Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PHƯƠNG NGỮ THỔ NGỮ BA VÙNG TRONG TIẾNG VIỆT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.75 KB, 18 trang )

NHÓM 3 – D13NV01
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.

NGUYỄN THỊ CẨM NA
DƯƠNG THỊ LAM
ĐẶNG HỒ THUỲ LINH
NGUYỄN PHƯƠNG LINH
NGUYỄN THỊ THANH BÌNH
NGUYỄN THỊ HẠNH
NGUYỄN HOÀNG HIẾU

CHƯƠNG 9: MẠNG LƯỚI PHƯƠNG NGỮ THỔ NGỮ LÀ TẤM
GƯƠNG PHẢN ÁNH QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA DÂN
TỘC.
1. Các vùng phương ngữ và lịch sử đất nước
1.1. Việt Nam là một quốc gia có sự phân bố thổ ngữ đa dạng và phức tạp mà
tưởng chừng như không có cách nào có thể lí giải được hiện tượng đó.
Vd: Châu thổ sông Hồng là vùng đất mang nhiều thổ ngữ hay như một vài địa danh
nhỏ bé thuộc tỉnh Quảng Bình cũng vậy. Nhưng ngược lại ở vùng đồng bằng Nam
Bộ rộng lớn mênh mông thì lại chỉ dùng chung một phương ngữ thống nhất.
- Có những thổ ngữ cắt nghĩa được bằng diễn biến ngữ âm học.
-Có những thổ ngữ khác xa cách nói xung quanh, đến nỗi không thể giải thích
được bằng quy luật diễn biến nội tại.
Vd: hai thôn Mai Bản và Yên Lương ở ven biển huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
- Có những nơi cách xa nhau lại nói chung một thổ ngữ trong khi chung quanh


không hề nói như vậy (hiện tượng “trôi dạt của những thổ ngữ”).
Vd: Thổ ngữ xã Cảnh Dương phía bắc tỉnh Quảng Bình có nhiều điểm giống thổ
ngữ ở Thanh Hóa và Bắc Nghệ An.
- Có hai cách để lí giải hiện tượng đa phương ngữ như vậy:
+ Do nước uống, phong thủy, thổ nghi,...(điều kiện bổ sung)


+ Các phương ngữ, thổ ngữ là sự biểu hiện của quá trình phát triển lịch sử của dân
tộc theo thời gian đã ảnh hưởng lên bề mặt của đất nước.(nguyên lí chính)
=> Phương ngữ học là một công cụ vô cùng đắc lực cho mọi khoa học khảo cứu
đến lịch sử.

1.2. Từ nguyên lí chính trên, ta có thể dễ dàng nhận thấy một điều tất yếu ở đây
là:
- Nơi nào là cái nôi của dân tộc Việt Nam, nơi ấy nhiều thổ ngữ.
Vd: châu thổ sông Hồng, sông Mã và đồng bằng ven biển Nghệ Tĩnh
- Nơi nào nhiều vùng đất khai phá, nơi ấy vắng mặt thổ ngữ.
Vd: các tỉnh Nam Bộ.
1.3. Thổ ngữ phản ánh quá trình di dân của các dân tộc người Việt qua các thời
kỳ lịch sử.
Sự di dân này có hai đặc điểm chính:
- Diễn ra trong lòng nước Việt Nam thống nhất.
- Diễn ra theo hai con đường:
+ Con đường có tổ chức do nhà nước lãnh đạo.
+ Con đường tự phát do những nhóm người thực hiện theo yêu cầu cuộc sống của
họ.
1.4. Cần lí giải thêm về sự di dân theo con đường có tổ chức do nhà nước lãnh
đạo:
- Năm 1069, biên giới nước ta vượt qua đèo Ngang, mở rộng sang vùng đất Bình
Trị Thiên.



- Năm 1471, dưới triều Lê Thánh Tông, biên giới phía Nam nước ta mở rộng qua
đèo nam Hải Vân, thành lập đạo Quảng Nam.
- Năm 1602, biên giới đến Quy Nhơn, năm 1611 đến quá phía Nam tỉnh Bình
Định.
- Năm 1653 đến Phan Rang, 1697 đến Phan Thiết.
- Năm 1696, biên giới đến Gia Định, 1714 đến Tây Nam Bộ và 1757 đến Cà Mau.
- Còn đối với ở miền Bắc, đất đai bị bỏ hoang ở miền núi cũng được khai phá vào
cuối thế kỷ 16 và 17.
1.5. Nguồn gốc xuất phát của những dân cư đi đến những vùng đất mới cũng
tác động mạnh đến phương ngữ học.
- Ngôn ngữ là tập quán mà người ta mang theo bên mình và không thay đổi dễ
dàng được. Vì vậy, mặc dù những dân mới đến sẽ nói thổ ngữ của mình, qua quá
trình sinh sống, thổ ngữ của họ sẽ thay đổi nhưng ít nhiều vẫn giữ được những nét
cơ bản của thổ ngữ cũ.
Vd:
Vùng Bình Trị Thiên về cơ bản là dân Nghệ Tĩnh vào theo con đường thẩm thấu
dần kể từ đời Trần. Vì thế nên 2 phương ngữ này có nhiều điểm tương đồng.
Riêng tiếng Huế lại mang nhiều sắc thái mới của phương ngữ Nam (phương ngữ
Nam Trung Bộ và Nam Bộ).
Vùng Nam Trung Bộ chủ yếu là dân Thanh Hóa đi vào trong thời chúa Nguyễn,
cùng với một số người ở đồng bằng Bắc Bộ. Thanh Hóa là quê hương của chúa
Nguyễn, về sau lại có những đợt chúa Nguyễn lấn chiếm và lùa dân từ một số
huyện Bắc Nghệ An. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà thổ ngữ Thanh Hóa và
Bắc Nghệ An được sao lại ở vùng này.
Còn dân Nam Bộ chủ yếu là từ cực Nam Trung Bộ (Phú Yên đến Bình Thuận) di
cư đến từ tk XVIII.
1.6



- Sự di dân vào vùng cực nam Trung Bộ và Nam Bộ là khác hẳn về tính chất so với
sự di dân vào Bình Trị Thiên.
- Sự di dân vào vùng Bình Trị Thiên là vào thời cổ xưa, có tính chất lẻ tẻ, khi cuộc
sống chủ yếu là phân tán, tự cấp tự túc, thị trường chưa ra đời. Họ sống thành từng
cụm, từng họ và lấy họ làm tên làng. →
- Còn việc di cư vào cực nam Trung Bộ và Nam Bộ thì khác. Điều này xảy ra vào
lúc thị trường đã hình thành ở Bắc và ở Nam và chủ nghĩa tư bản đã manh nha,
mối liên hệ trong công xã rất yếu. Ở đây, là nông nghiệp trang trại, sớm mang tính
hàng hóa, thóc gạo làm ra chủ yếu để buôn bán. →vùng phương ngữ rộng lớn,
tiếng nói gần như thống nhất chỉ có một vài sắc thái địa phương không đáng kể.
1.7
- Bên cạnh việc người Việt đến những nơi mới, còn có một hiện tượng thú vị nữa
là người Chăm, Khơme, Mã Lai, Trung Quốc tới Việt Nam rồi bỏ tiếng nói gốc của
mình để nói tiếng Việt. Tùy theo ngôn ngữ gốc đã bị bỏ mất như thế nào thì những
nét của ngôn ngữ này sẽ tác động trở lại tới tiếng Việt một cách không có ý thức,
nhưng rất lâu bền, tạo nên những đặc điểm hầu như không thể dùng quy luật nội tại
của ngôn ngữ mà giải thích được.
- Phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ còn chịu sự ảnh hưởng mạnh từ phương
ngữ Hán vùng nam Trung Quốc.
- Đặc điểm ngữ âm nổi bật của PNN là hầu như toàn bộ vần có phụ âm cuối [-n
-t] đều biến thành [-ng -k], chính là do ảnh hưởng của phương ngữ Hán Triều
Châu, ở phương ngữ này chỉ có hai đôi phụ âm cuối [-m, -p] và [-ng, -k]. Khác
với phương ngữ Triều Châu, tiếng Bạch Thoại (Bắc Kinh) vào thời nhà Minh đã
không phát âm được âm cuối [-m].
-Trong bảng từ vựng mà John Barrow ghi ở Đà Nẵng năm 1702 thì các vần có phụ
âm cuối –m đều được ghi chép lại bằng –ng: mot klang là “một trăm”, tang là
“tám”,… (người chung cấp dữ liệu cho John Barrow có lẽ là một người Hoa không
phát âm được âm cuối –m).
1.8

Có một số người vì nhu cầu sinh sống phải chuyển đi nơi khác. Kết quả là nhóm
người mới đến nói một ngôn ngữ hiện đại hơn, gần thành thị hơn so với nơi trước
đây họ sống.
VD: Cùng trong tỉnh Phú Thọ nhưng những huyện Tam Nông, Phong Châu, Lâm
Thao nói những thổ ngữ cổ, còn các huyện miền núi như Thanh Hòa, Thanh Sơn,
Đoan Hùng lại nói một thổ ngữ rất gần với thổ ngữ Hà Nội. Cụ thể nhất là hiện nay
người Việt ở Việt Bắc và Tây Bắc nói tiếng Hà Nội rất chuẩn.


Bản đồ thổ ngữ của vùng bắc cửa Tùng (sông Bến Hải)



- Ở vùng đồi phía tây đường quốc lộ, ngôn ngữ không có những nét đặc biệt vì đó
là vùng mới khai thác. Còn vùng phía bắc là đồi cát, khô hạn, lại có những vùng
làng rất cổ, dân cư thưa thớt, với nhiều nét cổ trong ngữ âm cũng như trong từ
vựng.
- Trái lại, vùng phía đông nam dọc theo bờ biển là một vùng đất đỏ chạy mãi đến
cửa Tùng, là nơi đất đai phì nhiêu, dân cư đông đúc. Thổ ngữ vùng này rất phức
tạp: vừa có ngôn ngữ mới vừa có cổ ngữ.
 Phương ngữ học là một công cụ hết sức đắc lực cho việc nghiên cứu nguồn gốc
cư dân, ngay trong những trường hợp mọi chứng tích lịch sử đều mất hết.
2. Thổ ngữ và công xã nông thôn Việt Nam
2.1 Hiện tượng thổ ngữ gắn liền với công xã không phải hiện tượng riêng mà là
hiện tượng chung.
Chính Mác đã nhận thấy điều đó khi khẳng định mối liên hệ rất sâu sắc giữa thổ
ngữ với công xã trong công trình: Những hình thái xuất hiện trước khi có nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa
Thổ ngữ là sản phẩm của một công xã, nếu như xét theo một quan điểm nào đó, nó
là bản thân sự tồn tại của công xã, là cách công xã tự biểu hiện”.

Nếu hiểu theo khía cạnh thao tác thì thổ ngữ hay phương ngữ là biến thể địa
phương của ngôn ngữ, gồm một chùm những nét khu biệt phương ngữ, thổ ngữ
này so với phương ngữ, thổ ngữ khác cũng như so với ngôn ngữ toàn dân.
Như vậy, không nhất thiết hai thổ ngữ phải khác nhau nhiều mà chỉ cần vài nét khu
biệt nhỏ cũng đủ tự khẳng định mình và khu biệt với nhau.
Nếu xét như vậy thì có thể nói, hầu hết các xã miền Bắc đều có thổ ngữ riêng. Nó
trở thành cái di sản quý giá của những người trong công xã này
Những người cùng thổ ngữ dù có thể nói tiếng toàn dân thông thạo nhưng gặp nhau
thì lập tức trở về thổ ngữ của họ vì trong thâm tâm họ thấy nó gần gũi, thân thiết
với họ hơn mọi cách diễn đạt khác.
Công xã nông thôn Việt Nam trước hết là một công xã làm ruộng nước. Đã làm
ruông nước tức là phải tát nước, tháo nước, phòng lụt, chống hạn quanh năm do đó
không thể chỉ dựa vào sự đoàn kết hợp tác của gia đình mà làm được. Kinh tế


ruộng nước bắt buộc người sản xuất phải sống một tập thể lớn hơn gia đình là làng
xã đó là tế bào của xã hội Việt Nam.
Người Việt Nam không thích rời khỏi làng, tha phương cầu thực là điều họ rất
ghét. Họ chỉ có thể đi khỏi làng cùng với cả thế giới biểu tượng của họ, họ đi cả
xóm, cả một phần đông đảo những người cùng làng. Họ đến những nơi mới họ sẽ
dựng lên ông thành hoàng cũ, nhà họ cũ và sống quây quần với nhau thành một
đơn vị, có tiếng nói chung-thổ ngữ- và với tư cách như vậy họ không sợ bất kì khó
khăn gian khổ nào dù thiên tai, giặc cướp, mất mùa hay đói kém. Rồi khi chết đi,
họ nằm cạnh nhau trong cái nghĩa trang chung của họ, của làng. Đó là đặc điểm
phát triển của dân tộc Việt Nam: một bộ phận của một làng tách ra, đi đên một nơi
mới để thành một làng mới. Và trong cái làng mới này lại tách ra một bộ phận nữa
để đi xa hơn. Quá trình phát triển như vậy không làm thay đổi cái thế giới những
biểu tượng trong óc người Việt Nam, bởi vì dù có đứng trước hoàn cảnh xa lạ đến
đâu người Việt Nam vẫn tồn tại trong lòng công xã, không đứng ra ngoài công xã.
Vào thế kỉ XVII bắt đầu có ngoại thương, có buôn bán nước ngoài trên quy mô

đáng kể, có những thành phố sống một phần bằng thủ công nghiệp. Lúc đó việc di
dân mang một hình thức khác. Đây không phải kiểu di dân tự nguyện như châu thổ
sông Hồng hay Bình trị Thiên mà trong đó từng chi nhánh của một họ ra đi, và mỗi
họ không những giữ nguyên cái họ của mình mà giữ nguyên cả bầu trời công xã
của nó.
Ví dụ họ Ngô là gốc ở Vọng Nguyệt (Bắc Ninh) di cư vào Nghệ Tĩnh, họ Hồ từ
Quỳnh Lưu (Nghệ An) vào Bình Định để chuyển thành họ Nguyễn của Nguyễn
Huệ.. những người cùng họ vẫn nhớ và tìm nhau để nhớ tới những kỹ niệm chung
làm truyền thống của mình. Nhưng do nhu cầu của thương nghiệp, kinh tế, có sự di
cư ào ạt xuống miền cực nam Trung Bộ và Nam Bộ thuận đâu ở đấy và sinh cơ lập
nghiệp ở nơi mới. Kết quả những nét thổ âm bị xoá nhoà nhanh chóng trong cuộc
sống cộng cư, pha trộn khi hàng rào công xã không đóng vai cho một sự cản trở
cho đà phát triển.
2.2 Nét khu biệt đầu tiên ở một thổ ngữ là ở ngữ điệu.
Người ta chú ý đến nó trước tiên mặc dầu nó không có tác dụng làm khu biệt
nghĩa, bởi vì nó liên quan đến mọi âm tiết.


Căn cứ vào đó người ta nói tiếng làng này nặng, làng kia nhẹ…Trong Nghệ An kí,
Bùi Dương Lịch đã nói đến sự khác nhau về ngữ điệu của một số thổ ngữ ở Nghệ
An như sau:.. Tiếng nói ở xã Hoàng Tràng, Vạn Phần, Hạnh Lâm, Cao Xá thuộc
huyện Đông Thành thổ âm thuộc về tiếng thương tiếng chuỳ, học tiếng nói xứ khác
không được…
Thanh điệu là nét thứ hai có tính chất phổ biến.
Ở đồng bằng sông Hồng như xã Đông Lĩnh, Đông Phong huyện Đông Hưng tỉnh
Thái Bình chỉ nói có năm thanh điệu thôi, hai thanh điệu hỏi và ngã trùng nhau làm
một giống như phương ngữ Thanh hoá hay phững ngữ miền Nam
Ở thôn Đông Tĩnh xã Thái Dương thì nét khu biệt thổ ngữ lại không ở thanh điệu
mà ở phần vần của âm tiết, ở đây những nguyên âm tròn môi ô, o được kéo dài và
theo sau những nguyên âm –ng-, -k- không ngậm môi. Chẳng hạn như ông, ốc phát

âm thành ôông, ốôc…
2.3 Kết quả nghiên cứu một nửa bắc huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị bằng phương
pháp liên ngành kết hợp ngôn ngữ với xã hội, địa hình.
Sau khi sử dụng phương pháp liên ngành kết hợp ngôn ngữ với xã hội, địa hình để
nghiêm cứu một điểm nhỏ là nữa bắc huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị thi thấy có
những điểm sau:




1.

2.

Ở đây có sự khác nhau giữa thôn nọ với thôn kia trong phạm vi một xã. Ở
miền Bắc người ta đào đất ruộng để làm nền nhà và đám ruộng này lập tức
biến thành ao do đó nhà nào cũng có ao. Làng xóm ở chen chúc nhau để
giành đất trồng trọt
Sự phân bố dân cư biểu hiện thành hai vùng thôn ngữ khác nhau rõ rệt. Hầu
hết các xã (có khi cả 1 số nông thôn) đều có những nét thổ ngữ khá rõ rệt.
Các thổ ngữ phía bắc còn giữ lại nhiều âm cổ :
Riêng chỉ có thổ ngữ ở 4 xã thuộc vùng bờ biển phía bắc: Vĩnh Thái, Vĩnh
Tú, Vĩnh Nam, Vĩnh Trung là còn giữ lại cho đến ngày nay âm (tl) cổ của
tiếng Việt. Thí vụ: trâu (tlâw), tre (tle), trắng (tlắng).
Một phụ âm cổ thứ hai cũng chỉ tìm thấy trong thổ ngữ bốn xã vừa kể trên:
[Dj] phụ âm đầu lưỡi – răng, hữu thanh ngạc hóa mạnh. Như đã nói (ở
chương V), âm này đã tồn tại trong tiếng Việt thế kỷ thứ 17, và đã được
dùng chử d để viết chữ quốc ngữ trong những từ như da,dao,dai,dưới…





Trong khi đó những xã ở vùng bờ biển phía nam Vĩnh Linh có một số hiện
tượng ngữ âm và từ vựng khác hẳn – mà những thổ ngữ xung quanh không
có- tạo nên gần như là một hòn đảo thổ ngữ.

Những nét dị biệt đó là:
Vần –ưu phát âm thành –iu. Vd: mưu,cứu phát âm thành miu,kíu.
Vần –ươu phát âm thành –iêu. Vd: rượu,bướu phát âm tahnh2 riệu,biếu.
Hai hiện tương này gặp ở các xã Vĩnh Giang, Vĩnh Quang và rải rác ở chung
quanh.
3. Phụ âm đầu ghi bằng chữ cái d phát âm giống cách đọc chữ r: dân,dầu,dưa
4. Phụ âm đầu mà chữ cái ghi là tr, phát âm thành t: trâu trắng, trời trong phát
âm thành: tâu tắng,tời tong.
5. Phụ âm đầu mà chữ cái ghi là s thì phát âm thành th. Vd: sao sáng,sạch sẽ
thành thao tháng,thạch thẽ
Cứ liệu về thổ ngữ, kết hợp kết hợp với sự khác nhau về địa hình. Với sự khác
nhau về mật độ dân cư giữa vùng cồn cát trắng ở bờ biển phía bắc huyện Bến Hải
với vùng đất đỏ phì nhiêu ở bờ biển phía nam giáp Cửa Tùng. Cái yết hầu giao
thông của cả vùng –cũng đủ để giải thích được tính chất khác nhau của hai vùng
thổ ngữ.
1.
2.

Vùng thổ ngữ phía bắc thì cổ kính, chẳng khác gì một viện bảo tàng cất giữ những
hiện tượng ngôn ngữ cổ chất trong cả nước. vùng thổ ngữ ở phía nam thì có nhiều
yếu tố mới mẻ. Tính chất “ đảo thổ ngữ” của vùng quanh Cửa Tùng là một bằng
chứng rõ ràng về hiện tượng dời làng theo đường biển.
Như vậy, việc khảo sát một vài cụm thổ ngữ của hai tỉnh Quảng Trị và Thái Bình
cho chúng ta thấy rõ mối liên hệ giữa làng xã với thổ ngữ ở Việt Nam như hình với

bóng . Mỗi làng xã có một cuộc sống ít nhiều riêng biệt, và thổ ngữ giống như cái
bóng phản chiếu lại bộ mặt và tuổi tác của làng xã.
2.4
1.

2.

Qua những lời phân tích trên, ta có thể rút ra mấy nhận xét sau đây:
Ngôn ngữ ở các thôn ngữ khác nhau đều ít nhiều có những nét khu biệt với
nhau, cũng như phần lớn xã thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đều có thổ ngữ
riêng.
Thổ ngữ phản ánh trung thực tính chất biệt lập tương đối của làng xã Việt
Nam, nó nhấn mạnh tính chât Phương Đông của loại công xã nông thôn Việt
Nam.


3.


Hiện tượng đảo thổ ngữ quanh Cửa Tùng là bằng chứng của việc thành lập
công xã nông thôn theo con đường tái tạo theo khuôn mẫu cũ.
Vai trò lịch sử của công xã nông thôn đã qua từ lâu, không những tổ chức
kinh tế - xã hội kiểu công xã không thể tồn tại trong điều kiện cuộc sống mới
hiện nay, mà cả nhiều điểm tiêu cực trong cái di sản tinh thần công xã, nếu
không tìm cách khắc phục thì sẽ là một trở ngại lớn trên bước phát triển của
dân tộc hướng tới một nước Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa. Trong những tàn
tích của công xã phải kể đến sự tồn tại của thổ ngữ.

3. Sự hình thành một số phương ngữ Việt ngoài lãnh thổ quốc gia.
Nhóm người Việt tộc hay còn gọi là kinh tộc còn tiếng nói của họ được gọi là kinh

ngữ, nhóm người này được hình thành từ một số ngư dân từ đảo Đồ Sơn đánh cá
gặp bão trôi dạt về vùng eo biển Quảng Tây ( Trung Quốc) và một số người Việt
sang đây làm ăn sinh sống và được hình thành trên ba hòn đảo nhỏ Vu Đầu, Vạn
Vĩ, Sơn Tâm gọi chung là công xã trị Đông Hưng, thuộc Giang Bình Trấn ( Trung
Quốc). Sau đó họ phát triển thêm một số làng khác nữa: Đàm Cát, Hồng Khám,
Hằng Vọng, Trúc Sơn.
Những đặc điểm về ngôn ngữ của nhóm người Kinh này theo cuốn từ điển ViệtBộ- La của A. de Rhodes ( 1651).
-Tiếng nói của họ gần giống với tiếng Việt hiện đại, chứ không cổ như ngôn ngữ
trong từ điển. Họ không giữ lại các nhóm phụ âm đầu mà ta thấy trong từ điển: tl,
bl, ml.
Vd: blời, blăng, tlâu, tlắng, mlớn thì trong Kinh ngữ là jời, jăng, tâu tắng, nhớn.
Những phụ âm b, d, ngạc hóa đặc biệt mà A.de Rhodes mượn chữ - e – đệm thêm
như: beép dea “ dép da” cũng không tìm thấy trong kinh ngữ ngày nay, họ nói vào,
jép ja.
Những phụ âm đầu khác nhau d, gi, r ( da thịt, gia đình, ra vào ) trong phương
ngữ Bắc thành [z]: za thịt, za đình, za vào trong Kinh ngữ cũng mất khu biệt và
thành [j]: ja thịt, ja đình, ja vào giống như cách phát âm d, gi trong phương ngữ
Nam.


Kinh ngữ còn hai phụ âm đọc khác chuẩn chính tả lả s thành th và tr thành t. Hiện
tượng này ta thường gặp ở các thổ ngữ vùng hạ lưu các con sông và ven biển ở Bắc
bộ và Bắc Trung bộ.
Vd: sao sáng thành thao tháng, trâu trắng thành tâu tắng.
Trong Kinh ngữ còn có 4 phụ âm may mượn ở tiếng Hán Quảng Tây là p, ph, tsh,
L còn các phụ âm còn lại đều giống những phụ âm còn lại của tiếng Việt.
-Hệ thống nguyên âm trong kinh ngữ hoàn toàn giống tiếng Việt.
-Hệ thống vần giống tiếng Việt, kể cả các cặp vần kết hợp với các biến thể của cặp
âm vị -ng, -k “ ong, óc, anh, ách”, vốn có nhiều cách phát âm trong các phương
ngữ Việt. Trong Kinh ngữ cũng vây.

+ Âm cuối -ng, -k đúng sau các nguyên âm tròn môi u, ô, o có thể phát âm theo hai
cách: không ngậm môi như ở phương ngữ ngữ Trung [ u: ng, u: k, ô: ng, ô: k] và
ngâm môi như ở phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam: [ưng, ưk, âng, âk, ăng, ăk].
+ Cặp âm cuối -nh, -ch đứng sau các nguyên âm dòng trước - i -, - ê -, - e - phát
thành - n, - t giống với vùng phát âm vùng Quảng Bình, Quảng Trị: hành khách
(hằn khắt), cách mệnh (kát mận), thích (thít), sinh đôi (thin đôi).
-Hệ thống thanh điệu của Kinh ngữ gồm 5 thanh điệu với 2 thanh hỏi, ngã trùng
làm một, giống như Thanh Hóa và PNN.
-Âm đệm -w- được giữ lại sau các phụ âm mạc và hầu: ngw-, kw-, qw-, hw-.
Vd: ngoài, quả, khoai, oan, hoa giống PNB và biến mất sau các phụ âm khác.
Thiền ( thuyền) sân( xuân) giống như PNN.
-Ngữ âm của Kinh ngữ giống PNB, ngoài ra có một số đặc điểm giống PNN và
PNT. Nhưng phụ âm cuối của Kinh ngữ là phụ âm nổ trong giai đoạn buông, chứ
không còn là phụ âm không nổ như trong tiếng Việt nữa.
-Phụ âm tắc cuối biến phụ âm đầu h theo sau thành phụ âm tắc bật hơi


Vd: “đẹp hơn nó” trong kinh ngữ : đẹp phơn nó
“ một hàng cây”

một thàng cây

“ cúc hoa”

kuk khoa

Phụ âm cuối mũi hóa thành phụ âm đầu theo sau:
Vd: “ hong áo” trong kinh ngữ: hong ngáo
“ anh em”


an nhem

“ lên giá”

lên nhá

Do ảnh hưởng tiếng Hán Quảng Tây khá rõ nét ở lớp từ vựng, văn hóa, chính trị,
xã hội bằng Hán ngữ với hai cách phát âm tùy thích: đọc theo âm Hán- Việt và đọc
theo âm Hán- Quảng Tây.
Vd: “ kinh tế” có thể phát âm thành kin tế hay ke tsai,” văn hóa” vơn fá hay
màn fa.
Có thể nói sự lược tả những đặc trưng của kinh ngữ trên đã cho chúng ta hình dung
được sự hình thành và phát triển một phương ngữ theo hướng nội tại khi chúng
tách rời ngôn ngữ mẹ ở quê hương. Nó được phát triển nhờ sự hòa quyện giữa đăc
điểm của phương ngữ ở quê hương củ và sự tiếp xúc vói ngôn ngữ ở quê hương
mói để hình thành một Phuong ngữ mới với một tư cách đứng độc lập.
4. Qúa trình giải thể các thổ ngữ, phương ngữ và các bước chuẩn hóa tiếng
việt.
4.1Tình hình phương ngữ, thổ ngữ.
Trước cách mạng tháng 8, nước ta vẫn là một nước thuộc địa nền kinh tế chủ yếu
là nông nghiệp với hình thức canh tác thô sơ, cùng với chính sách ngu dân của
Pháp không tạo điều kiện để thống nhất ngôn ngữ. Sau cánh mạng tháng 8 thành
công, mạng lưới thông tin liên lạc từ trung ương đến địa pương được mở rộng bằng
sách vở, báo chí, đài phát thanh… khi trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân
được nâng cao, nền giáo dục dân chủ, và được phổ cập trong nhân dân… thì mới
có điều kiện xóa bỏ từng bước tình trạng phương ngữ, thổ ngữ để đi đến thống nhất
ngôn ngữ toàn dân.


Và có thể nói những nét khu biệt giữa các thổ ngữ với nhau cũng như thổ ngữ với

ngôn ngữ văn học chỉ là một mặt của tình hình phương ngữ, thổ ngữ hiện nay.
4.2 Các lớp ngôn ngữ.
Trước kia, trong tổ chức công xã nông thôn, ngôn ngữ công cã là một khối thống
nhất, có những tục lệ đảm bảo cho sự thống nhất đó, thí dụ như cấm pha tiếng ở
các vùng khác, điều đó càng củng cố thổ ngữ ở các làng khác nhau.
Hiện nay sự phổ cập văn hóa giáo dục, ngôn ngữ văn học đã phá vở được hàng rào
thổ ngữ nên trong mỗi làng xã có nhiều ngôn ngữ khác nhau.
4.2.1. Lớp ngôn ngữ cũ
Nhũng nét khu biệt vừa được nêu ở trên thường được thể hiện rỏ nhất ở tiếng nói
người già, tiêu biểu cho lớp ngôn ngữ củ ở địa phương.Những người này đại diện
cho tính liên tục. Bên cạnh bất biến thể củ mà họ vẫn sử dụng, họ vẫn biết cả biến
thể mới, mà khi cần sữ dụng để giao tiếp với người ngoài, do đó ở họ một thể bất
biến đã biểu hiện bằng hai biến thể.
Lớp ngôn ngữ cũ của người già, tàng trữ nhiều yếu tố cổ.Lớp người già ngày càng
ít dần, do đó lớp ngôn ngữ cũ ngày càng mỏng dần.Có thể nói, chỉ có ở đây mới
còn giữ được- tuy đã mất mát không ít- những tài liệu cần thiết để chúng ta tìm cũ
ngày càng mỏng dần.Có thể nói, chỉ có ở đây mới còn giữ được- tuy đã mất mát
không ít- những tài liệu cần thiết để chúng ta tìm hiểu thổ ngữ và công xã nông
thôn.
4.2.2. Lớp ngôn ngữ mới.
Đối với lứa tuổi thanh thiếu niên, lớn lên trong chế độ mới, hầu hết được học hay
đang học ở các trường trung học phổ thong trong xã, nhờ tiếp thu của ảnh hưởng
ngôn ngữ văn học dạy ở nhà trường và qua sách vở thông tin báo chí cho nên ngôn
ngữ không còn giữ nhiều yếu tố địa phương. Trong ý thức của họ, tuy hai biến thể
của họ đều còn nhưng địa vị khác nhau: biến thể mới trở thànhcái chính, biến thể
củ chỉ dung để sử dụng với các cụ già trong thôn để rồi biến mất. Trong các tầng
lớp thanh và trung niên có nhiều người là công nhân, cán bộ hay bộ đội do tiếp xúc
với nhiều biến thể mới nên khi trở về không nói thổ ngữ làng mình nữa. Ngoài ra,
ở xã nào cũng hình thành một lực lượng trí thức ngày càng đông như giáo viên, bác



sĩ, thú y…họ có trình độ tri thức cao nên có sức ảnh hưởng sâu rộng đến quần
chúng nhân dân. Ngôn ngữ của tầng lớp học sinh, trí thứ, cán bộ thoát ly trở về như chúng ta vừa kể - tạo thành một tầng lớp ngôn ngữ trẻ, tiên tiến, mang nhiều
yếu tố của ngôn ngữ văn học.
Lớp ngôn ngữ mới của tầng lớp thanh niên, học sinh, trí thức mới ở xã.Lực lượng
này ngày trở nên càng đông đảo. Đây là lực lượng xung kích dung ngôn ngữ văn
học, ngôn ngữ chuẩn tấn công vào thổ ngữ.
ở nước ta, khoảng 10 người dân thì có ba học là phổ thong cơ sở chua kể đến số
học sinh là phổ thong trung học và số học sinh đi học trung cấp, cao đẳng, đại học
bên ngoài họ được tiếp xúc với nhiều cái mới nên ngôn ngữ toàn dân ngày càng
được mở rộng.
4.3 Đặc trưng của thổ ngữ vùng ven biển Thái Bình
Là hiện tượng âm tr phát âm thành t và âm s thành th (hiện tượng ngữ âm này rải
rác dọc theo vùng bờ biển nước ta và ở các cửa sông). Nhân dân gọi hiện tượng
này là tật “nói ngọng” và họ thường đem những từ có âm nói trên ghép thành 1 câu
diễu cợt.
VD: tăng tháng (trăng sáng), tời tháng thủa (trời sáng sủa)…
1.

2.

Hiện tượng phát âm “tăng tháng” thay cho “trăng sáng” đang thu hẹp diện
tích, hiện nay chỉ còn gặp ở những xã sát biển, chủ yếu ở huyện Thái Thụy
(Thái Bình), huyện Đông Hưng (Thái Bình) và chỉ gặp lẻ tẻ ở vài xã như
Đông La, Đông Phong.
Ở những thổ ngữ còn hiện tượng phát âm trên, chúng ta cũng chỉ gặp trong
ngôn ngữ lớp người già.
Trong ngôn ngữ lớp trẻ có hai cách phát âm:
a) Phát âm thành uốn lưỡi: trăng sáng
b) Phát thành âm không uốn lưỡi: chăng xáng [chăng sáng], hoặc giăng sáng

[zăng sáng]. Cách phát âm này phổ biến hơn cách phát âm trên.

4.4 Từ nhận xét trên suy ra ba vấn đề:
1.

Sự cách biệt về ngôn ngữ giữa các thế hệ già, trẻ ở cùng 1 địa phương trở
thành lớn hơn sự khác biệt trong ngôn ngữ lớp người trẻ ở những địa phương
khác nhau.


2.
3.

Trong ngôn ngữ lớp trẻ đang dần mất những nét đặc biệt của thổ ngữ và
hướng về ngôn ngữ thống nhất toàn dân .
Sự thống nhất cách phát âm theo khuynh hướng tự phát đang xảy ra tại các
địa phương ở Bắc Bộ Việt Nam hiện nay, có chiều ngả theo cách phát âm
của thủ đô Hà Nội hơn là theo chính tả.
• Tư liệu về những thổ ngữ ở bắc Vĩnh Linh (Quảng Trị) cũng phù hợp với
những nhận xét trên:
1. Những âm cổ như [tl], [Dj] chỉ có thể gặp trong ngôn ngữ lớp người già.
Ở lứa tuổi trẻ không còn giữ lại những âm này.
2. Cách phát âm kiểu “tăng tháng” (thay cho “trăng sáng”), “rọn rẹp” (thay
cho “dọn dẹp” ở vùng Cửa Tùng phía nam Vĩnh Linh cũng chỉ còn lại
trong ngôn ngữ lớp người già và đứng tuổi).
 Những chỗ gồ ghề do các thổ ngữ tạo ra trên bề mặt của ngôn ngữ
toàn dân đang dần dần bị san phẳng. Qúa trình thống nhất ngôn ngữ
cứ thế diễn ra 1 cách tự nhiên, tự phát, bằng con đường đưa ngôn ngữ
văn học vào quần chúng thông qua nhà trường, sách vở, báo chí,
truyền hình, sân khấu, điện ảnh…và bằng sự giao dịch rộng rãi của

nhân dân giữa các vùng.

4.5 Trong tiếng Việt, quá trình thống nhất ngôn ngữ đang xảy ra với sự giải thể dần
dần các thổ ngữ; từng người một nhận thấy sự cản trở của thổ ngữ mình tới sự giao
tiếp, tới sự tiếp thu văn hoá chung của cả nước. Họ sẽ cố gắng trước hết là viết cho
đúng với ngôn ngữ toàn dân, sau đó nói cho những người xung quanh dễ tiếp nhận.
4.6 Nhưng sau khi người ven biển Thái Bình không phát âm “con trâu trắng” là
“con tâu tắng” nữa, vậy họ nên phát âm thế nào cho đúng? Nên nói con trâu trắng
hay con châu chắng? Nói cách khác họ nên nói như chính tả hay nói như Hà Nội?
Ở miền Nam cũng có hiện tượng tương tự: nên nói phương ngữ của thành phố Hồ
Chí Minh hay nói ngay ngôn ngữ của chính tả?
Tóm lại, vấn đề đặt ra là một thổ ngữ, một phương ngữ sẽ hoà ngay lập tức vào
ngôn ngữ toàn dân hay phải thông qua con đường của một bán phương ngữ (2 bán
phương ngữ chính ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh).
PNT hiện nay đang tách đôi. Thanh niên Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh hướng theo cách
phát âm của thủ đô Hà Nội: phân biệt rõ 6 thanh điệu hoà nhập các phụ âm quặt
lưỡi với không quặt lưỡi (VD: chăng xáng, chời xáng xủa). Còn thanh niên, nhất là


thiếu nhi Bình Trị Thiên, chủ yếu là Huế, phát âm theo TP.HCM, chẳng hạn bỏ
nguyên âm đôi (VD: buổi chiều uống rượu phát âm thành [bủj chìw ú: ng rụ:]).
Quá trình nhận thức được những thiếu sót của chính thổ ngữ của mình thì tương
đối dễ, nhưng quá trình xoá bỏ những nét dị biệt giữa các phương ngữ là một quá
trình xã hội và tâm lý rất phức tạp.
Hiện nay, ngôn ngữ toàn dân là dựa trên phương ngữ Hà Nội.Chỗ mạnh nhất của
phương ngữ này là hệ thống thanh điệu sẽ làm thành sự đóng góp chính của nó vào
ngôn ngữ toàn dân.
Sài Gòn hiện nay là một trung tâm kinh tế lớn. Nó có 1 ưu điểm về phương ngữ
thực quý báu: sự khác nhau ở cả toàn vùng Nam Bộ và Nam Trung Bộ không là
bao nhiêu, trái lại vùng đồng bằng Bắc Bộ bị chia nhỏ ra vô số thổ ngữ.

4.7 Trong việc tiến tới ngôn ngữ thống nhất cần trách cách nhìn mệnh lẹnh,
đơn giản. Phải có cách nhìn cụ thể, phù hợp với thực tế.
- PNB có hệ thống thanh điệu, âm đệm, âm chính và âm cuối tương ứng với hệ
thống chữ viết một cách tương đối so với các phương ngữ khác. Nhưng hệ thống
phụ âm đầu không tương ứng hoàn toàn.
- PNT có hệ thống phụ âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối tương ứng hoàn toàn
với hệ thống chữ viết, nhưng hệ thống thanh điệu không tương ứng hoàn toàn.
- PNN có những âm vị không tương ứng hoàn toàn với chữ viết ở tất cả mọi mặt:
phụ âm đầu, bán nguyên âm đệm, âm chính, âm cuối và thanh điệu.
Mức độ khác nhau giữa hệ thống chữ viết với hệ thống âm vị trong các phương
ngữ phản ánh sự biến đổi ngữ âm ở các vùng khác nhau. Hệ thống âm vị của PNT
biến đổi chậm nhất, do đó gần chữ viết nhất, chỉ riêng hệ thanh điệu của chữ viết là
ghi lại một hệ thanh điệu phát triển hơn của PNB. Hệ thống của PNB biến đổi
nhanh hơn PNT, còn PNN biến đổi nhanh hơn cả, cả ở hệ thống thanh điệu, phụ
âm đầu, âm đệm, nhất là chính âm và âm cuối.

4.8 Ngôn ngữ thống nhất trong tương lai như thế nào?


Điều này phụ thuộc vào 2 yếu tố: một là sự phát triển của ngôn ngữ văn học, hai là
sự phát triển về chính trị và kinh tế của cái vùng tiên tiến nhất trong đất nước.
Quá trình chuẩn hoá và thống nhất ngôn ngữ là một quá trình tranh chấp, gạn lọc
giữa các biến thể địa phương về mặt ngữ âm cũng như từ vựng, không nói đến sự
tranh chấp về mặt ngữ pháp, bởi vì ngữ pháp của tiếng việt đã thống nhất từ lâu.
Việc nghiên cứu tình hình thực tế của ngôn ngữ cũng như những phương hướng
phát triển của nó sẽ giúp ta thúc đẩy quá trình thống nhất ngôn ngữ nhanh chóng
hơn.
Do đó, chúng ta phải khảo sát việc dùng từ địa phương trong 1 số tác phẩm văn
học và sách báo xuất bản ở những địa phương khác nhau để thấy rõ sự gạn lọc từ
địa phương đã xảy ra như thế nào trong quá trình xây dựng một ngôn ngữ chuẩn

mực và trong sáng.



×