhập và sự ổn định của công việc
(%) .............................................................................................................................35
Bảng 2.6. Trợ giúp của chính quyền địa phương cho hoạt động kinh doanh (%) ....36
Bảng 2.7. Tình trạng việc làm ở Triều Khúc và An Khánh (%) ...............................37

Bảng 2.8. Cơ cấu việc làm chính ở Triều Khúc và An Khánh (%) ..........................37
Bảng 2.9. Thay đổi thu nhập so với 5 năm trước (2010-2016) (%) ...........................39
Bảng 2.10. Thay đổi thu nhập gia đình (%).................................................................39
Bảng 2.11. Nơi sinh của những người được phỏng vấn tại Triều Khúc và ..................42
An Khánh (%) ............................................................................................................42
Bảng 2.12. Tình trạng nhà ở hiện nay so với 5 năm trước đây (%)..............................43
Bảng 2.13. Trình độ học vấn theo mẫu điều tra của Triều Khúc và An Khánh (%) .....44
Bảng 2.14. Sự tiếp cận các dịch vụ học tập và đào tạo của hộ gia đình (%).................45
Bảng 2.16. Sự thay đổi thói quen giải trí ở hai làng Triều Khúc và An Khánh (%) .....47
Bảng 2.17. Những thay đổi về chất lượng môi trường ở Triều Khúc và An Khánh (%)
...................................................................................................................................50
Bảng 2.18. Số lần tổng vệ sinh/tuần ............................................................................53
Bảng 2.19. Cách xử lý rác thải (%) .............................................................................53
Bảng 2.20. Sự thay đổi ý thức của người dân (%) .......................................................54
Bảng 2.21. Vứt rác ra đường làng (%) ........................................................................54


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình đô thị hóa ở nước ta hiện nay không chỉ diễn ra ở các thành phố,
nhất là các thành phố lớn như tp. Hà Nội và tp. Hồ Chí Minh và các thành thị vừa
và nhỏ như các thị xã, thị trấn, mà còn diễn ra ở cả khu vực nông thôn như là một hệ
quả tất yếu của sự phát triển đô thị hay quá trình đô thị hóa dưới tác động của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Các đô thị lớn là
những cực tăng trưởng chính của đất nước và vùng, trong khi các đô thị vừa và nhỏ
có vai trò lan truyền ảnh hưởng về mọi mặt của các đô thị lớn ra các vùng nông thôn
ven đô và xa hơn. Sự phát triển của các đô thị vừa và nhỏ với tư cách là các đô thị
vệ tinh vì thế luôn đặt ra những vấn đề về quá trình đô thị hóa nông thôn mà ảnh
hưởng của nó đang là một trong những vấn đề cấp bách cần nghiên cứu hiện nay.
Bởi vì quá trình đô thị hóa hiện nay không chỉ có vai trò động lực thúc đẩy

sự biến đổi, tăng trưởng về kinh tế ở cả đô thị và nông thôn mà còn có thể có những
tác động tiêu cực đến sự phát triển bền vững của cả nước trong hiện tại và tương lai.
Vì thế việc nghiên cứu sự tác động qua lại giữa hai quá trình đô thị hóa và phát triển
bền vững đã trở thành nhu cầu cấp thiết không chỉ của từng địa phương hay khu vực
mà còn của cả nước.
Nghị quyết Đại hội đảng lần thứ XII nêu rõ: “vấn đề Đổi mới cơ chế, chính
sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch.
Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thân
thiện với môi trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và nhỏ liên kết và
phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi, phát triển mạnh
các đô thị ven biển. Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng lực cạnh tranh của
các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô thị động lực phát
triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng, đô thị di sản, đô thị sinh thái, đô thị du lịch,
đô thị khoa học”.
Trong khuôn khổ những nhiệm vụ nghiên cứu của “Viện nghiên cứu và phát
triển bền vững Vùng” những năm qua, tôi đã được tham gia vào các đề tài nghiên

1


cứu về đô thị hóa ở khu vực ngoại thành Hà Nội. Vì thế việc lựa chọn đề tài luận
văn cao học: “Phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn ngoại thành Hà Nội” là dựa
trên những kinh nghiệm nghiên cứu của cá nhân và qua đó góp phần vào công việc
nghiên cứu lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực này.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi các khái niệm về phát triển bền vững đã được mở rộng từ toàn cầu đến địa
phương, đô thị bền vững đã trở thành một cụm từ thông dụng của các học giả, các
phương tiện truyền thông và công chúng nói chung. Trong báo cáo của Trần Minh
và cộng sự (2012)[32] cũng chỉ cho ta thấy rõ ở Việt Nam, các nghiên cứu về đô thị
bền vững đều chủ yếu tập trung vào việc định nghĩa, thành tựu và đánh giá phát

triển bền vững ở cấp địa phương. Như vậy các nghiên cứu sâu về phát triển đô thị
bền vững còn nhiều khiêm tốn.
Theo một định nghĩa của World Bank, đô thị bền vững là đô thị được xây
dựng dựa trên sự phối hợp tích cực, cũng như phụ thuộc ngày càng tăng về kinh tế
và sinh thái. Tuy nhiên, World Bank cho rằng: tùy thực tế phát triển đô thị ở mỗi
quốc gia mà định nghĩa chung này có thể được điều chỉnh cho phù hợp.
Trên cơ sở phát triển bền vững, phạm trù phát triển bền vững đô thị cũng được
xây dựng và mang tính đặc thù hơn. Theo Viện Quy Hoạch Đô Thị-Nông Thôn cho
rằng, phát triển bền vững đô thị tập trung giải quyết các vần đề: (i) Phát triển kinh tế
đô thị ổn định, tạo công ăn việc làm cho dân cư đô thị, đặc biệt cho người có thu
nhập thấp, người nghèo đô thị, (ii) Đảm bảo đời sống vật chất văn hóa tinh thần, giữ
gìn bản sắc truyền thống dân tộc, đảm bảo công bằng xã hội (iii) Tôn tạo, giữ gìn và
bảo vệ môi trường đô thị luôn xanh, sạch, đẹp với đầy đủ ý nghĩa vật thể và phi vật
thể đô thị. Với đặc thù của một đô thị, phát triển đô thị bền vững có thể được hiểu là
“mối quan hệ hữu cơ, mật thiết giữa: A) Kinh tế đô thị; B) Văn hóa xã hội đô thị;
C) Môi trường - Sinh thái đô thị; D) Cơ sở hạ tầng đô thị và E) Quản lý đô thị”.
Báo cáo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (1990) cũng cho thấy, quá
trình đô thị hóa không phải là một sự khủng hoảng, mà nó chỉ là một thách thức đối
với tương lai. Quá trình đô thị hóa tạo ra nhiều thuận lợi và bất lợi cần được phân

2


tích, mặc dù, đô thị hóa là con đường văn minh của loài người. Nhiều lợi ích thu
được từ quá trình đô thị hóa, nhưng con người cũng phải trả giá không ít vì những
bất lợi đó và con đường tốt nhất để tránh được thách thức này là xây dựng sự phát
triển bền vững cho đô thị.
Trong thực tế, quá trình phát triển Hệ thống đô thị Việt Nam đang đối mặt
với nhiều thách thức: tốc độ tăng trưởng và đô thị hóa cao đã dẫn đến sự mất cân
đối trong khả năng đáp ứng của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, tắc nghẽn

giao thông, thiếu chiếu sáng tại nhiều đô thị, môi trường đô thị ô nhiễm, xử lý nước
thải sinh hoạt; nước thải sản xuất tại nhiều đô thị chưa tốt, chất thải chôn lấp chưa
hợp vệ sinh, khí thải; tiếng ồn trong đô thị, khả năng dự báo của công tác quy hoạch
chưa đáp ứng xu thế phát triển đô thị, phát triển các khu đô thị mới chưa phù hợp,
kết nối hạ tầng giữa các khu đô thị chưa được quan tâm, hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ
thuật và hạ tầng xã hội triển khai chậm, thiếu đồng bộ, lãng phí đất đai trong các đô
thị chưa được khắc phục, hiệu quả đầu tư xây dựng còn thấp…
“Quan niệm về Phát triển bền vững đô thị và những vấn đề đặt ra cho phát
triển bền vững thủ đô và Hà Nội hiện nay” trong khuôn khổ hội thảo khoa học quốc
tế kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội do TS Đoàn Minh Huấn phân tích Xu
hướng đô thị hoá làng xã là một đặc trưng của quá trình đô thị hoá đối với đô thị
hiện đại. Song quá trình này đặt ra nhiều vấn đề cho sự phát triển đô thị theo đúng
nghĩa của nó về: cơ chế và tổ chức vận hành của bộ máy hành chính đô thị và tư
duy quản lý, quy hoạch đô thị, lối sống của công dân từ "làng xã ra đô thị".... Quá
trình đô thị hoá diễn ra với đặc điểm trên, đô thị Hà Nội đang phải đang đối mặt với
những thách thức cho sự phát triển bền vững: Mật độ xây dựng cao, diện tích và
chất lượng nhà ở chưa đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hệ thống hạ tầng kỹ
thuật không đồng bộ, chắp vá như hệ thống giao thông, mạng lưới cấp điện, cấp
nước, hệ thống tiêu thoát nước mưa và nước thải... Sự phát triển của hệ thống kỹ
thuật luôn là một sự đối phó với tình trạng gia tăng dân số và sự mở rộng không
gian đô thị không được chuẩn bị trước. Những làng truyền thống, nghề truyền
thống, những phong tục, tập quán và truyền thống văn hoá địa phương, những giá

3


trị văn hoá tinh thần được duy trì từ đời này sang đời khác đang dần bị mai một do
tăng dân số cơ học quá cao, các làng xã bị đô thị hoá nhanh. Đô thị chỉ có thể phát
triển bền vững khi nó được vận hành theo đúng nguyên tắc là sự thống nhất hữu cơ
của sự phát triển bền vững các mặt: kinh tế, xã hội, môi trường trong một khuôn

khổ thể chế phù hợp để thúc đẩy sự phát triển hài hoà với sự đồng thuận của các
thành phần xã hội, nhằm nâng cao chất lượng sống của thế hệ hiện tại mà không
làm ảnh hưởng nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai.
“Đô thị hoá vùng ven đô – nghiên cứu sự biến đổi kinh tế - xã hội qua trường
hợp xã Bà Điểm (Hóc Môn) và Vĩnh Lộc A (Bình Chánh)” của TS. Trương Hoàng
Trương thuộc Đại Học Khoa học Xã Hội Nhân Văn phân tích về tác động của chủ
trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vùng nông thôn kế cận các thành phố lớn
đang trở thành địa bàn của các khu công nghiệp, nhà máy, khu dân cư; Đa số là
nông dân phải chuyển đổi nghề nghiệp khi phần lớn ruộng đồng và khung cảnh sản
xuất nông thôn không còn nữa. Nhiều người phải đoạn tuyệt với nghề nông, tìm
nghề mới, bắt đầu một hình thức sản xuất mới; Vùng chịu tác động về việc tăng dân
số cơ học, phải tiếp nhận dân cư, từ các nơi khác đến và từ nội thành giãn ra, tính
thuần nhất của cư dân nông thôn bị phá vỡ. Một bức tranh dân cư mới với nhiều
thành phần, nhiều nguồn xuất cư, tôn giáo, dân tộc xuất hiện, đem đến nhiều vấn đề
về xã hội, văn hóa; Cư dân phải chuyển đổi lối sống - một kết quả hiển nhiên của sự
kiện chuyển đổi nghề nghiệp.
“Đô thị Việt Nam trong thời kỳ quá độ” do Viện đào tạo chuyên ngành đô thị
Hà Nội ấn bản năm 2006 đánh giá phân tích những thách thức của quá trình phát
triển đô thị của Việt Nam dưới hai áp lực kinh tế và dân số, một mặt do sự chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa
và mặt khác do dân số đô thị tăng nhanh. Hội nhập quốc tế và đô thị hóa nhanh,
phát triển kinh tế như vũ bão , phân quyền/ phân cấp quản lý đô thị, hiện đại hóa
hình thức xây dựng nhưng chưa kiểm soát tốt việc đô thị hóa vùng ven đô, biến đổi
trong quan lý dịch vụ đô thị v.v... là những đòi hỏi chính quyền địa phương phải
tăng cường kỹ năng quản lý công trình đô thị.

4


Bài viết “Vấn đề phát triển đô thị bền vững” do PGS.TS. Tôn Nữ Quỳnh

Trân thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Khoa học xã hội tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Trung Tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển. Bài viết phân tích
đô thị hóa làm tăng thêm các vấn đề của xã hội đô thị như tội phạm, sự nghèo đói,
không có việc làm, xung đột xã hội, ma túy, ô nhiễm…..và một loạt vấn đề khác mà
người ta gọi chung là “ Khủng hoảng đô thị”. Cuộc khủng hoảng này được thể hiện
rõ rệt với các hiện tượng: 1/ Sự phân tầng xã hội ngày càng sâu sắc; 2/ Môi trường
bị ô nhiễm nặng nề; 3/ Các tệ nạn xã hội tăng trưởng nhanh; 4/ Cuộc sống văn hóa
bị rối loạn. Trong trào lưu của tư tưởng phát triển bền vững, và với mục tiêu trên,
các nhà khoa học áp dụng tư tưởng phát triển bền vững vào lĩnh vực phát triển đô
thị.
Bài viết “Tác động của công nghiệp hóa và đô thị hóa đến sinh kế nông dân
việt nam: trường hợp một làng ven đô Hà Nội” của tác giả Nguyễn Văn Sửu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích
nghiên cứu về thu hồi đất nông nghiệp và phân tích các tác động của nó đối với
cuộc sống của người nông dân, đặc biệt là với sinh kế của họ ở một làng ven đô Hà
Nội từ cuối những năm 1990. Tác giả phân tích việc thu hồi quyền sử dụng đất nông
nghiệp của nhà nước đã tạo ra những tác động quan trọng về kinh tế, xã hội, văn
hóa và chính trị đối với người nông dân bị thu hồi đất để phục vụ cho các mục đích
công nghiệp hóa và đô thị hóa. nghiên cứu này ứng dụng khung sinh kế bền vững
(sustainable livelihoods framework) để phân tích tiếp cận đất đai, thu hồi quyền sử
dụng đất và tác động của nó đối với các hộ gia đình nông dân ở Việt Nam.
Bài tham luận của PGS.TS. Ngô Thắng Lợi tại Hội thảo “Phát triển bền vững
thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” về “Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ
góc độ phát triển bền vững” đánh giá đô thị hóa Hà Nội theo hướng bền vững là quá
trình kết hợp chặt chẽ, hài hòa của 3 mặt phát triển kinh tế - xã hội và môi trường.
Mục tiêu kinh tế: đạt được sự tăng trưởng cao và ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý
hiện đại; phát triển dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, theo hướng ưu tiên các lĩnh
vực công nghệ cao, hiệu quả kinh tế lớn, ít gây ô nhiễm môi trường, phù hợp với

5



hội nhập kinh tế quốc tế. Quá trình đô thị hóa nói riêng và phát triển Hà Nội nói
chung phải bảo đảm cho Hà Nội phát triển ổn định và bền vững kinh tế; trình độ
dân trí và nguồn nhân lực; trình độ quản lý đô thị; dịch vụ đô thị; cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và xã hội; đô thị sinh thái.
Khi cụm từ phát triển bền vững xuất hiện, nó được coi như một nền tảng
cơ sở lý luận về phát triển, với 3 trụ cột quan trọng được đề xuất trước tiên “Kinh tế
- xã hội – môi trường”, và được vận dụng lan tỏa trong các ngành, các lĩnh vực, các
vùng, địa phương…Các nội dung của phát triển bền vững được nhân rộng trong các
nghiên cứu phát triển. Với những thể hiện mũi nhọn về vai trò quan trọng của các
đô thị, cùng với những thách thức trong chiến lược phát triển hệ thống đô thị; cụ thể
những hệ lụy trong tốc độ đô thị hóa, dẫn đến việc cần phải nghiên cứu sâu về vấn
đề phát triển đô thị bền vững, nhằm đáp ứng phù hợp với nhu cầu phát triển hiện tại
và giải quyết những kịch bản trong tương lai.
Mặc dù các công trình khoa học; dự án; chương trình, các kết quả nghiên
cứu về phát triển đô về đô thị trong phần tổng quan nêu trên chưa cho thấy có sự
nghiên cứu đặc thù về phát triển đô thị bền vững vùng ngoại thành, vùng ven đô Hà
Nội nhưng cho thấy các vấn đề về lý luận hầu như đều xuất phát từ các nguyên tắc
và nội dung cơ bản của phát triển bền vững làm cơ sở cho nghiên cứu phát triển đô
thị bền vững. Cùng với các vấn đề trong thực tiễn về phát triển đô thị, với các mục
tiêu, định hướng, các giải pháp, các nhóm tiêu chí được đưa ra ở các quan điểm trên
nhằm khắc phục những khiếm khuyết, thách thức hiện tại đối với các đô thị…được
coi như như là những luận cứ quan trọng để nghiên cứu, triển khai xây dựng hoàn
thiện các chỉ số phát triển đô thị bền vững trong tương lai.
Trong khuôn khổ của luận văn cao học này, người viết sẽ cố gẳng tìm hiểu
những tác động qua lại giữa quá trình đô thị hoá và sự phát triển về kinh tế, xã hội
và môi trường của vùng ven đô thị Hà Nội trong đó sự biến đổi vận động và phát
triển của các yếu tố kinh tế , xã hội và thay đổi về môi trường được xem như là
động lực chủ yếu cho sự phát triển toàn diện này. Tính chất bền vững của sự phát
triển này sẽ được xem xét và đánh giá theo từng yếu tố hay lĩnh vực cũng như trên


6


tính tổng thể của nó. Tốc độ đô thị hóa phải tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh
tế, tránh các quyết định đô thị hóa vô cớ, đô thị hóa ồ ạt, dẫn đến các dự án đô thị
hóa thiếu khả thi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hóa và sự phát triển bền
vững của các vùng ven đô qua trường hợp của thủ đô Hà Nội
3.2. Mục tiêu cụ thể
 Xác định những thay đổi về kinh tế và tính bên vững của các quan hệ và hoạt
động kinh tế ven đô thị.
 Phân tích những thay đổi về xã hội, văn hóa và lối sống của của người dân
ven đô trong quá trình đô thị hóa.
 Những thay đổi trong nhận thức và hành vi xã hội của người dân trong bảo
vệ môi trường bền vững.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình đô thị hóa và sự phát triển bền vững ở hai xã ven đô của thành phố
Hà Nội
4.2. Khách thể nghiên cứu
Người dân vùng ven đô thị trong quá trình đô thị hóa.
4.3. Không gian nghiên cứu
Không gian nghiên cứu của luận văn bao gồm tất cả các xã ngoại thành Hà
Nội. Do những hạn chế về thời gian và điều kiện nghiên cứu, luận văn sẽ tập trung
vào các nghiên cứu so sánh trên địa bàn của hai xã là An Khánh và làng Triều Khúc
- Tân Triều. Sự lựa chọn hai làng thuộc hai xã này đại diện cho hai loại hình đặc

thù của quá trình đô thị hoá ở Việt Nam hiện nay: Làng An Khánh thuộc mô hình
đô thị hóa nảy sinh từ các quyết định hành chính và những tác động từ bên ngoài ;
làng Triều Khúc thuộc mô hình đô thị hóa tự thân gắn với sự biến đổi của cơ cấu xã
hội kinh tế từ bên trong.

7


An Khánh là xă mới bắt đầu đô thị hoá từ những năm 2000 trở lại đâyvà sự
tác động của đô thị hóa chủ yếu từ bên ngoài hay từ các quyết định hành chính. Do
quá trình đô thị hóa ở đây chỉ mới bắt đầu từ các quyết định hành chính và những
tác động của công nghiệp hóa cũng chủ yếu đến từ bên ngoài thông qua sự quy
hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn xã nên những khó khăn chính của địa
phương này là sự thiếu hụt của cả hai yếu tố tạo nên sự biến đổi bên trong của nó.
Vì thế, địa phương này sẽ phải đồng thời tìm cách thúc đẩy cả hai quá trình này và
kết hợp chúng một cách hiệu quả nhất.
Triều Khúc thuộc Tân Triều là xã đã trải qua quá trình công nghiệp hoá tự
phát từ nhiều chục năm trước đây. Hiện nay hầu hết các hộ gia đình trong xã, nhất
là ở làng Triều Khúc đều đã phi nông hoá, không còn làm nông nghiệp mà chuyển
sang thủ công nghiệp với ngành nghề chính là tái chế rác thải và sản xuất các mặt
hàng gia dụng với mô hình doanh nghiệp tư nhân và gia đình là chính, có đầu tư các
công nghệ và phương tiện sản xuất hiện đại nhu các loại máy móc, ngoài ra còn có
nhiều hộ gia đình chỉ làm kinh doanh dịch vụ sản xuất. Nhưng vì những giới hạn địa
lý và hành chính của một xã nông thôn nên quá trình đô thị hoá của nó gặp nhiều
khó khăn nhất là về bảo vệ môi trường và tổ chức xã hội.
4.4. Thời gian nghiên cứu
Luận văn sẽ giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2004 đến 2016.
4.5. Phạm vi vấn đề nghiên cứu
Phạm vi vấn đề nghiên cứu tập trung vào hiện trạng của các quá trình đô thị
hoá và những biến đổi trên các mặt kinh tế, xã hội, và môi trường ở các địa phương

được nghiên cứu, nhằm tìm hiểu những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình
đô thị hoá đến sự phát triển bền vững của các vùng ven đô và đưa ra một sô khuyến
nghị cho những thay đổi trong tương lai tới đây.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được tiến hành dựa trên hai phương pháp luận nghiên cứu cơ bản :
phương pháp luận nghiên cứu xã hội học, cụ thể là phương pháp nghiên cứu xã hội

8


học đô thị về hiện tượng đô thị hóa ở các vùng ven đô được xem là đặc trưng của
quá trình đô thị hóa hay « quá độ đô thị » ở các nước đang phát triển, chủ yếu là các
nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Quá trình đô thị hoá ở các vùng ven đô thường bắt đầu từ sự mở rộng ảnh
hưởng của các trung tâm đô thị ra các vùng nông thôn xung quanh. Sự xâm nhập lẫn
nhau giữa hai cộng đồng dân cư nội đô và ven đô trên các không gian riêng biệt của
họ đã tạo ra sự biến đổi cơ cấu xã hội, nghề nghiệp của các cộng đồng dân cư nông
thôn và do đó đồng thời từng bước làm thay đổi tất cả những lĩnh vực khác trong
đời sống xã hội và môi trường của nó. Nhưng quá trình đô thị hoá, như đã nêu ở
trên, không chỉ có những tác động tích cực mà cả những tác động tiêu cực đến các
vùng nông thôn ven đô xét từ quan điểm của phát triển bền vững. Vì vậy giả thuyết
được nêu ra ở đây là quá trình đô thị hóa có những tác động đa chiều đến các lĩnh
vực kinh tế xã hội và môi trường ở các vùng ven đô và do đó cũng tạo ra những
phản ứng từ phía người dân như là những giải pháp tức thời cho sự tồn tại của họ
hay chiến lược ứng phó lâu dài đóng góp vào sự phát triển bền vững ở địa phương.
Sự nghiên cứu vấn đề đô thị hóa và những giải pháp ứng phó của người dân không
chỉ cho phép tìm hiểu những tác động của quá trình đô thị hóa ở các vùng ven đô
mà còn góp phần xây dựng chính sách phát triển đô thị bền vững của các vùng này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đã được tiến hành trước hết dựa trên các phương pháp quan
sát, và các phương pháp nghiên cứu phát triển bền vững, xã hội học. Ngoài ra, luận
văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành của các khoa học xã hội về
đô thị hoá ở khu vực ngoại thành Hà Nội.
Trong các nghiên cứu điền dã tại xã An Khánh, huyện Hoài Đức và làng
Triều Khúc - xã Tân Triều huyện Thanh Trì ngoại thành Hà Nội, các phương pháp
điều tra xã hội học phỏng vấn bằng bảng hỏi bán cấu trúc, thu thập số liệu thống kê
nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu đã được đưa ra trước đó. Các nghiên cứu
định tính, bao gồm các phương pháp phỏng vấn sâu.

9


Do những giới hạn về tài chính, nhân lực và năng lực nghiên cứu cá nhân còn
nhiều hạn chế, luận văn chủ yếu dựa vào các tài liệu nghiên cứu của Viện nghiên cứu
và phát triển bền vững Vùng những năm qua và bộ số liệu do chính tác giả thực hiện về
chủ đề nghiên cứu này, trong đó bao gồm các cuộc nghiên cứu thăm dò về đô thị hóa
và đời sống hàng ngày ở Triều Khúc và An Khánh. Do tính chất thăm dò của cuộc
nghiên cứu nên quy mô của mẫu nghiên cứu không lớn chỉ dưới 50 người cho mỗi mẫu
nghiên cứu. Vì thế những kết quả rút ra từ cuộc nghiên cứu này chỉ có tính đại diện
tương đối hay mang tính thăm dò cho các cuộc nghiên cứu sau này.

5.3 Khung phân tích

Sự phát triển kinh tế xã hội

Phát triển đô thị bền
vững

Kinh tế


Xã hội

Quá trình đô thị hóa

Chính sách quản lý

10

Môi trường


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm
tài liệu tham khảo cho các đề tài, dự án hoặc các nghiên cứu về phát triển bền vững,
xã hội học, chính sách…góp phần hoàn thiện lý luận cũng như thực tiễn trong việc
phát triển bền vững đô thị
Ý nghĩa thực tiễn : Luận văn là một công trình khoa học nghiên cứu tương
đối có hệ thống về phát triển bền vững, đô thị, xã hội học đô thị, qua đó gợi mở một
số vấn đề để các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoạch định và thực hiện quy
hoạch đô thị cũng như các chính sách phát triển bền vững, phát triển đô thị cũng
như an sinh xã hội các vùng ven đô hiện nay và trong tương lai.
Luận văn có một số điểm mới :
 Chỉ rõ đặc điểm của khu vực vùng ven đô thị, đặc trưng của đô thị hóa và đô
thị hóa vùng ven đô
 Chỉ ra được những ưu điểm cũng như các hạn chế bất cập trong việc phát
triển đô thị, các chính sách hỗ trợ, các chính sách về phát triển bền vững trong thực
tiễn của khu vực ven đô
 Nêu ra các quan điểm và giải pháp khắc phục, ứng phó với hiện trạng để có
những chính sách phát triển bền vững phù hợp đối với các khu vực ven đô.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Đô thị hóa và phát triển đô thị bền vững
Chương 2: Những tác động của đô thị hóa đến đời sống, nhận thức và hành vi
của nguời dân Triều Khúc và An Khánh
Chương 3: Giải pháp phát triển bền vững đô thị ở các vùng ven đô

11


Chương 1
ĐÔ THỊ HÓA VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm đô thị tương phản với khái niệm tính nông thôn và khái niệm
thành phố tiền công nghiệp
Theo các nhà xã hội học về đô thị, khái niệm đô thị gần đây đã đươc xem là một
mô hình định cư có tính phủ định đối với các mô hình định cư nông thôn và thành thị
đã tồn tại trước nó. Bởi vì mô hình định cư nông thôn hay mô hình định cư thành thị
tiền công nghiệp luôn gắn với mô hình thành phố La Mã cổ đại, được hình thành bởi
hai yếu tố là một lãnh thổ xác định rõ rệt về không gian và một cộng đồng dân cư, nơi
mọi cá nhân tham gia vào đó dựa trên nguyên tắc có đi có lại trong một không gian
riêng tư và cố định.
“Trong ngôn ngữ phổ biến ngày nay, thành phố tiếp tục chỉ định địa điểm hoặc
sự hỗ trợ tĩnh của một sự giao tiếp ba chiều bảo đảm sự trao đổi thông tin, hàng hóa và
cảm xúc. Nó vẫn còn được quan niệm như một liên kết không thể tách rời của những
cái mà người La Mã gọi là l'urbs (lãnh thổ vật chất của thành phố) và civitas (cộng
đồng của các công dân ở đó) hay như sự gắn bó với nhau của một thực thể không gian
riêng tư và của một dân cư xác định .. »( Louiset, 2011.)[ 35 ]…
Khi bàn về đặc trưng của mô hình thành phố tiền công nghiệp của châu Âu, các
nhà xã hội học nhất trí cho rằng nó mang đậm nét tính nông thôn vì nó không chỉ ở

trong nông thôn mà còn thuộc về nông thôn.
Về mặt từ nguyên, trong tiếng Pháp từ "thành phố" (ville) đến từ tiếng Latin
« villas », biểu thị một khu định cư nông thôn tự cung tự cấp là hạt nhân của các khu
phố thời trung cổ. Quan niệm từ nguyên học này nhấn mạnh sự gia nhập của thành
phố tiền công nghiệp vào nông thôn. Mumford, một trong những người đầu tiên cho
chúng ta biết rằng ngoại trừ một vài trung tâm thành phố tắc nghẽn, các thành phố của
thời Trung cổ không chỉ đơn giản là "ở trong nông thôn, mà còn là của nông thôn"
(Văn hóa của các thành phố, 1938) và sự tương đối phụ thuộc lẫn nhau này hiện đang

12


được làm sáng tỏ trở lại bởi các sử gia về thành phố châu Âu (Mohenberg và Lee,
1985)[ 26 ].
Sự xuất hiện của mô hình định cư đô thị chỉ nảy sinh vào thời kỳ công nghiệp
hóa ở châu Âu khi nó phủ định những đặc trưng của mô hình thành phố tiền công
nghiệp cũng như mô hình định cư nông thôn hay « tính nông thôn » là đặc trưng của cả
hai mô hình định cư này.
« Nhưng vào kỷ nguyên công nghiệp và những tập trung nhân khẩu học chưa
từng có này đã cắt đứt cái mối liên kết ban đầu này …Cũng tại đây, cuộc cách mạng
công nghiệp đã làm suy yếu một liên kết đầu tiên. Nó đã phá vỡ mối quan hệ mang tính
bổ sung vốn thống nhất thành phố và nông thôn, và đã khoét sâu sự khác biệt nổi tiếng
mà Marx đã chỉ định cho chủ nghĩa cộng sản phải thủ tiêu nó. Tuy nhiên không phải là
bằng cuộc cách mạng xã hội, mà bằng sự phát triển thường xuyên của kỹ thuật mà sự
xóa bỏ sự khác biệt này đã bắt đầu. Người ta nhận ra rằng cái quá trình đang diễn ra và
có xu hướng thủ tiêu sự khác biệt này là vì lợi ích của một thực thể không còn là thành
phố cũng không phải nông thôn là hai yếu tố mà về phương diện lô gich học cũng như
hiện tượng hoc, luôn dựa vào nhau để tồn tại. » ( Louiset, 2011.)[26]
Sự xuất hiện của cách mạng công nghiệp đã làm cho các thành phố tiền công
nghiệp phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu nhưng cũng đồng thời phá hủy chính

mô hình của nó khi thay thế mô hình thành phố (tiền công nghiệp bằng mô hình « đô
thị » :
« Các nền văn minh đều có bắt đầu và kết thúc! Giống hệt như sự mất mát của
một đối tượng đánh thức ý thức về sự tồn tại của nó, đó là ý tưởng về sự biến mất của
các thành phố bởi sự phát triển quá lớn của nó làm cho định nghĩa về nó trở nên trống
rỗng. : sự tập trung và phát tán đô thị, không hề mang ý nghĩa là sự mở rộng của các
thành phố, mà dẫn đến sự biến mất của chúng… Bởi vì thành phố và đô thị hóa ở đây
không được coi là những từ đồng nghĩa. Tính hàm súc của những gì thường được trình
bày như là đặc biệt đô thị1 (dân cư tập trung, khả năng tiếp cận, tầm quan trọng của

Đối lập thành phố với đô thị có thể cho thấy không thuận tiện trong một ngôn ngữ không
có hình thức tính từ của từ "thành phố" mà phải sử dụng tính từ "đô thị".
1

13


những công trình đã xây cất) trái lại được diễn giải bởi F. Choay (1965)[5] như là sự
phủ định của thành phố, hoặc chính xác hơn là thành phố truyền thống." Sự phân biệt
này của "thành phố truyền thống" và "đô thị" vả chăng đã trở nên đáng ghi nhớ : chính
là vào thế kỷ 19, cuộc cách mạng công nghiệp có lẽ đã chỉ ra sự gián đoạn chia tách dứt
khoát thành phố với đô thị. Sự biến đổi đô thị triệt để này do đó không phải là một
chuyển đổi giản đơn. Nó được đồng nhất trong các tài liệu tham khảo của chúng ta với
một sự thay đổi về bản chất. Tới mức, từ "thành phố" rất có thể sẽ không còn thích hợp
để chỉ các thành phố quan trọng đương đại»( Louiset, 2011.)[35].
Từ đây chúng ta đã có thể nêu ra một quan niệm về đô thị như một thực thể
không gian luôn mở, với mức độ tập trung dân cư cao. Công nghiệp hóa luôn tạo ra các
luồng nhập cư và làm tăng trưởng quy mô đô thị. Nó tạo ra các nhóm xã hội mới và
các hành vi ứng xử mới. Cách tân kỹ thuật còn làm thay đổi mối quan hệ giữa con
người với không gian và thời gian. Hệ thống giao thông hiện đại làm cho đô thị có một

đặc trưng chính phân biệt chúng với loại hình các thành thị trước đó: tính cơ động của
chúng. Sự vận động này là sự vận động mở rộng đô thị và những chuyển dịch liên miên
của các thị dân. Như vậy, sự mở rộng không ngừng về không gian và tính cơ động của
dân cư đô thị chính là những cái tạo ra sự đối lập giữa đô thị hiện đại và thành phố tiền
công nghiệp.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc : « đô thị (hay quần thể đô thị) bao gồm
một đô thị trung tâm (thành phố) và vùng ven đô, tức là vùng có sự tập trung dân cư
cao ở bên ngoài nhưng rất gần với các đường phân giới của nó ». Vì thế chính cái đô
thị trung tâm trở nên lớn hơn nhờ những thứ mà nó loại bỏ, những cái có thể mở rộng
ra tới mức nuốt chửng các thành phố vệ tinh, về đại thể tương ứng với cả thành phố và
vùng ven đô của nó. (BLAYO n.d.)[ 3 ]
Như thế cuộc cách mạng công nghiệp ở thế kỷ XIX đã làm thay đổi hoàn
toàn tính chất của thành phố tiền công nghiệp ở Tây Âu và Bắc Mĩ, dẫn tới sự ra đời
của các đô thị, và từ đó làm nảy sinh quá trình đô thị hóa cho đến nay trên phạm vi
toàn thế giới.

14


1.1.2. Quan niệm về đô thị ở Việt Nam
Quan niệm về đô thị ở Việt Nam được nhìn nhận dưới nhiều khía cạnh. Nếu
nhìn từ khía cạnh xã hội, đô thị thường được định nghĩa bằng cách so sánh với nông
thôn. Dưới góc độ xã hội thì cả đô thị và nông thôn đều được coi là những hệ thống xã
hội, những cộng đồng xã hội có những đặc trưng riêng biệt như những xã hội nhỏ và
trong đó có đầy đủ các yếu tố, các vấn đề xã hội và các thiết chế xã hội.
Cụ thể, một định nghĩa theo văn bản pháp luật của Việt Nam đã đưa ra: Đô thị là
khu vực tập trung dân cư sinh sống có mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực
kinh tế phi nông nghiệp, có những chức năng là trung tâm chính trị, hành chính, kinh
tế, văn hoá, hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, một địa phương, bao gồm nội thành, ngoại thành của

thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã; thị trấn.
Theo TS. Đào Hoàng Tuấn (2008): đô thị là một tổ chức tổng hợp, chuyên môn
hóa cao các mặt của lãnh thổ, đòi hỏi phải có những chính sách, thể chế, quản lý đặc
biệt phù hợp với từng đô thị (khác hẳn với hình thức tổ chức lãnh thổ dạng quần cư
nông thôn) và một bộ máy quyền lực đặc thù có đủ năng lực để quản lý, điều hành,
thực hiện những thể chế đó trong quá trình phát triển bền vững của mỗi đô thị trên nền
tảng mục tiêu, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đô thị.
1.1.3. Khái niệm vùng ven đô ngoại thành
Khái niệm vùng ven đô thị như đã nêu ở trên là vùng có sự tập trung dân cư cao,
bao bọc các thành phố hay trung tâm đô thị, luôn trong quá trình vận động và phát tán
những ảnh hưởng của nó ra bên ngoài nên cũng là những vùng diễn ra quá trình đô thị
hóa, nhanh chóng và sâu sắc trên tất cả các mặt của đời sống của nó. Các khu công
nghiệp lúc đầu thường ở trong không gian nội đô của các thành phố, nhưng sau đó
ngày càng chuyển dịch xa hơn ra các vùng ven đô, vì giá đất ngày càng trở nên đắt đỏ
và sức cạnh tranh của công nghiệp ngày càng thua kém các nghành dịch vụ. Sự chuyển
dịch các khu công nghiệp ra các vùng ven đô, đến lượt nó lại kéo theo sự tập trung các
dân cư từ nội đô và từ các nơi khác đến đây tìm kiếm việc làm hay tìm chỗ ở phù hơp
với thu nhập của họ. Quá trình đô thị hóa ở các vùng ven đô của thành phố Hà Nội và

15


thành phố Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay cũng dang chứng minh điều đó. Hai thành
phố này đã thâu tóm rất nhiều đất đai của các tỉnh xung quanh nó trong quá trình đô thị
hóa của chúng.
Vùng ven đô là điểm quá độ và vùng chuyển tiếp, là khu đệm giữa nông thôn và
thành thị, giữa đặc thù của nông nghiệp, nông dân, nông thôn và yếu tố phát triển
nhanh, hiện đại của thành thị, là nơi chuyển đổi nhu cầu của nông dân vào đô thị và
ngược lại mang lối sống của đô thị vào nông dân. Đây là chuyển động cơ bản của mối
quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội và là nơi chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thành

phi nông nghiệp, là nơi chúng kiến sự hóa thân của người nông dân thành người thị
dân. (Trân, 1999)[ 40 ].
1.1.4. Khái niệm đô thị hóa
Theo các nhà xã hội học, sự phát triển đô thị chỉ thực sự bắt đầu cùng với cách
mạng công nghiệp vào cuối thế kỷ XIX ở châu Âu và Bắc Mĩ. Sự phát triển đô thị đồng
thời được gắn liền với khái niệm đô thị hoá, nảy sinh chủ yếu từ các nước thuộc châu
Âu và Bắc Mĩ, có hai cách hiểu căn bản không hoàn toàn đồng nhất với nhau nhưng có
thể bổ xung cho nhau.Trước hết, vào những năm 1960 (thế kỷ XX) khái niệm này chỉ
sự tập trung dân cư ngày càng tăng trong các vùng đô thị. Vì thế khái niệm đô thị hóa.
(urbanization) thường đồng nghĩa với khái niệm “tăng trưởng đô thị”

(Ledent

n.d.)[26]. Các nhà xã hội học cho rằng cách hiểu này chỉ nhấn mạnh vào quá trình tập
trung dân cư đô thị, không phản ánh một cách toàn diện và hệ thống hiện tượng đô thị
hóa trong thực tế. Họ đề nghị một cách hiểu khác coi đô thị hóa là sự biến đổi của các
xã hội từ những dân cư ban đầu là phi đô thị, sống dựa vào sản xuất nông nghiệp và
được tổ chức thông qua những cấu trúc xã hội nông thôn sang các xã hội chủ yếu dựa
vào thị trường, công nghiệp hóa và đô thị hóa. Trong trường hợp này khái niệm đô thị
hóa được hiểu theo nghĩa của khái niệm “quá độ đô thị” (urbain transition) (Collin
2008)[6].Tuy nhiên quá trình đô thị hóa không phải là một quá trình biến đổi giản đơn
của các thực thể xã hội tiền công nghiệp được thể hiện trong các khái niệm « nông
thôn » và « thành thị » truyền thống mà là một quá trình biến đổi đột biến có tính phủ

16


định các thực thể này trên tất cả các đặc trưng của chúng như lãnh thổ vật chất cố
định , cộng đồng dân cư tương đối riêng tư hay khép kín (Trương, 2014)[ 41 ].
Theo Từ điển Bách Khoa Larousse (Larousse, 1960 - 1964)[ 21 ], đô thị hóa

là hiện tượng dân số tập trung ngày càng dày đặc tại những địa điểm có tính chất đô
thị. Đô thị hóa được xác định bằng sự kiện tăng dân số và sự phát triển không gian
của thành phố. Từ điển tiếng Việt cũng có định nghĩa tương tự và đồng thời nhấn
mạnh vai trò của thành thị đối với phát triển xã hội: "Đô thị hóa là quá trình tập
trung dân cư ngày càng đông vào các đô thị và làm nâng cao vai trò của thành thị
đối với sự phát triển của xã hội". Hai định nghĩa vừa nêu cũng dựa vào yếu tố dân
số, nhưng đồng thời có đưa thêm tính bành trướng của lãnh thổ đô thị và vai trò của
đô thị trong sự phát triển của quốc gia. Từ điển Oxford chú ý đến sự chuyển đổi
trong quá trình đô thị hóa và cho rằng đô thị hóa là thực thể mang tính chất phá hủy
tính nông thôn (destroying rural quality)(Trương 2014)[41]. Và cũng chính từ đặc
điểm này của quá trình đô thị hóa mà vấn đề phát triển đô thị bền vững trở thành
một chủ đề nghiên cứu hết sức cần thiết.
Quá trình đô thị hóa của các nước đang phát triển hiện nay còn được đặc
trưng bởi những lộ trình phản ánh những mức độ hội nhập quốc gia khác nhau vào
nền kinh tế toàn cầu. Theo quan niệm về quá độ đô thị này, các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam, hiện đang trải qua quá trình đô thị hoá mà sự khác biệt
của chúng tuỳ thuộc vào mức độ hội nhập của mỗi nước vào kinh tế thế giới. Có thể
nhận thấy rằng các nước đã hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn thường là những nước
đã có những biến đổi nhanh nhất về cơ cấu kinh tế. Điều này muốn nói rằng sự biến
đổi của cơ cấu kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đô thị hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế (Collin, 2008)[ 8 ].
Trong bối cảnh của Việt Nam từ khi Đổi mới, các quá trình đô thị hoá thường
nảy sinh từ ba nguyên nhân chủ yếu là:
1) Do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hoá và sự biến đổi cơ cấu kinh tế
2) Do tác động của quá trình đô thị hoá về mặt hành chính (mở rộng không gian
địa lư hành chính của các đô thị);

17



3) Do ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp về kinh tế, xã hội và văn hoá của các
trung tâm đô thị như một quá trình biến đổi xã hội toàn diện
Các nhà nghiên cứu coi đô thị hoá như là một quá trình kinh tế – xã hội lịch sử
mang tính quy luật, trên quy mô toàn cầu. Đô thị hoá được xem là quá trình tái tổ chức
môi trường cư trú của con người mà ở đó yếu tố xã hội và kinh tế đóng vai trò cơ bản.
Mặt khác, tại Việt Nam, quá trình đô thị hoá theo lãnh thổ đang diễn ra mạnh
mẽ, nhưng sự xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội đô thị vẫn chưa theo
kịp tốc độ đô thị hoá (chủ yếu là sự bành trướng lãnh thổ của đô thị sang khu vực nông
thôn), nên một bộ phận lớn dân cư nông thôn bị mất tư liệu sản xuất (đất đai) không kịp
chuyển đổi ngành nghề sản xuất phù hợp đã bị rơi vào tình trạng nghèo đói hay bị lôi
cuốn bởi mặt trái của lối sống đô thị dẫn đến các tệ nạn xă hội.
Từ những ảnh hưởng hai chiều nói trên của quá trình đô thị hoá, mối quan tâm
hàng đầu của xã hội hiện nay là phải phát triển những chính sách công không chỉ nhằm
thúc đẩy và kiểm soát quá trình phát triển về mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội ở các
khu đô thị mà còn nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ấy theo hướng bền vững trên cả
ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường.
1.2. Khái niệm phát triển bền vững và phát triển đô thị bền vững
1.2.1. Khái niệm phát triển bền vững
Khái niệm về phát triển bền vững đầu tiên được đề cập vào năm1987 trong báo
cáo của Ủy ban Môi trường và phát triển của Ngân hàng Thế giới (Brundtland
Commission 1987). Khái niệm này cho rằng sự phát triển phải thỏa mãn nhu cầu của
con người không chỉ trong giai đoạn hiện tại mà còn cho cả tương lai, phải đáp ứng
đồng thời các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Năm 1991 Ngân
hàng châu Á đưa thêm nội dung khi đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại phải đảm
bảo đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai vào khái niệm phát triển bền vững.
Kể từ đó một phương pháp phát triển mới được định hình và được chấp nhận rộng rãi.
Như vậy phát triển bền vững có mục tiêu rõ ràng: thứ nhất, phát triển sản xuất
phải đi đôi với vấn đề sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường; thứ
hai, phải chú trọng đến mối quan hệ giữa các thế hệ, thế hệ ngày nay phải có trách


18


nhiệm với các thế hệ mai sau bằng cách gìn giữ những di sản và tài nguyên cần cho
cuộc sống con người trong tương lai.
Phương thức phát triển mới này được xây dựng với ba nội dung bao gồm phát
triển kinh tế, phát triển môi trường và phát triển xã hội, là sự tổng hợp của các chỉ tiêu
chủ yểu về kinh tế, xã hội, môi trường, văn hóa và nhất là hướng tới tương lai.
Báo cáo Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (Năm 1990) đã chỉ ra rằng,
quá trình đô thị hóa không phải là một sự khủng hoảng hay thảm kịch, nó chỉ là một
thách thức đối với tương lai mà thôi. Quá trình đô thị hóa tạo ra nhiều thuận lợi và bất
lợi cần được phân tích. Tuy nhiên, đô thị hóa là con đường văn minh của loài người,
bởi các đô thị là nơi chủ yếu tạo ra của cải vật chất cho loài người. Thu lợi nhiều từ quá
trình đô thị hóa, nhưng con người cũng phải trả giá không ít vì những bất lợi của nó.
Chỉ có con đường duy nhất để tránh được thách thức này là tạo ra sự phát triển đô thị
bền vững.
Dù cùng xuất phát từ khái niệm phát triển bền vững của Brundtland, nhiều nhà
khoa học đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về phát triển đô thị bền vững. Girardet
(1999)[ 13 ] định nghĩa "một đô thị bền vững được tổ chức sao cho tất cả các công dân
của mình có thể đáp ứng nhu cầu riêng của họ và nâng cao chất lượng sống mà không
làm tổn hại đến thế giới tự nhiên hoặc gây nguy hiểm điều kiện sống của những người
khác, hiện tại hoặc trong tương lai ". Mitlin và Satterthwaite (1996)[ 25 ] cho rằng
"mục tiêu phát triển bền vững là đáp ứng của các nhu cầu của con người trong tất cả
các thành phố (và khu vực nông thôn) với một mức độ sử dụng tài nguyên và phát sinh
chất thải trong từng khu vực và trong phạm vi quốc gia và hành tinh phù hợp với sự
bền vững sinh thái " và làm rõ ràng mục tiêu là để đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội, văn
hóa, y tế và chính trị của hiện tại mà không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ tương lai bằng cách giảm thiểu sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên
không tái tạo, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên tái tạo và chất thải của thành phố
giữ trong phạm vi khả nãng hấp thụ của địa phương và toàn cầu.


19


1.2.2. Khái niệm Phát triển đô thị bền vững
Trên cơ sở khái niệm chung về phát triển bền vững: Phát triển đô thị bền vững
là một mục tiêu quan trọng trong phát triển bền vững. Đô thị phát triển bền vững vẫn
được dựa trên nguyên tắc: Kinh tế đô thị - môi trường đô thị và văn hoá xã hội đô thị.
Phát triển đô thị bền vững được dựa trên một hệ thống nhóm các tiêu chí (Criteria)
trong đó có rất nhiều tiểu tiêu chí (Sub - criteria) cụ thể khác. Như vậy, có thể thấy mối
quan hệ giữa các tiêu chí phát triển đô thị bền vững là một thể thống nhất, có liên hệ
chặt chẽ, hữu cơ với nhau. Thiếu một trong các nhóm tiêu chí cũng như các tiểu tiêu
chí này sự phát triển đô thị có thể sẽ không thể có được sự tăng trưởng lành mạnh về
kinh tế, tính hiệu quả trong quản lý môi trường, sự tiến bộ xã hội và do đó không thể đi
tới sự phát triển bền vững. Trên cơ sở nguyên lý phát triển bền vững, với đặc thù của
một đô thị, khái niệm Phát triển đô thị bền vững có thể được hiểu là “mối quan hệ hữu
cơ, mật thiết giữa A) Kinh tế đô thị; B) Văn hóa xã hội đô thị; C) Môi trường - Sinh
thái đô thị; D) Cơ sở hạ tầng đô thị và E) Quản lý đô thị” (Kế, 2006)[ 19 ].
Xét một cách tổng hợp, khi nhấn mạnh các yêu cầu về sinh thái học hay tính
bền vững tự nhiên, các tiêu chuẩn để phát triển đô thị bền vững bao gồm:
 Phát triển nhà ở theo chiều cao để tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu và mặt bằng;
 Bảo tồn địa hình địa mạo tự nhiên và tính đa dạng sinh học
 Tránh xây dựng thành phố trong thung lũng vì đất ở đấy phì nhiêu và dễ lở;
 Bảo vệ và phát triển cây xanh đô thị;
 Khuyến khích tiết kiệm nước;
 Hạn chế sử dụng phương tiện di chuyển có động cơ;
 Tái sinh vật liệu phế thải.
Trong khi đó, xét về khía cạnh kinh tế đô thị, các nhà kinh tế chú trọng đến lĩnh
vực tài chính, chẳng hạn Ngân hàng Thế giới. Theo đó, phát triển đô thị bền vững có 4
tiêu chí để đo lường bền vững kinh tế đô thị, bao gồm:

 Đảm bảo và phát triển khả năng cạnh tranh của thành phố;
 Đảm bảo cuộc sống của cư dân tốt hơn;
 Nền tài chính lành mạnh ( nguồn thu, các chính sách tài chính, nguồn lực);

20


×