MỞ ĐẦU
Khi nhà nước ra đời, để có tiền chi tiêu cho sự tồn tại và hoạt động của mình,
nhà nước đã đặt ra chế độ thuế khóa. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà
nước, có vai trò lớn trong việc duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước đồng thời là
công cụ quan trọng để điều tiết nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. tuy nhiên
kể từ khi ban hành đến nay việc thực thi các luật thuế là chưa thật sự hiệu quả cao,
số tiền thuế thất thu còn rất lớn mà nguyên nhân chủ yếu là từ tình trạng trốn thuế,
gian lận thuế. Cùng với sụ phát triển của kinh tế - xã hội, những hành vi trốn thuế,
gian lận thuế hiện nay càng ngày càng diễn ra phức tạp, phạm vi ngày càng rộng,
quy mô ngày càng lớn với những thủ đoạn rất tinh vi, vì vậy cần phải thực hiện
chống gian lận trốn lậu thuế. Nhận thức được sự cần thiết của vấn đề nội dung bài
viêt của em sẽ đi tìm hiểu về những nguyên nhân dẫn đến tình trạng gian lận trốn
lậu thuế hiện nay.
NỘI DUNG
I . MỘT SỐ VẤN VỀ GIAN LUẬN THUẾ VÀ TRỐN LẬU THUẾ
1. Khái niệm liên quan.
- Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật pháp qui định đối
với các pháp nhân và thể nhân thuộc đối tượng chịu thuế nhằm đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của nhà nước. Thuế là hình thức phân phối lại bộ phận nguồn tài chính của
xã hội, không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp.
- Hành vi gian lận thuế, là hành vi của cá nhân, tổ chức cố ý làm sai lệch các
thông tin kế toán – tài chính làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
hoàn hoặc được miễn, giảm.
- Hành vi trốn lậu thuế - là hành vi của cá nhân, tổ chức vi phạm các quy định của
pháp luật về thuế dẫn đến làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được
1
hoàn hoặc được miễn giảm.
2. Cơ sở để xác định hành vi gian lận, trốn lậu thuế là:
- Chủ thể của hành vi là các cá nhân hoặc tổ chức thuộc đối tượng nộp thuế.
- Hậu quả của hành vi vi phạm này là dẫn đến việc làm giảm số thuế phải nộp
hoặc tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn, giảm.
3. Đặc điểm của hành vi gian lận, trốn lậu thuế.
Về chủ thể: thực hiện các hành vi gian lận, trốn lậu thuế là các cá nhân, tổ chức
có hoạt động sản xuất, kinh doanh hay các hoạt động khác mà theo quy định của
pháp luật thuộc đối tượng chịu thuế đã thực hiện các hành vi vi phạm các quy định
của pháp luật về thuế dẫn đến làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế
được hoàn hoặc được miễn, giảm.
Về đối tượng: đối tượng của các hành vi trốn thuế, gian lận thuế là các quy định
pháp luật về thuế liên quan đến số thuế phải nộp hoặc số thuế được hoàn hoặc
được miễn, giảm.
Về mục đích - hậu quả của hành vi: Mục đích của hành vi trốn thuế và gian lận
thuế là giống nhau, làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn
hoặc được miễn, giảm.
4. Các văn bản pháp lý quy định hành vi trốn thuế, gian lận thuế
3.1. Luật quản lý thuế 2006
3.2. Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 7/6/2007 quy định về xử lý vi phạm pháp
luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
3.3. Nghị định số 13/2009/NĐ-CP ngày 13/2/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 98/2007/NĐ-CP).
3.4. Thông tư số 61/2007/TT-BTC hướng dẫn xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
5. Một số hành vi gian lận, trốn lậu thuế như:
- Hành vi khai man không đúng sự thật về tình hình thu nhập.
- Hành vi trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến việc sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn
2
bất hợp pháp, hay không phát hành hóa đơn bán hàng.
- Hành vi trốn thuế, gian lận thuế liên quan đến việc nộp hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ
khai thuế.
- Hành vi liên quan đến việc ghi chép sai lệch, không đầy đủ, chính xác các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ kế toán.
- Một số hành vi gian lận, trốn thuế thu nhập khác được pháp luật quy định;
- Ngoài ra có một số hành vi gian lận, trốn thuế khác xảy ra trong thực tế như:
Một trong những hành vi phổ biến mà nhiều doanh nghiệp sử dụng để gian lận,
trốn thuế thu nhập doanh nghiệp hiện nay là hành vi kê khai tăng về lao động và tài
sản cố định trong doanh nghiệp so với thực tế quản lý và nhu cầu sử dụng.
Hiện nay có tình trạng những doanh nghiệp thành lập chỉ để mua bán hóa đơn
bất hợp pháp, thu lợi bất chính, tiếp tay cho các doanh nghiệp khác trốn thuế, gian
lận thương mại, gây thất thu thuế của nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp bán lẻ thì không xuất hóa đơn hoặc xuất hóa đơn thấp
hơn giá bán để chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Đặc biệt, cơ quan thuế đã phát
hiện tình trạng trốn thuế rất tinh vi bằng hình thức “chuyển giá” trong các công ty
có giao dịch liên kết ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
II. NGUYÊN NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG GIAN LẬN, TRỐN LẬU THUẾ.
1.Nguyên nhân chủ quan.
Trước tiên, vấn đề chúng ta nhìn thấy rõ nhất là chính sách thuế hiện hành còn
quá nhiều khe hở, quá nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa thật sự
phù hợp với thực tại và yêu cầu phát triển của nền kinh tế, Luật được ban hành rất
nhiều, gây khó khăn cho những người thực hiện, người quản lý.
- Hiện nay khoản thuế từ các doanh nghiệp là rất lớn nhưng có thể thấy việc cho
phép thành lập doanh nghiệp, công ty tuy nhiên theo quy định của luật thương mại
điều kiện yêu cầu không cao, khá dễ dàng thực hiện được, nhưng khi thành lập
3
xong rồi thì việc theo dõi nắm bắt tình hình hoạt động của doanh nghiệp đó cụ thể
như thế nào, thực tế hoạt động ra sao lại buông lỏng chưa chặt chẽ cụ thể. Từ khâu
hậu kiểm, quản lý doanh nghiệp sau giấy phép đến sự phối hợp giữa cơ quan thuế
và các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều kẽ hở, tạo điều kiện cho việc thành lập
các doanh nghiệp ma. Mặt khác cơ chế thanh toán giữa các giao dịch kinh tế còn
chưa bắt buộc thông qua hệ thống ngân hàng do vậy rất khó kiểm soát việc các
hoạt động kinh tế đó đã phát sinh thực tế hay chỉ trên giấy tờ.
- Việc quy định trách nhiệm việc cung cấp các thông tin, tài liệu trong Luật quản lý
thuế ngay khi đăng ký và có hoạt động phát sinh, nhưng trong quá trình hoạt động
lại không thường xuyên cung cấp mà chỉ cung cấp khi cơ quan thuế có yêu cầu,
cho nên có rất nhiều thông tin cần thiết nhưng cơ quan thuế không biết được đầu
mối để cung cấp thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin. Ví dụ thông tin về tài
khoản ngân hàng của doanh nghiệp, thông thường các doanh nghiệp mở rất nhiều
tài khoản ở các ngân hàng thuộc các địa phương khác nhau, mà cơ quan thuế
không biết doanh nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng nào để yêu cầu cung cấp.
- Luật Quản lý thuế một phần chưa xác định rõ cơ chế bảo đảm thực hiện, nên đã
hạn chế tính khả thi của các quy định trong Luật Quản lý thuế và chính điều này
chưa thực sự khuyến khích tính tuân thủ pháp luật của chủ thể có nghĩa vụ thuế.
- Thiếu các quy định về nguyên tắc tổ chức hoạt động và cơ cấu tổ chức của bộ
máy quan lý thuế và nguyên tắc xử lý mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý thuế,
đặc biệt trong xu thế quản lý thuế hiện đại.
Thứ hai, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các vi phạm của các cơ quan
chức năng cũng chưa răn đe, chưa được quyết liệt.
- Công tác kiểm tra còn lỏng lẻo, không thường xuyên kiểm tra mà chỉ đột xuất,
hay khi có khả nghi về hành vi vi phạm xảy ra, thì mới kiểm tra.
- Công tác giám sát chưa chặt chẽ, mà gần như hoạt động giám sát không nhiều.
- Trong chế tài để xử phạt hành vi vi phạm chưa đủ mạnh để răn đe,chưa thật hà
4
khắc. Ví dụ: Nếu làm thất thoát hàng trăm triệu đồng, hàng tỷ đồng mà việc xử
phạt vài ba triệu đồng thì như vậy không ai sợ, vì khoản lợi mà họ thu được là rất
lớn. thậm chí có người còn chấp nhận ngồi tù vài ba năm để mang lại khoản lợi
nhuận cao hàng tỷ đồng. Vì hiện nay hình phạt cao nhất quy định tại BLHS năm
1999 là 7 năm tù còn mức phạt tiền cao nhất quy định tại BLHS năm 1999 là 7
năm còn mức phạt tiền cao nhất chỉ giới hạn bằng 3 lần số tiền thuế trốn. Nếu
không xử lý quyết liệt thì luật pháp không còn tính răn đe. Do đó, tình hình tội
phạm liên quan đến thuế, mặc dù đã được công luận cảnh báo cơ quan chức năng,
vẫn phát triển nhanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
- Công tác xử lý vi phạm vẫn là một ẩn số, mà cần quan tâm.
- Cơ quan thuế chưa thực sự chủ động trong công tác quản lý thuế. Một số cán bộ
thuế chưa làm tròn trách nhiệm thậm chí thoái hóa, biến chất vì tư lợi riêng để lợi
dụng. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá
nhân ăn cắp tiền thuế.
Thứ ba, Hiện nay để xác định một chủ thể vi phạm số tiền thuế là bao nhiêu là
một khó khăn lớn. Sau đó là trong quá trình xử lý vi phạm ở lĩnh vực xử lý hành
chính và xử lý hình sự đều đang gặp nhiều khó khăn, đó là tình hình luôn luôn gặp
phải. Ví dụ như xử lý vi phạm hành chính, cơ quan ra quyết định xử phạt mà các
đối tượng không thi hành, dùng mọi thủ đoạn để trốn chạy, gây khó khăn cho việc
thực thi, các cơ quan yêu cầu mãi mà không tìm được đối tượng, thì nản, rồi lại kệ
để đó không làm đến nơi đến chốn, điều đó có nghĩa đã vô hiệu hóa các quyết định
của cơ quan chức năng. Khi xử lý hình sự càng hết sức khó khăn nên một yêu cầu
nhất thiết là Bộ Công an, Bộ Tài chính và hai tổng cục cần kết hợp với nhau để
tháo gỡ vấn đề tồn tại, bàn bạc cân nhắc cụ thể.
Thứ tư, Trong nhu cầu sử dụng hàng hóa phần lớn hiện nay công chúng đi mua
hàng không lấy hóa đơn, đây là một thói quen mua hàng của chế độ cũ, chế độ nền
kinh tế lạc hậu. Việc lấy hoá đơn gần như chưa hình thành, có nhiều trường hợp
5